NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

.TRRO ĐỔI:

uá trình sưu tầm, nghiên cứu văn
hoá, văn nghệ dân gian Việt Nam ở thế KỈ XX bao gồm hai thời kì với mốc phân kì là Cách mạng Tháng Tâm năm 1945.
LU VIỆC SƯU TÂM, NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ, VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ngày 2ð tháng 8 năm 1883, tại kinh
thành Huế, nhà Nguyễn phải kí với Pháp
bản hiệp ước Hácmăng, đầu hàng hoàn toàn, thừa nhận Pháp đặt quyển thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Đất nước ta bị chia làm ba kì: từ Bình Thuận vào Nam gọi là Côsanhsin, tức Nam E), thuộc địa
Pháp, từ Khánh Hoà tới Đèo Ngang gọi là
An Nam, tức Trung Kì, theo chế độ nửa
bảo hộ, từ Đèo Ngang ra Bắc gọi là Tông
canh, tức Bắc Kì, theo chế độ bảo hộ của
Pháp. Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều
đình Huế lại còn phải kí bản hiệp ước
Patơnốt. Nội dung bản hiệp ước này căn
bản giống hiệp ước năm 1883; Pháp đưa
thêm mấy tỉnh Bình Thuận, Hà Tĩnh,
Nghệ An, Thanh Hoá vào Trung Kì, và về
danh nghĩa thì cho triều đình Huế cai
quản, nhưng dưới sự bảo hộ của Pháp, nước Pháp sẽ thay mặt triều đình trong mọi quan hệ đối ngoại". “Chia cắt Việt
Nam làm ba kì, thực dân Pháp nhằm xoá
bỏ sức mạnh thống nhất của dân tộc Việt
Nam. Hợp nhất Việt Nam với Lào,
MỘT THẾ KỈ SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ,VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
NGUYÊN XUÂN KÍNH')
Campuchia thành Liên bang Đông Dương, chúng lại nhằm xoá bỏ tên Việt Nam, cũng như tên Lào và Camipuchia trên bản đồ thế giới. Đó là hai mặt của cùng chính sách thâm độc của chúng”?”,
Đứng đầu Liên bang Đông Dương là toàn quyền, thay mặt chính phủ Pháp để cai trị Đông Dương về mọi mặt chính tr, quân sự, dân sự, ngoại giao,... Dưới toàn quyền là năm quan chức đứng đầu năm xứ: Thống đốc Nam Kì, thống sứ Bắc Kì. và ba khâm sứ ở Trung Kì, Lào, Campuchia. Dưới cấp kì là cấp tỉnh. Đứng đầu mỗi tỉnh Nam Kì là một viên chủ tỉnh, ở Bắc Kì và Trung Kì là một viên công sứ, tất cả đều là người Pháp”.
Như vậy, từ năm 1883 cho đến đêm trước của Cách mạng Tháng Tám (1945), Việt Nam là một nước thuộc địa nửa quân chủ.
Mấy chục năm đầu thế kỉ XX, các nhà Nho (trong đó có người làm quan) tiếp tục truyền thống ghi chép, biên soạn văn học dân gian có từ các thế kỉ trước, đã dùng chữ Nôm (là chủ yếu) biên soạn tục ngữ, ca đao: Th«nh Hoá quan phong (Vương Duy Trình soạn năm 1903); Đại Nam quốc tuý (Ngô Giáp Đậu soạn năm 1908); Việt Naờn phong sử (Nguyễn Văn Mại biên soạn năm 1914); Nam âm sự loại (Vũ Công Thành soạn năm 192ã). Sách Nam quốc phương ngôn
(*) PGS, TS, Viện Nghiên cứu văn hoá dân
gian 4
NGUYỄN XUÂN KÍNH


tục ngữ bị lục không để tên người soạn, được khắc In năm 1914 là trường hợp đặc biệt: mỗi trang chia làm hai tầng. tầng trên bằng chữ Nôm, tầng dưới bằng chữ quốc ngữ phiên âm nội dung tầng chữ Nôm. Một số sách được biên soạn từ thế kỉ XIX, nay được xuất bản: W)ưm phong giải trào (Nxb Liều văn đường khắc in năm 1910), Quốc phong thị tập hợp thái (Nxb Quan văn đường khắc in năm 1910).
