NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

46

TRUYỆN KỂ DÂN GIAN xứ BẮC VÊ CÁC NHÂN VẬT ANH HÙNG VĂN HOÃ

NGUYỄN HUY BỈNH

ác nhân vật anh hùng văn hóa trong truyện kể dân gian là những nhân vật huyền thoại do trí tưởng tượng của người dân hư cấu, nhào nặn mà thành hoặc cũng có thể là những nhân vật lịch sử được huyền thoại hóa. Các nhân vật này được miêu tả có trí tuệ hơn ngưòi, có công mở mang, khai sáng và phát triển văn hóa ở một hoặc một số lĩnh vực nào đó trong đồi sông người dân. Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, hình tượng nhân vật anh hùng văn hóa xuất hiện khá phổ biến qua nhiều bản kể khác nhau. Đề cập đến khái niệm anh hùng văn hóa, sách Bách khoa tri thức phổ thông trong mục từ “Phân biệt các khái niệm anh hùng văn hoá, anh hùng dân tộc” đã nêu rõ: “Anh hùng văn hoá, theo quan niệm của các nhà folklore là hình tượng nhân vật không có th ật trong lịch sử, có chí lón, có khí phách hiên ngang, có tính chất kì vĩ, có vai trò to lớn trong sáng tạo những thành tựu văn hoá thuở sơ khai (sinh ra con người, trời đất, chinh phục thiên nhiên, sáng tạo văn hoá vật chất, vằn hoá tinh thần...)”(1). Còn về vấn đề phân loại liên quan đến hình tượng nhân vật anh hùng văn hóa trong truyền thuyết dân gian, tác giả Kiều Thu Hoạch trong phần “Khải luận” bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4 Truyền thuyết® đã đề cập một cách trực tiếp đến vấn đề phân loại truyền thuyết về anh hùng văn hoá, coi đó là những truyền thuyết về các danh nhàn lịch sử; các tổ tiên nòi giống, dòng họ; các bách nghệ tổ sư...

Dựa trên các văn bản truyện kể sưu tầm ỗ xứ Bắc và dựa vào khái niệm, cách phân loại của các nhà khoa học đi trước, chủ yếu là quan niệm của tác giả Kiều Thu Hoạch, bưởc đầu chúng tôi xác định truyện kể dân gián xứ Bắc về các nhân vật anh hùng văn hóa bao gồm: Truyện kể về anh hùng văn hóa sáng tạo. tổ tiên nòi giông; Truyện k ể về anh hùng văn hóa chinh phục thiên nhiên và Truyện kể về anh hùng là tổ nghề.

1. Truyện kể về nhân vật sáng tạo

tổ tiên nòi giống

Truyện kể dân gian xứ Bắc về các nhân vật sáng tạo nòi giốíng lưu truyền ỏ tỉnh Bắc Ninh. huyện Thuận Thành, Đã có một số bài nghiên cứu đề cập đến hình tượng nhân vật anh hùng văn hóa trong truyện kể dân gian Việt Nam, cụ thể như bài “Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hoá trong truyền thuyết dân gian Không Lộ” đăng trên Tạp chí Văn học, số 6 năm 1974 của Nguyễn Quang Vinh. Bài viết này đã lí giải hiện tượng người anh hùng văn hóa được lồng kết với nhân vật tôn giáo mang đậm yếu tố Phật giáo. Bài “Motif người khổng lồ và anh hùng văn hóa” đăng trên Tạp chí Văn học, số 2 năm 1988 của tác giả Nguyễn Ngọc Thường đã nêu lên các môtíp cơ bản tạo nên các nhân vật khểng lồ và ngưòi anh hùng văn hóa trong truyện kể dân gian, v.v.

TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2011

47

tích thờ Lạc Long Quân - Âu Cơ và Thần bách noãn (trăm trứng) được gắn liền với các lễ tục và trò diễn khác nhau ở các địa phương xứ Bắc(5).

Truyện có nội dung kể về nguồn gốc ngưòi Việt “Con rồng, cháu tiên” vối các tình tiết xung quanh các nhân vật Lạc Long Quân - Âu Cơ. Hiện có ba bản kể khác nhau được SƯU tầm ở vùng này. Qua đốỉ chiếu cho thấy, tuy có nhiều tình tiết khác nhau, nhưng về cơ bản, nội dung các bản kể tương đốỉ thông nhất, đó là: Vào thời tổ tiên mỏ nước, có nhân vật Lạc Long Quân giống Rồng và Âu Cơ giống Tiên kết hôn với nhau, sinh được một bọc trăm trứng, nỏ thành trăm ngưòi con, 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ lên núi, rồi phong người con trưỏng kế vị làm vua, đó chính là Hùng Vương thứ nhất.

