NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



MẤY NÉT ĐẶC SẮC CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN THỪA THIÊN HUẾ CỔ TRUYỀN
(DÂN TỘC KINH)
TRẦN HOÀNGP')
đặc sắc của văn học dân gian Thừa Thiên Huế trên một số bình diện chủ yếu về thể loại, và nội dung và nghệ thuật tác phẩm - Sự phát triển các thể văn vần, sự gắn bó giữa cấu trúc lời ca và làn điệu âm nhạc và tính chất trữ tình sâu lắng... đó là những nét nổi bật của Văn học dân gian cổ truyền (dân tộc Kinh) Thừa Thiên Huế.
1- Thời nào cũng vậy, do bị chỉ phối bởi tính tập thể và tính truyền miệng trong phương thức sáng tác, diễn xướng và lưu truyền, Văn học dân gian (VHDG) thường in đậm dấu ấn chung của cả cộng đồng dân tộc. Nhiều câu tục ngữ, câu đố, ca đao; nhiều bài vè, nhiều truyện cổ tích và truyện cười v.v... phổ biến ở cả miền Trung, Nam, Bắc nước ta, rất khó xác định vùng đất nào đã sinh thành ra nó. Dù vậy, khi nghiên cứu các sáng tác dân gian, không thể nào không đề cập đến tính đặc thù và những nét đặc sắc riêng của loại hình Văn học này ở từng vùng đất cụ thể. Tất nhiên làm được điều này không phải là dễ, bởi VHDG là những sáng tác vô danh, lại không rõ thời gian
1ä. viết đi sâu phân tích một số nét
°'` Giáo viên khoa Giáo dục tiểu học, Đại học Sư phạm Huế.
nó được tạo ra. Thực tế cho hay rất nhiều cuốn sưu tập VHDG các địa phương được xuất bản ô ạt trong vài chục năm qua ở nước ta đã không lưu ý đúng mức đến việc khoarh vùng, đến tiêu chuẩn tuyển chọn nên đã đưa hàng loạt các tác phẩm không phải là của địa phương mình vào. Ehông ít tập sách VHDG ghi rõ tên từng tỉnh, từng huyện mà cứ na ná như nhau. Đọc những tập sách như vậy, người ta khó mà tìm ra những cái hay, những nét đặc sắc của VHDG từng vùng đất.
Ở Thừa Thiên Huế, trong vòng ba chục năm trở lại đây đã có hơn chục tập sách sưu tầm, tuyển chọn, bình giải các tác phẩm VHDG được xuất bản. Hầu hết các thể loại VHDG từ truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, truyện cười đến tục ngữ, ca dao - dân ca - vè?... đều được các nhà Folklore Huế khai thác, không chỉ trên phương diện tập hợp tư liệu mà còn được phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng trên nhiều mặt như cấu trúc thể loại, nội dung, thi pháp v.v...
2- Trên cơ sở tư liệu đã có, kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, qua thực tế nhiều cuộc điền dã của mình, chúng tôi thử mạnh đạn nêu lên một số nét đặc sắc của VHDG cổ truyền đân tộc Kinh ở Thừa Thiên Huế, mong cùng được trao đổi với các đồng nghiệp.
2-1. Trước hết, xét trên bình diện thể loại chúng ta thấy các thể Văn uần (như tục ngữ, câu đố, ca dao) đổi dào phát triển hơn các thể loại Văn xuôi (truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn). Hiện tượng này ta cũng gặp ở VHDG một số địa phương khác, song ở Huế đường như rõ nét hơn, đậm đặc hơn. Phải chăng vì Huế từ lâu vốn đã là xứ sở của thi ca, nhạc, họa. Thiên nhiên mỹ lệ, con người thanh lịch 38
TRẦN HOÀNG
——————Ễễễễ—ễễễễễ—ễễ————ễễễ=ễE=EễễEễẼễẼễẼễEẼễễỄỆỀỄ °ỀỄễ=
của đất thành kinh thiên về xu hướng trữ tình, nên nguồn thơ ca trở nên đồi đào lai láng... Vả lại, truyện kể dân gian thường chỉ hình thành khi nội dung câu chuyện mà nó đề cập đến đã trở thành "cái đã qua" đã thuộc về "ký ức". Xứ Huế, so với các vùng quê từ Nghệ Tĩnh trở ra, dù sao vẫn là vùng đất mới. Bề dày lịch sử chưa cho phép nó tạo ra được nhiều loại hình truyện kể dân gian. Hẳn là vì vậy mà ta hiểu vì sao thần thoại và truyện cổ tích thần kỳ hầu như vắng bóng trong kho tàng truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế.