Các nhà Nho trần trọng và đánh giá cao thơ ca dân gian. Đóng góp lớn nhất của các sách do bọ biên soạn là đã cung cấp những cứ liệu cho việc nghiên cứu lịch sử tục ngữ và thơ ca dân gian. Về hạn chế, phương pháp phân loại chưa thật nhất quán và khoa học, việc chú giải phần nhiều khiên cưỡng, chủ quan (thí dụ Việt Nam phong si”,
5o với các nhà Nho, các tắc giả phương Tây đã chú ý nhiều hơn, bài bản hơn đối với văn hoá dân gian Việt Nam.
Từ các thế kỉ XVII, XVIII, XIX, các cha cố người Pháp như Đơ Rốt, Vasee, Gô bìn, những thương nhân người Anh như Tavecnhiê, Barơn đã viết các hồi kí, những bản tường thuật về tình hình chính trị xã hội, về văn hoá, phong tục tập quán nước ta. Sang thế kỉ XX, việc nghiên cứu văn hoá Việt Nam được người Pháp tiến hành nhiều hơn. có tổ chức hơn. Ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện Viễn đông bác cổ (EFEO) được thành lập tại Sài Gòn. sau đó hai năm, trụ sở của cơ quan này được chuyển ra Hà Nội. Phi nô, giám đốc đầu tiên của viện này đã lặp lại gần như nguyên xi lời nói của Đume, toàn quyển Đông Dương: "Muốn cai trị tốt các dân tộc thuộc địa thì điều trước tiên là phải hiểu tường tận đân tộc mình cai trị như thế nào ”” Những người nghiên cứu bao gồm cha cố, giám mục, võ quan, công sứ và các học giả. Các lĩnh
vực nghiên cứu gồm có luật tục. sử thi. truyện dân gian, hội lễ, mĩ thuật, văn hoá tộc người và khảo cổ.
Kì thị chủng tộc. coi châu Âu là trung tâm là điều dễ nhận thấy trong các công trình nghiên cứu của ngươi Pháp. Trong khi nghiên cứu trống đồng Đông Sơn, Gianxê đem đối chiếu văn hoá Đông Sơn với văn hoá đồ đồng Trung Quốc thời Tần Hán và chứng minh cả hai nền văn hoá ấy đều có nguồn gốc từ văn hoá đồ đồng Hanxtát ở châu Âu. Về tiếng Việt, Matxpêrô nhận xét: “Tiếng An Nam chưa bao gø1ỡ là một ngôn ngữ văn minh cä, văn học, hành chính, luật pháp, tất ca đều viết bằng tiếng Trung Quốc cho mãi đến gần đây”””. Khi nghiên cứu các phong tục tập quán các dân tộc ở Đắc Lắc, Metơrơ khăng định: “Người Mnông và người Bi không hề biết hát”“?. Beena cũng có nhận xét tương tự về người đê: “Vốn dân ca của người Rađê không có øì”?. Để chỉ các dân tộc ít người, không ít lần họ dùng các từ “mọi rợ”, “đã man”.