Cặp đôi Lạc Long Quân - Âu Cơ là đỉnh cao của sự phát triển tư duy lưỡng hợp thể hiện qua cuộc “hôn nhân thần thánh” (chữ dùng của Frazer). Đây là hai hình tượng đôì lập nhau, giữa: chim - thuồng luồng, núi - biển, đất - nước, đực - cái, ầm - dương... Tất cả phản ánh quá trình lưỡng hợp và lưỡng phân trong tư duy người Việt cổ. Đó là sự kết hợp của những cộng đồng mới thành lập và còn giữ lại được biểu tượng mang tính thông nhất, qua việc thờ tô tem vật tổ. Truyện kể về Lạc Long - Âu Cơ còn phản ánh thực tê' lịch sử giai đoạn dựng nước và bắt đầu ý thức về cội nguồn tổ tiên và dân tộc. Quá trình hình thành dân tộc Việt diễn ra trong một thời kì dài qua việc các liên minh bộ lạc “nhiều thị tộc hợp thành bào tộc, từ nhiều bào tộc hợp thành bộ lạc, từ nhiều bộ lạc hợp thành liên minh bộ lạc, từ nhiều liên minh bộ lạc hợp thành bộ tộc”<6). Vì vậy, truyện kể về tổ tiên nòi giông ra đồi nhằm phản ánh việc hợp nhất các bộ lạc về một nguồn gô'c chung.

Sự hợp nhất các bộ lạc cho thấy, trong mối quan hệ vổí tập thể, người Việt đã ý thức về đất nước, nòi giông. Họ cũng đã biết nhìn nhận về địa vực mình đang sinh sống như một dân tộc, quốc gia riêng. Nơi â'y, con cháu Lạc Long Quân đã hợp nhau lại thành nưổc Văn Lang gồm 15 bộ lạc. Đứng đầu nước là Hùng Vương. Tác giả Tầm Vu cho rằng: “Truyện Hồng Bàng hết sức phổ biến, thời đại công xã nguyên thủy và thòi đại liên minh bộ lạc để lại cho ông cha ta, cho chúng ta một tư tưởng vĩ đại, một lòng tin tô't đẹp có tác dụng lâu dài, chẳng những

ở Việt Nam, rất nhiều dân tộc có huyền thoại kể về nguồn gốc của mình(3), dân tộc Việt cũng không ngoại trừ. Theo một quy luật thông thường, con người tồn tại và đều muôn biết mình sinh ra từ đâu, cội nguồn ban đầu là gì; và truyện kể về tổ tiên nòi giông đã trả lời câu hỏi ấy. Mặt khác, câu chuyện về nguồn gốc dân tộc còn góp phần làm thiêng hoá tổ tiên nòi giông của người Việt. Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh khi bàn về vấn đề này đã viết rằng: “Đất nước ấy có Chim và Thuồng luồng ỏ. Hai giông này đại diện cho cuộc sống tự nhiên nói chung, chẳng bao lâu trỏ thành vật tổ của người Lạc Việt. Và tất nhiên nó được nhân hóa thành Mẹ Âu Cơ và Bố Rồng xứ Lạc là những người khai sáng lịch sử dân tộc. Mẹ và Bô' ấy đẻ ra trăm trứng trong cùng một bọc nở thành trăm con trai khổng lồ xinh đẹp. Mẹ và Bô' ấy lại chia đều con đi ỏ miền núi và miền biển thành ra đồng bào Thượng và Kinh bấy giờ”<4). Xung quanh truyện kể về tổ tiên nòi giống của người Việt còn để lại rất nhiều các dấu tích, đó là những nơi thò cúng và các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Có rất nhiều di

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

48

sấm chớp và mưa to, ông cào đất thành đồng ruộng, vun đá thành đồi gò, rẽ cát thành sông bãi... Dấu chân ông Đổng để lại, bà mẹ Gióng ra ưỡm thử rồi về sinh ra Gióng. Vì thế, dân gian gọi ông Gióng là ông Đổng con.

đến sự hình thành một dân tộc và sự thành lập nhà nước dân tặc Việt Nam, mà cả đến những cuộc đấu tranh cứu nưốc về sau nữa - tư tưỏng cùng nòi giống, cùng đất x nước, cùng giông Lạc Long Quân, đất nưổc Văn Lang”(7). Nhưng để duy trì được cuộc sông bình yên trong quá'trình sinh tồn, họ cần phải chinh phục những thử thách và hiểm họa của thiên nhiên, các truyền thuyết về anh hùng chinh phục thiên nhiên đã phản ánh được ước nguyện ấy.