2-2. Thuộc thể văn vần, ca đao với tư cách là một loại thơ dân gian chiếm một khối lượng lớn nhất so với thể loại khác trong di sản VHDG vùng quê núi Ngự sông Hương. Đặc biệt phần lớn các bài ca đều có cội nguồn từ các làn điệu dân ca địa phương. Nó là phần lời của các điệu hò, điệu lý; hoặc được đặt ra để hát, để hò. Ở đây thành phần lời và yếu tố âm nhạc đã có sự gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Cấu trúc nhiều bài ca đao bị chỉ phối bởi cấu trúc làn điệu dân ca. Chính vì vậy phần lớn các bài ca dao xứ Huế được sáng tác theo thể song thất lục bát (và biến thể của nó). Điều này thể hiện rõ trong các bài hò mái nhì, mái đẩy. hò khoan, hò giã gạo... Thống kê từ 263 đơn vị tác phẩm được in trong tập Dân ca Bình Trị Thiên (do Trần Việt Ngữ, Thành Duy sưu tâm biên soạn) từ trang 5ð đến trang 124 (phần hò mái nhì, hò mái đẩy) chúng tôi thấy có 217 bài viết theo thể song thất lục bát (chiếm tỷ lệ trên 82%). Sự chặt chẽ trong cấu trúc lời ca của hò mái nhì, mái đẩy đã được nhà thơ Xuân Diệu mô tả và lý giải rất cặn kẽ trong lời bạt viết cho sách Dân ca Nam Trung bộ (Nxb Văn học, Hà Nội 1968, tr.286) như sau:
"Ở đây cốt lõi lời hò là một câu lục bát. Trên câu lục bát ấy thì kiến thiết hai câu song thất, nhưng lục bát thường thêm nhiều chữ, song lục bát có khi thay bằng bốn câu bốn chữ và còn biến hóa hơn nữa, nhưng đại đa số trường hợp, một bài hò mái đẩy thì thường có bốn câu; trong khuôn khổ bốn câu đó, trong loại thơ tứ tuyệt đặc biệt này, ý tình phải trở thành một đơn vị thống nhất".'®?
Bên cạnh hò khoan, hò giã gạo, hò mái nhì, mái đẩy, sự ra đời và phát triển mạnh của lý Huế - trong đó có rất nhiều bài đạt trình độ mẫu mực, "cổ điển" trên các bình diện diễn xướng, thang âm, điệu thức, ca từ... (như các bài lý giang Nam, lý Hoài Nam, Lý ngựa ô, lý tử vi...) cũng là một minh chứng hết sức thuyết phục về sự gắn bó giữa ca dao (hiểu dưới góc độ là một thể thơ dân gian) với các làn điệu đân ca trong VHDG xứ Huế.
Ca dao vùng đất cố đô không chỉ chặt chẽ về phương diện cấu trúc mà còn rất tinh tuý, chất lọc, trau chuốt, mượt mà về phương diện ngôn từ. Đọc ca dao xứ Huế chúng ta như được đọc các vần thơ do các cây bút chuyên nghiệp và tài hoa sáng tác. Nhiều bài ca dao rất giàu nhạc tính, giàu hình ảnh. Xin dẫn một đôi bài làm ví dụ:
- Dưới uườn dưa lưa thưa trang sắp
Mảnh chắp, mảnh rời em lặn lội
trong trăng
Lội trong trăng em băng qua cồn cát
Xao xác bụt bờ, man mác sương sa
Sương sa thì mặc sương sa
Chợ xa, mùa đến, cửa nhà em lo
- Sóng sâm sịch ì âm ngoài biển Bắc
Mưa rì rào rỶ rắc chốn hòng hiên
Muốn làm lơ đi mà ngủ cho yên
Sợ mưa gia, nước ngập biết dựa con
thuyền uào đâu NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Không ít bài ca dao Huế sử dụng các điển cố, điển tích, các thành ngữ, tục ngữ Hán, Việt... trong diễn đạt. Chính vì thế mà các bài ca dao này không chỉ đậm đà sắc thái dân gian mà phần nào đó còn gần gũi với thơ ca bác học. Phải chăng bề dày văn hóa đất thần kinh, cùng với sự tham gia vào hoạt động văn nghệ dân gian của nhiều tao nhân, mặc khách nơi đây (như công chúa Mai Am, như Ưng Bình Thúc Gia Thị như sư Viên Thành...) đã làm cho ca dao Huế có chiều sâu về nội dung và đạt tầm cao về nghệ thuật biểu đạt. Thực tiễn cho hay rằng nhiều bài ca dao Huế lưu truyền trong dân gian được sáng tác bởi cây bút của các thi nhân.