Phương hướng nghiên cứu nhằm phục vụ cho mục đích cai trị đã khiến cho sử thi và truyện kể dân gian (vốn là đối tượng của khoa nghiên cứu văn học đân gian, một ngành khoa học ra đời ở châu Âu từ nửa sau thế kỉ XIX) không được xem xét với tư cách là đối tượng của một bộ môn nghiên cứu độc lập, mà chỉ được coi như những tài liệu hỗ trợ. phục vụ cho nghiên cứu dân tộc học, xã hội học. Các tác giả muốn thông qua các tác phẩm đó để tìm hiểu phong tục, tập quán, tình hình xã hội. Có lúc có người còn trắng trợn xuyên tạc sự thật vì mục đích chính trị. Đó là trường hợp giám mục Đuôc nơ bịa chuyện Xơrơđen (vị thần thuỷ tổ của người Hơrê) gắn bó với người Pháp: trưởng hợp công sứ Sabachiê bịa đặt thêm một đoạn luật tục (trong luật tục NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Ö


truyền miệng vốn có từ lâu đời của người Êđê) để chia rẽ các dân tộc ít người với ngươi Kinh (Việt), khuyên nhủ các dân tộc ít người đừng đấu tranh chống Pháp mà hãy sống hoà thuận với người da trắng.
Cái nhìn kì thị chủng tộc, phương hướng nghiên cứu không đúng và những trường hợp bịa đặt. phản khoa học nêu trên là một thực tế.
Ngoài ra, còn có một thực tế nữa đưới đây.
Hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) làm thay đổi cơ cấu xã hội Việt Nam. Một mặt, đân tộc ta chống lại sự đàn áp, bóc lột, chống lại ách đô hộ: mặt khác, người Việt Nam đã tiếp thu những cái hay, cái mới của văn hoá Pháp. Điều này nhiều khi nằm ngoài ý muốn của những kẻ đi xâm lược.
Tiếng Việt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiếng Pháp về mặt cú pháp, để rồi những năm 30, 40 của thế kỉ XX, bên cạnh văn xuôi nghệ thuật, đã xuất hiện văn xuôi chính luận, khoa học viết bằng quốc ngữ. Khi người Việt Nam tiếp xúc với văn học và khoa học của châu Âu (qua tiếng Pháp) nói chung, của nước Pháp nói riêng, các công trình về tu từ học, những bản tuyên ngôn nghệ thuật của chủ nghĩa cổ điển. chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực... trở nên quen thuộc trong tầng lớp trí thức Tây học thượng lưu và trung lưu người Việt. Có thể nói. với sự tiếp xúc với văn học và khoa học Pháp. văn hoá Việt Nam kết thúc một thời kì dài khép kín ở phương Đông, văn học Việt Nam bắt đầu quá trình hiện đại hoá và đần dần gia nhập vào quỹ đạo văn học thế giới.
Khi nhìn lại ảnh hưởng của tiếng Pháp và văn học Pháp, GS Đặng Thai Mai đã viết: “Riêng về phần tôi, trong mấy năm học trung học, tôi đã có thể đọc được ít nhiều tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu cho văn học Pháp. Tôi mơ màng cảm thấy răng trong bấy nhiêu áng văn chương đường như bao giờ cũng có một cái gì có thể gọi là tỉnh thần đân tộc Pháp. Phải chăng đó là cái lối viết sáng sủa, trật tự, phân mình, thỉnh thoảng dí dỏm nhưng cũng không thiếu những nhận xét khá sâu sắc về tâm lí một nhân vật, về nếp sống một tầng lớp xã hội, về sinh hoạt của một thời kì lịch sử, về nét phổ biến của nội dung???”