2. Truyện k ể về nhân vật anh hùng chinh phục thiên nhiên

Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, hình tượng những nhân vật khổng lồ này hiện lên là các vị thần kiến tạo thế giới, hay các vị thần sắp xếp lại thế giới tự nhiên xung quanh con người bằng sức mạnh phi thường. Tác giả Nguyễn Ngọc Thưòng khi nghiên cứu môtíp các nhân vật khổng lồ đã nhận định rằng: “Lúc đó, loài người vừa thoát khỏi xã hội động vật để bước sang đời sống xã hội của lòài người. Vũ trụ lúc đó đôì với con người thật huyền bí. Ngưòi nguyên thủy không thể nào hiểu được các hiện tượng tự nhiên đơn giản như ban ngày sáng, ban đêm tôì, cũng như sấm chớp, bão lụt. Thế là, từ đó trong ý thức sơ khai của họ, trong nhận thức của họ, một thế lực thần linh đại diện cho sức mạnh tuyệt đối ra đời...”®.

Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, có một sô" câu chuyện kể về những nhân vật anh hùng văn hóa mang tính chất kì vĩ, khổng lồ. Họ có khả năng chính phục thiên nhiên và khai phá trời đất thuở hỗn mang, tiêu biểu là các nhân vật như bà Tồ Cô, ông Lộc Cộc, ông Đổng, Khổng Lồ... Những nhân vật này được miêu tả là những người có ngoại hình và sức mạnh phi thưòng. Bà Tồ Cô và ông Lộc Cộc là những người có thân hình cao lớn, đầu đội trăng sao, trán cộc trời, vai chạm mây, chân đứng lún đá, thủng đất. Ông bà để lại giữa đồng ruộng, trên đồi núi, trong ngõ làng những dấu chân khổng lồ ỏ: Chè Dọc, Lim, Kẻ Đổng, Tiên Lát, Phật Tích... Tương truyền, núi Nguyệt Hằng tục gọi núi Chè ỏ huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay chính là thân hình của bà Tồ Cô trải dài trên đó.

Truyện kể về nhân vật ông Đổng được lưu truyền ỏ vùng Bắc sông Đuông, đến nay vẫn còn có tảng đá in hằn dấu chân lớn của ông ỏ thôn Đổng Viên, xã Phù Đổng (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Tương truyền, ông Đổng là người cao lớn lạ thưòng, ông đi về trong gió bão, Truyện kể dân gian về các nhân vật khổng lồ đã phản ánh thế giối quan của con người thời kì cổ sơ của dân tộc, lúc ấy con người đã bắt đầu có ý niệm về ý thức và vật chất, đó là sự nhận biết về thế giới tự nhiên và con ngưồi theo tư duy huyền thoại. Càng về sau này, những nhân vật khổng lồ ngày càng gần với con người bình thường, được truyền thuyết hổa một cách mạnh mẽ. Đặc biệt, khi tồn giáo ngoại lai xâm nhập vào nưổc ta, các nhà truyền giáo đã sử dụng các giáo lí của mình kết hợp với hình tượng nhân vật thần thoại và tín ngưỡng bản địa để tạo ra các nhân vật tôn giáo mang đâm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc.

TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

49

thành chuông lớn, vượt biển khơi, diệt thuỷ quái... Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Vinh đã nhận định: “Rõ ràng trong truyền thuyết, tiến trình cuộc đời của một con người mang tên Không Lộ, chẳng qua chỉ là một cái cớ, đúng hơn, một cái “khung” để cho nhân dân dựa vào đó mà khôi phục và làm sống lại những hình thức tự sự cổ đại ca ngợi công cuộc sáng tạo văn hoá, nhằm khẳng định bản lĩnh nhân dân trong một giai đoạn phục hưng lổn của lịch sử dân tộc”(9). Hiện tượng nhân vật Không Lộ ban đầu là nhân vật Khổng Lồ rồi trở thành một nhà sư là một hiện tượng phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam, bởi có rất nhiều câu chuyện có nguồn gốc là thần thoại phản ánh tư duy, tình cảm và tín ngưỡng dân gian của người dân, sau lại được bồi đắp thêm những tầng văn hoá tôn giáo tạo ra một cốt truyện mới.

Cụ thể, từ khi Phật giáo vào nước ta, các giáo lí Phật giáo đã hoà cùng tín ngưỡng bản địa dân gian, tạo ra những truyền thuyết vừa thiêng liêng vừa gần gũi, truyền thuyết về Man Nương là một điển hình như vậy. Qua truyện kể, hình tượng người anh hùng văn hoá Man Nương hiện lên với chiến công giúp đ3 ngưòi dân khi hạn hán, đặc biệt là đã sinh ra những nhân vật tôn giáo có sức mạnh điều khiển các hiện tượng tự nhiên mây, mưa, sấm, chớp, rồi trỏ thành một vị Phật Mâu của ngưồi Việt. Tuy nhiên, trong tâm thức của người dân vùng Dâu, nguồn gốc ban đầu của nhân vật Man Nương chính là hình tượng nữ thần nông nghiệp vẫn không hề phai nhạt. Còn những nữ thần như bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn là biểu tượng của những lực lượng thiên nhiên mây, mưa, sấm, chớp đã được đồng hoá vối Tứ Pháp; hòn đá thiêng (thạch linh) - biểu tượng vật linh trong tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp Việt cổ cũng trở thành Phật Thạch Quang. Tất cả sự thay đổi ấy của nhân vật đều mang đậm dấu ấn Phật giáo.