2-3. Văn học dân gian, "từ thời viễn cổ luôn luôn là người bạn đồng hành, khăng khít và đặc thù của lịch sử" (M. Gorki). Luận đề này, chúng tôi thấy cũng được thể hiện rõ trong quá trình hình thành và phát triển của VHDG Thừa Thiên Huế. Có thể nói rằng VHDG vùng đất này chính là tấm gương phản chiếu rất trung thực lịch sử - xã hội, cuộc sống nơi đã sinh thành ra nó. VHDG gắn bó với đời sống thực tiễn của địa phương và là một bộ phận hợp thành của nhiều sinh hoạt xã hội từ lao động, tế cúng thánh thần đến giải trí, vui chơi... Tục ngữ, ca dao, truyền thuyết... thể loại nào cũng dày đặc các sự kiện lịch sử, các tên người, tên núi, sông, làng xóm, tên danh lam thắng cảnh địa phương... Phần 1 từ trang 18 đến trang ð3 cuốn Ca đao xứ Huế bình giải (toàn tập) của cụ Ưng Luận, xb năm 1999 giới thiệu 40 bài thì đã có 30 bài ghi các địa danh (tỷ lệ 7ð%). Riêng 1 bài Đấr Thừa Thiên trai hiền gái lịch chỉ có 6 câu mà chứa đến 9 tên chùa chiền, cầu cống, bãi gò... Hay như một câu hò sau đây cũng có không ít địa danh:
Mít chuố! thì có huyện ngoài
Lúa khoai thì có huyện Phong, huyện Quảng
Vốn làm hải sản thì có Phú Lộc, Phú Vang
Quê ta biển bạc rừng uàng
Chè thơm có Hương Trà, mía ngọt có Hương Thuỷ nuôi được nhân gian thúng ngày.
Hầu hết các sự kiện lịch sử lớn nhỏ ở xứ Thuận Hoá suốt mấy trăm năm qua đền được VHDG ghi lại hoặc nhắc đến: Từ sự kiện công chúa Huyền Trân gá nghĩa cùng với vua Chế Mân năm 1306, và cuộc đua tài, thử trí giữa hai dân tộc Việt Chăm (Sự tích thành Lồi, sự tích thôn Mộc Trụ), đến việc chúa Nguyễn Hoàng chọn đất đóng đô (Sự tích chùa Thiên Mụ), từ việc:
"Một nhà sinh đăng ba uua
Vua sống, uua chết, uua thua chạy dài" đến cuộc thất thủ kinh đô (Vè thất thủ binh đô). Rồi vua Tự Đức xây Vạn niên làng, rồi bão nổi năm Thìn (1904), cầu Trường Tiền gãy nhịp, rồi "Tây lại sử sang, dăng giây thép, họa địa đồ nước Nam” v.v... Tất cả đều in đậm dấu ấn trong VHUÙG xứ Huế. Truyền thuyết ở các làng xã còn kể lại nhiều câu chuyện rất thực về những ngày đầu gian khổ đi mở đất lập làng của cư dân từ các tỉnh phía Bắc vô. Tục ngữ, ca dao cũng không ít bài nói đến sản vật, đến thắng tích của các địa phương, ví như:
+ "Dừa Mỹ Á, cá Tam giang
Trống An Giá, thanh la Thạch Bình, đình xã Khuông, chuông Thủ Lễ"°)
+ "Đồng Lâm đi rập, đi ràng
Sơn Tùng dan bị hai hàng ăn chung "®
Từ một số dẫn chứng vừa nêu trên, ta có thể xem VHDG là một nguồn tư liệu quý để các nhà sử học, địa phương học 40
TRẦN HOÀNG
==——————======—ễ ẸẶẸẶ
nghiên cứu khi họ dựng lại lịch sử vùng đất đầy ắp những sự kiện vừa hào hùng, vừa dữ dội bên bờ sông Hương này. Hơn thế nữa, tác phẩm VHDG còn cho ta biết thái độ, tư tưởng, tình cảm, nghĩ suy của quần chúng nhân dân đối với lịch sử, quê hương, đất nước, đối với các nhân vật nổi tiếng một thời...