Không phải người Pháp nào cũng kì thị văn hoá Việt Nam. Xãm nêu một trương hợp. Cadie là công chức ngành thuế, làm phiên dịch ở Sở Tư pháp Đông Dương, dạy tiếng Việt và chữ Hán ở những lớp mở cho công chức người Pháp, nghiên cứu văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Năm 1942, ông ta viết như sau: “Tôi đã hiểu người An Nam vì tôi đã nghiên cứu điều liên quan đến họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng nói của họ, từ khi mới đến nước này, và hiện nay tôi tiếp tục làm việc ấy, tôi đã thấy răng tiếng An Nam rất tỉnh tế về phương diện cấu trúc, và sự phong phú của nó về phương điện từ vựng thì không được phép coi thường như ngày nay người ta quá ư quen làm”,
Thực tế văn hoá Việt Nam, ánh sáng mới của thời đại và lương tri của con người đã làm cho các tác giả phương Tây có những biến đổi lớn trong cách nhìn và trong sự đánh giá văn hoá dân gian Việt Nam. Từ công trình về trường ca Hơrê (năm 1948) đến công trình nghiên cứu về các tù trưởng Lửa và Nước ở vùng người Giaral (1977), giám mục Đuốcnơ đã có 6
NGUYÊN XUÂN KÍNH
==....Ö......... " ".ẻễễễ.moaAAAeaụaụaụuauaụuụuaụaựaụuụaaanaaamr
bước chuyển quan trọng. ở công trình sau, ông chú trọng nhiều đến cơ sở lịch sử của thần thoại và đã tôn trọng sự thật
, II khách quan,
Viện Viễn đông bác cổ được thành lập nhằm phục vụ cho sự cai trị của chính phủ Pháp. Sự thực thì ý đồ này đã được các học giả thực hiện đến đâu? Cuối năm 2000, một học giả Pháp đã viết như sau: “Viện Viễn đông bác cổ được hình thành với ý tưởng là cơ quan phụ trợ cho hệ thống thuộc địa, hệ thống đã sinh ra Viện, nên ngay từ khi thành lập, EFEO đã vấp phải những mâu thuẫn về thể chế cũng như thiên hướng của mình. Liệu nhà nghiên cứu của Viện có cần phải là một nhà “bác học thực dân”, phục vụ cho một tham vọng cai trị và người này sẽ phải cung cấp những bí mật của một số đân tộc nào đó cho tham vọng này không? Liệu nhà nghiên cứu này có cần phải hiện điện như một kĩ thuật viên say mê lặp lại những phương pháp điều tra và phân tích có từ châu Âu cho một đối tượng nghiên cứu ngoại lai và xa lạ? Cuối cùng, bằng một công việc nhẫn nại buộc ông ta phải có sự khiêm tốn cần thiết, liệu ông ta có thể trở thành những con người như vậy, những con người đi theo hai nền văn mình, có khả năng hiểu thấu những quan điểm đồng nhất đối với lợi ích được chia sẻ cho nền văn mình này cũng như nền văn mình kia. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan chưa bao giữ được giải quyết, tuy nó lại có khả năng được phát triển rộng. Thái độ do dự này, giữa một bên là những môi quan hệ gắn cội nguồn với Pháp và một bên là sức hấp đẫn đối với một đất nước và đối với một nền văn minh cần nghiên cứu, đã biến các nhà nghiê+ cứu người Âu của Viện thành những con người phức tạp. đôi khi bị nghi là thông đồng với người bản xứ,
thường được thừa nhận là những nhà bác
học lỗi lạc”°”.
Năm 1908, khi Viện Viễn đông bác cổ tuyên truyền cho sự kiện Phan Châu Trinh liền bị toàn quyền Đông Dương nhắc nhở. Viện “đã phải giới hạn những cuộc điều tra của mình trong phạm vì các lĩnh vực không có khả năng làm tổn thương hay gây thiệt hại cho lợi ích cua chính quyền Pháp. Chủ trương đưa ra là: tất cả những øì liên quan đến khoa học xã hội đều bị cấm. Còn lại là khảo cổ học, ngôn ngữ, nghiên cứu văn bản cổ, sử học, bảo tàng học và đân tộc học nhưng chỉ được tiến hành một cách dè đặt”.