Cũng liên quan đến môì quan hệ giữa Phật giáo và nhân vật anh hùng văn hóa, trong truyện kể dân gian xứ Bắc còn có truyện kể về nhân vật Không Lộ. Nhân vật này được ghi chép trong sử sách với tư cách là một nhà sư, nhưng trong tâm thức dân gian, hình tượng nhân vật Không Lộ là một nhân vật của dân gian, một con người khoẻ mạnh, hồn nhiên, hùng vĩ và cao đẹp. Hình tượng nhân vật Không Lộ hiện lên trong truyền thuyết như một anh hùng vãn hoá đầy tài năng; có khi là một người đi đăng đó với những vết chân khổng lồ đã hoá đá còn in dấu ỏ núi Dạm thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; có khi là người đi tìm đồng để đúc Bên cạnh ảnh hưỏng của Phật giáo, các nhân vật anh hùng văn hóa trong truyện kể dân gian Việt Nam đã được lồng kết với triết thuyết của Đạo giáo làm cho nguồn gốc và hành trạng của nhân vật vừa gần gũi lại vừa mang tính chất linh thiêng huyền ảo. Tiêu hiểu là truyền thuyết về Thánh Mẫu Thượng Ngàn lưu truyền ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang mà dấu tích còn gắn với năm bậc thác suối Mỡ. Hay truyện kể về Bà Chúa Thượng Ngàn là công chúa La Bình hiện vẫn còn được lưu truyền ở đền Bắc Lệ, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Trong các truyện kể, các nhân vật anh hùng văn hóa là Thánh Mâu Thượng Ngàn đều là những người quyền quý, có phép thuật và che chở cho nhân dân trong những chuyến đi rừng, vượt suôi đầy hiểm hoạ. Họ được nhân dân các vùng rừng núi thờ khắp các hang động núi non, thậm chí

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

s o

thd cả trong các điện thò tại gia đình. Dân gian còn gọi là Bà chúa rừng xanh, là vị thần hóa thân của Thánh Mâu toàn năng trông coi miền rừng núi.

và mang lại bình yên cho dân chúng nơi đây. Việc xuất hiện những bản kể về Mâu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải cũng như các nơi thò, các nghi thức sinh hoạt thực hành nghi lễ trong dân gian xứ Bắc là một minh chứng cho quá trình phát triển và tồn tại tín ngưỡng truyền thông của vùng văn hóa xứ Bắc.

Trong hệ Tam toà Thánh Mâu còn có truyện kể về bà Mẫu Thoải (Thủy) cũng mang dáng dấp nhân vật anh hùng văn hóa. Theo sách Các nữ thần Việt Nam™, sự tích về bà đến nay vẫn chưa được rõ ràng, mỗi nơi hiểu theo một cách. Tuy nhiên, có một điểm chung thống nhất là trong tâm thức dân gian xứ Bắc, hình tượng bà Mâu Thoải luôn được tôn thò là người coi sóc các sông biển, làm mưa và chống lụt giúp nhân dân. Trong những năm hạn hán mất mùa, ngưdi dân cầu đảo và viện đến sự phù hộ của bà thì thưòng linh ứng.