2-4. Văn học nói chung và các thể loại trữ tình nói riêng bao giờ cũng là tiếng nói của trái tim. Song tiếng nói ấy của VHDG mỗi vùng miền không phải bao giờ cũng giống nhau. Thơ ca dân gian Thừa Thiên Huế, trong cách biểu hiện thiên uề cách nói nhẹ nhàng, duyên dáng, hiển dịu, tế nhị.. hơn là lối biểu đạt mạnh mẽ, bộc trực. Trong các cuộc hò khoan giã gạo, hát đối đáp nam nữ ta ít thấy có bài chọc ghẹo, đùa cợt suồng sã. "Nụ cười xứ Huế" cũng chỉ là nụ cười vuI, nhẹ nhàng không mấy chuyện hướng về sự đả kích sâu cày độc địa. Người Huế ưa dùng từ "thương" hơn là từ "yêu" khi nam nữ trao gởi tâm tình:
+ Một thương tóc uấn đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên...
+ Thương mình nên ốm, nên đau
Thuốc thang chẳng đỡ, biết làm sao ở đời
+ Thương anh băng rú, băng ri băng chủi cũng ì
thương anh
Băng chàm,
Thử so sánh hai câu thơ xứ Nghệ và xứ Huế để thấy rõ nét riêng trong cách thức thể hiện tình cảm của người con gái ở hai vùng quê:
+ Đường uô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đô
At uô xứ Nghệ thì uô.
+ Đường uô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đô Thương anh em cũng muốn 0ô
` ^ˆ
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang...
Những câu nói nhẹ nhàng, duyên dáng như câu ca dao nói trên ta gặp trong rất nhiều tác phẩm trữ tình của VHDG Thừa Thiên Huế. Ở đây thể hiện rõ một phần của văn hóa giao tiếp, văn hoá ứng xử của người Cố Đô. Ngay cả lúc tức bực, giận dỗi người ta cũng tìm đến một cách nói thực từ tốn, thực lịch sự chứ không búa lớn, dao to:
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Bởi uì em một dạ, hai lòng
Cho nen loan không ôm đặng phụng,
phụng không bồng đặng loan.
ä- Nghiên cứu, giới thiệu VHDG một vùng đất không phải là việc tô đậm, khuyếch đại những dị biệt của nó. Song cũng cần chỉ ra những nét nổi trội và đặc sắc về thể loại, về nội dung và nghệ thuật biểu đạt từ những sáng tác dân gian này. Đó là một việc làm cần thiết để nhận điện văn học của một miền quê. VHDG Thừa Thiên Huế là một bộ phận của văn hoá sông Hương, núi Ngự, một vùng văn hóa đặc sắc vào bậc nhất nước ta. Do vậy nó hội tụ đủ rẻ đẹp của VHDG ba miền Bắc, Trung, Nam; nó tiếp thu được nhiều ảnh hưởng tích cực của văn hoá bác học, và hơn hết, nó được sáng tác bởi tài năng của các nghệ sĩ dân gian Cố Đô. Nhờ vậy mà VHDG xứ Huế tạo được những nét đặc sắc riêng và những nét ấy chính là những đóng góp rất đáng trân trọng cho nền VHDG nước nhà
Huế - 8/2000
T.n NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

(1) Xin xem phần tư liệu tham khảo.
(2) Chúng tôi đã phân tích, lý giải kỹ "Nét đặc sắc trong cấu trúc lời ca của hò mái nhì, mái đẩy xứ Huế" trong một bài viết đăng trên tạp chí Văn hoá dân gian, số 3 (B5), 1996.
(3) Xin xem: "Lý Huế" (Nxb Âm nhạc, H 19977).
(4) Ba vua là: Kiến Phước (Vua mất); Đồng Khánh (Vua còn) và Hàm Nghi (Vua thua) đều là con Kiên Thái Vương.
(B5), (6) Các địa danh thuộc huyện Quảng Điền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Dương Văn An: Ô Châu cận lục, Văn hóa A châu.
2- Tôn Thất Bình: Nụ cười xứ Huế. Nxb Thuận Hoá, 1997.
3- Tôn Thất Bình (cb): Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế. Nxb Văn hóa dân tộc, 1998.
4- Dương Bích Hà: Lý Huế, Nxb Âm nhạc, H 19897.
5- Trân Hoàng (cb): Truyện cổ dân gian. Sở Văn hóa thông tin Bình Trị Thiên xb, 1888.
6- Trần Hoàng (cb): Cœ dao - dân ca. Nxb Thuận Hoá, 1988.
7- Trần Việt Ngữ - Thành Duy: Dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Văn học, H - 1967.
8- Triều Nguyên: Hà đối đáp nưm nữ Thừa Thiên Huế. Nxb Thuận Hoá, 1999.
9- Về Thừa Thiên Huế (bản đánh máy - chưa in). Tôn Thất Bình - Trần Hoàng - Triều Nguyên biên soạn. _
10- Ưng Luận Ca dao xứ Huế bình giỏi (toàn tập). Sở VHTT Thừa Thiên Huế xb, 1998.