Trong đời sông tín ngưỡng dân gian xứ Bắc, Mâu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải là những nhân vật rất nổi tiếng. Theo truyền thuyết, nhân vật Mẫu Thoải có nguồn gốc thủy thần, nhân vật Mâu Thượng Ngàn có nguồn gốc sơn thần. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh nhận định rằng: “Các nhân vật này ít nhiều gắn bó với những nhân vật lịch sử nửa huyền thoại của buổi huyền sử dân tộc, như Tản Viên, Hùng Vương, Âu Cơ (Mâu Thượng Ngàn) hay Long Vương, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên (Mâu Thoải). Trong Tam tòa Thánh Mâu, ta còn thấy có sự kết hợp, đan quyện giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (Trời, Đất, Nưốc), tư duy huyền thoại (thiên thần, sơn thần và thủy thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương). Đây là một lí đặc thù của Việt khía cạnh tâm Nam”(11). Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, các nhân vật anh hùng văn hóa này thưòng có quyền phép, hiển linh để cai quản, trông coi vùng sông nước, rừng núi, Trong truyện kể dân gian xứ Bắc còn có truyện kể về nhân vật nữ thần khai phá đầm lầy dọc sông cầu là Bà Chúa Lẫm (Kho). Qua trang truyền thuyết, ố mỗi giai đoạn, hình tượng Bà Chúa Kho có vai trò khác nhau. Ban đầu, hình tượng Bà là hiện thân của tục thờ nữ thần nông nghiệp với ước muốn sinh sôi nảy nỏ, tiếp đến trở thành anh hùng văn hóa chinh phục thiên nhiên, khai phá đất hoang. Cho đến thời nhà Lý, hình tượng Bà Chúa Kho được gắn vói một hoàng hậu tài ba và đức độ, một anh hùng lịch sử. Rồi trong quá trình thờ cúng, Bà Chúa Kho khoác lên mình y phục của một vị Thánh Mâu làm nhiệm vụ ban của cải và phước lành cho người dân. Sự biến thiên của truyền thuyết về Bà Chúa Kho tùy thuộc vào vai trò của hình tượng của bà trong đòi sông tâm linh. Tác giả Trần Thị Thủy trong bài viết “Tìm hiểu tục thờ Bà Chúa Kho ỏ làng Quả cảm ” cho rằng: “Bà Chúa Kho trỏ thành một hình tượng anh hùng văn hóa (hay chính xác hơn, mang dáng dấp của người anh hùng văn hóa), Bà hiện thân cho công cuộc chinh phục thiên nhiên và khai khẩn vùng đất trũng ven sông cầu ”(12>. Trong truyện kể dân gian, Bà là người cải tạo và biến những vùng đất hoang hóa thành đồng ruộng tươi tốt, mùa màng bội thu. Việc làm đó của Bà cũng chính là ước muôn từ ngàn đời nay của những cư dân nông nghiệp lúa nước ở khu vực đồng bằng sông Hồng.

TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

51

những yếu tố tín ngưỡng đặc sắc của dân tộc Việt, mẹ Âu Cơ sinh ra những ngưòi con đất Việt, rồi dạy cho họ biết cách thức làm ăn sinh sông. Mẹ Âu Cơ vừa là thuỷ tổ dân tộc, vừa là tổ nghề của những cư dân đồng bằng sông Hồng, những cư dân này ban đầu tập trung sinh sống ven các dòng sông cổ, lấy nông nghiệp lúa nưóc là nghề chủ yếu. Truyền thuyết Âu Cơ dạy dân khai phá đất hoang, trồng lúa nước phản ánh sự mở mang tổ chức sản xuất và phát triển đời sông trên cơ sỏ khai phá tự nhiên, đây cũng là thời kì con người xứ Bắc bắt đầu ý thức về việc chiếm lĩnh thế giới tự nhiên.

Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, những nhân vật anh hùng văn hóa chinh phục thiên nhiên mang đậm yếu tố tôn giáo, đặc biệt là Đạo giáo và Phật giáo. Hai tôn giáo này khi vào nước ta đã lựa chọn hình thức rất gần gũi và hiệu quả trong việc truyền giáo, đó là việc dựa vào các tín ngưõng dân gian bản địa, hoặc các các nhân vật huyền thoại, khổng lồ. Chính vì vậy, nhiều truyện kể dân gian như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích... đã bị sửa chữa, thêm bớt, chế biến lại theo tinh thần các quan điểm của các tôn giáo mới du nhập. Tiếp nối quá trình chinh phục thiên nhiên hùng vĩ, con người còn biết sáng tạo ra các ngành nghề phục vụ cuộc sống của mình, và truyện kể vê' các vị tổ nghề phản ánh quá trình sáng tạo ấy.

3. Truyện kể về nhân vật anh hùng là tổ nghề

Truyền thuyết tổ nghề dệt vải kể về bà Choá. Tương truyền bà Chóa là con gái của bà Tồ Cô, bà .chăm chỉ làm ăn và ỏ xa mẹ nhất. Sau khi lấy chồng dưới thuỷ cung, bà nhớ mong mặt đất và ấp ủ dự định trồ về. Bà đã biến vùng ven sông thành những vưồn dâu xanh thẳm và sáng tạo ra nghề dệt lụa quay tơ. Bà trỏ thành tổ nghê' trồng dâu, dệt vải. Trong thực tế, nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải gắn bó vối đdi sông của người dân xứ Bắc từ bao đời nay. Các làng nghề này mang đến cho người dân việc làm và nguồn sống, và người dân ỏ đây đã tạo ra những sản phẩm từ bàn tay khéo léo và kinh nghiệm của mình. Trong cuộc sống của con người, dệt vải có thể giúp con người chông giá rét và mang lại vẻ đẹp cho chính bản thân họ. Cho đến nay, nghề này vẫn được duy trì ỏ nhiều làng xã trên địa bàn xứ Bắc.

ở • xứ Bắc, hầu hết các ngành nghề truyền thống phát triển đều có tục thờ cúng tổ nghề. Đó là những ngưồi sáng tạo ra một nghề hoặc đã mang nghề từ địa phương, vùng miền khác truyền lại cho dân làng; các nghề ấy dần dần giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân. Các nhân vật’ này còn được gắn với các truyện kể lưu truyền trong dân gian. Khảo sát những tư liệu đã sưu tập cho thấy, truyện kể dân gian về các tổ nghề xứ Bắc có 13 bản kể về 13 nhân vật, đó là: tổ nghề nông nghiệp, tổ nghề dệt, thuỷ tổ quan họ, tổ nghề chữa bệnh, tô’ nghê' rèn, tổ nghề sành gốm... Các vị tổ nghề này có lai lịch và hành trạng rất đa dạng.

Truyện kể dân gian xứ Bắc về nhân vật anh hùng văn hóa còn phản ánh quá trình phát triển văn nghệ dân gian với truyền thuyết kể vê' thủy tổ quan họ của mình, người dân quan họ gọi vị thủy tổ ấy bằng cái tên vừa trang trọng lại vừa thân Truyện kể về tổ nghề nông nghiệp thuộc thời khởi thuỷ dân tộc kể rằng, mẹ Âu Cơ đã dạy dân trồng lúa nước, trồng dâu, dệt vải và được tôn là tổ nghề nông của nước ta. Đây là câu chuyện chứa đựng

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

52

nưốc ta. Đó là truyện kể về tổ nghề rèn đã nghĩ ra cách thức đúc ngựa sắt, vũ khí sắt cho Thánh Gióng đánh giặc ở các làng Y Na, Mai Cương thuộc bộ Vũ Ninh; sau này được nhân dần lập đền thờ ỏ vùng Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay. Truyền thuyết khác về tô’ nghè rèn là Lư Cao Sơn kể rằng Lư Cao Sơn là người làng Nga Hoàng, huyện Quế Dương (thuộc huyện Quế Võ ngày nay), tỉnh Bắc Ninh. Ông là ngưòi mạnh bạo và rất giỏi, sau khi đánh tan quân Thục, ông đã theo học rèn sắt trong bảy năm liền. Khi trở về, ông dạy lại cho dân nghề này. v ề sau ông mất, có rất nhiều các làng nghề rèn ở xứ Bắc thờ ông làm tổ sư. mật đó là Vua Bà. Có truyền thuyết cho rằng bà là con gái vua Hùng, có truyền thuyết cho rằng bà là con gái Long Vương, có truyền thuyết cho rằng bà là con gái của bà Tồ Cô, lại có truyền thuyết cho rằng bà là người con gái vùng Quả Cảm có giọng hát tuyệt hay... Một trong số truyền thuyết tiêu biểu kể về Nhữ Nương - con gái bà Tồ Cô là sau khi lấy chồng ở dưới thủy cung đã hát nhiều bài tuyệt hay cho vua Thủy Tề và thủy phủ nghe, rồi nàng luyện mãi thành ba mươi sáu giọng điệu. Khi trồ về trần gian, nàng đem dạy cho các liền anh liền chị những giọng điệu đó. Bà Nhữ Nương được dân làng tôn là đức Vua Bà - thủy tổ Quan họ.

Nôì tiếp truyền thông sáng tạo các vũ khí bằng sắt phục vụ chiến trận, còn có truyền thuyết về nhân vật anh hùng văn hóa tài ba Cao Lỗ. Tương truyền, sau khi được thần Kim Quy đưa một cái vuốt và dặn dùng nó làm nỏ thần thì sẽ chông được giặc ngoại xâm, vua An Dương Vương đưa vuốt rùa cho viên tướng Cao Lỗ để làm lẫy nỏ như lòi dặn của thần. Triệu Đà mấy lần đem quân sang đánh, nhưng bên này An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn. Mỗi phát bắn ra hàng ngàn mũi tên tua tủa, kẻ địch dù đông cũng khó lòng sống sót. Cao Lỗ được tô n ' vinh là tổ nghề lẫy nỏ của người Việt, tục còn gọi là “Ông Nỏ”.

Liên quan đến nghề chữa bệnh, có một mảng truyện kể với một số nhân vật khác nhau. Đó là truyện kể về Bà Chúa Vinh, bà vô tình học được các bài thuốc rồi đem chữa bệnh cho nhân dân. Hay truyện kể về bà tổ nghề Đông y ỏ làng Nành thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội (xưa thuộc xứ Bắc) được tiên ban cho quyển sách quý, từ đó lòng dạ được mỏ mang, đầu óc sáng suốt. Bà khuyên nhân dân trồng nhiều các cây thuốc và chữa bệnh cho dân. Có thể nói, thờ tổ nghề chữa bệnh đánh dấu một bước phát triển của sự nhận thức, đó là việc con ngưòi đã ý thức về sự sông và cái chết, họ mong muôn được tồn tại lâu dài, nhưng trên thực tế, cuộc sống luôn ẩn chứa những nguy hiểm, bệnh tật. Khi đạo giáo xuất hiện vối giáo lí về sự bất tử của con người đã mang đến cho người dân niềm mơ ưổc được sông dài lâu, điều này đã được phản ánh qua truyện về tổ nghề mang đậm dấu ấn thần tiên Đạo giáo.

Trong truyện kể dân gian xứ Bắc, có một sô' truyện kể về các tổ nghề rèn của Có thể nói, các truyền thuyết về tô’ nghề rèn và tổ nghề lẫy nỏ thời Văn Lang - Âu Lạc đã đánh dấu một giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội từ thồi đồ đá sang đồ đồng và đồ sắt. Cách ngày nay mấy nghìn năm, các cư dân Việt Nam ở lưu vực sông Hồng đã bước vào một thời kì phát triển mới, đó là thồi đồng thau hay còn gọi là thời kì Tiền Đông Sơn, thời kì này tương ứng với thời

TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

53

đến mãi tận về sau này, thế kỉ XVHI. Nó đã chứng tỏ một điều là trong chiều dài lịch sử phát-triển của người dân xứ Bắc, đã tồn tại hệ thống truyện kể về tổ nghề được phản ánh qua tục thò Thành hoàng. * *

đại Hùng Vương, An Dương Vương. Qua truyền thuyết cho thấy, các vị tổ nghề rèn là những người có công sản xuất ra vũ khí chống giặc cứu nước. Bằng tài năng của mình, họ đã sáng tạo ra vũ khí, hoặc sau đó biết được cách chế tác của chính quân giặc, rồi mang về nước truyền dạy cho dân làng.

* Trong truyện kể dân gian xứ Bắc về các nhân vật anh hùng văn hóa, nổi bật lên là môtíp về người anh hùng có sức mạnh phi thưồng có thể chinh phục thiên nhiên, sinh ra loài người, tạo ra những vùng đất trù phú, những làng nghề, những bài hát và những cánh đồng rộng lớn còn lưu lại qua những địa danh xứ Bắc. Về mặt nội dung, truyện kể về các nhân vật anh hùng văn hóa đã phần nào phản ánh xung đột giữa con ngưòi với thiên nhiên, phản ánh tư duy huyền thoại trong nhận thức của người dân khi đã biết ý thức về bản thân, về tổ tiên nòi giống, về sự sông và cái chết, biết mở mang các ngành nghề để tạo ra các dụng cụ lao động mới của con người.

Bên cạnh truyền thuyết về những nhân vật tổ nghề mang dấu ấn huyền thoại ỏ thời Văn Lang - Âu Lạc, còn có những truyện kể về tổ nghề là các nhân vật lịch sử. Họ là những con người bằng xương, bằng thịt, bằng bàn tay khôi óc của mình đã khám phá và sáng tạo ra các ngành nghề. Đó là truyện kể về tổ nghề gò đồng ỏ làng Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; truyện kể về tổ nghề đậu phụ được lưu truyền ở làng Trà Lâm, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; truyện kể về Bà Chúa Sành lưu truyền ở làng Đương Xá, thành phô" Bắc Ninh... Có thể nói, trong đdi sống vật chất, con ngưòi luôn tạo ra cho mình những công cụ và phương tiện hữu ích nhằm phục vụ bản thân và cộng đồng. Kể từ thời Lý - Trần, đã có những tiến bộ lớn trong việc phát triển các nghề thủ công như: nghề dệt lụa, làm đồ gốm, luyện kim, đúc chuông. Càng về sau này, các nghề ấy càng được nâng cao và phát triển. Truyện kể về các tổ nghề thủ công đánh dấu một giai đoạn sáng tạo, chế tác công cụ, ngành nghề lao động.

Về mặt thể loại, trong truyện kể dân gian xứ Bắc về nhân vật anh hùng văn hóa đã diễn ra quá trình truyền thuyết hóa thần thoại. Ban đầu, các truyện kể này mang đậm tính chất của thể loại thần thoại, thể hiện qua việc những nhân vật trong truyện kể thưòng là nhân vật khổng lồ, mạnh mẽ, tài năng, đã làm được những công việc lớn lao cho loài người như hình tượng Lạc Long Quân, Âu Cơ, ông Đổng, ông Khổng Lồ, bà Chúa Thượng Ngàn,... Về sau, trải qua quá trình lịch sử hóa, địa phương hóa, các thần thoại đã được sáng tạo và tái sáng tạo một cách mạnh, mẽ, làm cho diện mạo, bản chất nguyên sơ không còn nguyên dạng nữa. Các thần thoại đã mang cả tính chất truyền thuyết và nó đã dần trở thành những truyền thuyết. Tuy nhiên, các yếu tố thần thoại, Truyện kể dân gian về nhân vật tổ nghề được lưu truyền rộng khắp trong không gian văn hoá xứ Bắc, hầu hết các làng nghề nơi đây đều thờ cúng ghi nhớ công ơn của họ, “Tổ nghề được tôn sùng là Thành hoàng cai quản không gian thiêng cả làng”(13). Nếu tính dọc theo trưòng kì lịch sử của dân tộc thì dấu ấn truyện kể về các vị tổ nghề từ thời kì khởi nguyên

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

Rước nước hay còn gọi là Phục ruộc. ở làng Ngọ Xá thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có nghi thức Thả trứng để diễn tả lại sự tích Lạc Long Quân - Âu Cơ...

54

hay nói cách khác là các “mảnh vụn” của thần thoại vẫn còn lưu dấu vết rết đậm trong các truyền thuyết, nó tạo ra sự hỗn dung về thể loại.n

(6) Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, H., tr. 102.

N.H.B

CHÚ THÍCH

(1) Nhiều tác giả (2005) Bách khoa tri thức p hổ thông (tái bản lần thứ năm), Nxb. Văn hoá - Thông tin, H., tr. 1155.

(7) Tầm Vu (1967), “Tư tưởng chủ yếu của người Việt trong những truyện đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 65.

(8) Nguyễn Ngọc Thưòng (1988), “Motif ngưòi khổng lồ và anh hùng văn hóa”, Tạp chí Văn học, số 2 , tr. 61.

(2) Kiều Thú Hoạch chủ biên (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4: “Truyền thuyết dân gian ngưòi Việt”, Nxb. Khoa học xã hội, H., tr. 35.

(9) Nguyễn Quang Vinh (1974), “Hình bóng người anh hùng sáng tạo vãn hoá trong truyền thuyết dân gian Không Lộ”, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 64.

(3) Xin xem Đặng Nghiêm Vạn, “Huyền thoại về nguồn gốc các tộc người”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 nãm 1987, số 3 + 4 năm 1988, sô" 2 năm 1991.

(4) Cao Huy Đỉnh (1971), “Thần thoại và sử ca dân gian thời cổ”, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 31.

(10) Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1993), Các nữ thần Việt N ạ m . (in lần thứ hai), Nxb. Phụ nữ, H., tr. 39.

(11) 'Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa' - Thông tin, H., tr. 30.

(12) Trần Thị Thủy (2009), “Tìm hiểu tục thò Bà Chúa Kho ở làng Quả cảm ”. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 5, tr. 51.

(13) Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, Hs, tr. 49.

(5) Tiêu biểu là ở làng Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh thò thành hoàng là Lạc Long Quân, hằng năm cứ vào ngày mùng 6 tháng 2 thì tổ chức lễ hội. Trước đây, trong những ngày hội, dân làng tổ chức các trò chơi dân gian, như: Trò rồng lột (hay còn gọi là Múa Rồng, Đóng Lốt), trò Ném cây bông, trò Lao cây đám... để thò cúng và tưởng nhớ Lạc Long Quân, ở thôn Á Lữ thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có đền và đình thò Lạc Long Quân - Âu Cơ, trong lễ hội có nghi thức

KÉ THỪA VÁ PHÁT HUY

(Tiếp theo trang 45)

thể trên cơ sồ khai thác các trò chơi và trò chơi dân gian vốn có sẽ tạo cho các em không gian được vui chơi và giải toả tâm lí sau những hoạt động học tập căng thẳng.

động vui chơi, song sô" lượng chưa được nhiều và cũng chưa có tính chất đại trà. Do đó, việc nghiên cứu, biên soạn và triển khai các trò chơi - đồng dao để bổ sung vào nội dung vui chơi cho trẻ em trong các nhà trưồng mầm non, tiểu học và cộng đồng xã hội hiện nay là một việc làm cấp thiết và hết sức có ý nghĩa, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng đòi sông văn hoá cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn. □

Đ.M.C Hiện tại, một số nhà văn hóa, bảo tàng dân tộc, sở giáo dục và đào tạo của một số địa phương đã chỉ đạo các câu lạc bộ, các nhà trường tích cực đưa những trò chơi dân gian, bài hát và trò chơi - đồng dao vào nội dung giáo dục và các hoạt