So với các nhà Nho Việt Nam, các tác giả người Pháp đã viết nhiều hơn, có tổ chức và rất bài bản về văn hoá vật chất và tỉnh thần Việt Nam. trong đó số công trình viết về văn học dân gian, văn hoá dân gian chiếm một tỉ trọng lớn. Có những lĩnh vực nhà Nho không quan tâm sưu tầm, nghiên cứu như sử thi, luật tục thì người Pháp đã chú ý. Có những khía cạnh nhà Nho chưa đi sâu thì người Pháp nghiên cứu kĩ hơn. Qua các công trình của họ, người Việt tiếp thu được tư tưởng và phương pháp làm việc khoa học.''” Tất cả những ghi chép. sưu tầm, nghiên cứu của họ về văn hoá, văn nghệ dân gian là những tư liệu cần thiết quý, hiếm đối với việc tìm hiểu lịch sử văn học dân gian, văn hoá đân gian. Thực tế văn hoá Việt Nam và lương tri của người cầm bút đã giúp cho hkaông ít trường hợp họ đánh giá đúng văn hoá dân gian nước ta. Tuy nhiên. do cách tiếp cận văn học dân gian như những tài liệu phụ trợ cho đân tộc học nên chưa thể hình thành khoa nghiên cứu uăn học đân gian với ý nghĩa đầy đủ và chính xác của thuật ngữ này. Cũng có một số trường hợp mà ở đó tác giả này hoặc tác giả khác thể hiện cái NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
{


nhìn kì thị. coi châu Ân là trung tâm, thậm chí xuyên tạc, bịa đặt folRlore nhằm phục vụ cho ý đồ chính trị của bọn thực dân. Đã có một thời, những trang viết như thế không phải là không gây tác hại. Ngày nay, đối với những trang viết ăy, chúng ta không khó khăn trong việc nhận chân gl14 trị.
Sau mươi năm được đào tạo ở Pháp, cuối năm 1985 tiến sĩ Nguyên Văn Huyên về nước, dạy học, rồi làm việc ở Viện Viễn đông bác cổ cho đến năm 1946. Các công trình của ông được viết và xuất bản bằng tiếng Pháp, tập trung vào hai chủ để tín ngưỡng và thiết chế xã hội nông thôn Việt Nam. Giáo sư Hà Văn Tấn đã nhận xét: “(...) tuy được tiếp thu một cách có hệ thống học vấn và văn hoá Pháp, nhưng với tinh thần dân tộc cao và với sự hiểu biết sâu sắc về truyền thống văn hoá Việt Nam và phương Đông, Nguyễn Văn Huyên đã làm cho các công trình của mình cố một phong cách riêng. Ông chuộng sự chính xác trong tài liệu, nhưng chừng mực, vừa phải trong lí luận. Ông có tư tưởng nhưng không bao giờ đẩy đến cực đoan. Do đó cái khuynh hướng xã hội học trong dân tộc học của trường phái Pháp ở ông lại trở nên hợp lí, gần gũi với chủ nghĩa duy vật lịch sử của trường phái MarxistP2”,
Có người gọi Nguyễn Văn Huyên là nhà dân tộc học. Có người mệnh danh ông là nhà sử học. Có người m:iốn gọi ông là nhà văn hoá học”? Tuy ýng có những công trình rất sáng giá về mặt tư liệu cũng như về phương »háp luận như Hới đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam (1934), Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn uà Cao Bảng (1941), nhưng thật khó mà nói răng với Nguyễn Văn Huyên đã có sự >a đời của khoa nghiên
r xe ˆ * 5 - I7) cứu văn học dân gian ở Việt Nam °.
Thực dân Pháp có ý thức đào tạo tầng lớp trí thức bản xứ để xây dựng nền văn hoá thuộc địa gắn bó chặt chẽ với văn hoá chính quốc. Phủ toàn quyền Đông Dương cấp tiền trợ cấp cho Đông Dương tạp chí và Nam phong tạp chí. Những người như Trương Vĩnh Kí Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là sản phẩm của chính sách văn hoá thực dân. Trên tạp chí Nam phong, số 4, Phạm Quỳnh đã viết: “Bọn ta sinh ra trong buổi giao thời, phải bão tồn lấy nền văn hoá cũ trong nước mà thâu nhặt lấy vẻ văn minh thời nay. Muốn bão tôn nền văn hoá cũ, nên duy trì lấy đạo luân thường trong quốc dân: đầu luân thường là tôn quân (...). Muốn thâu nhặt vẻ văn minh mới, nên theo đõi nền học thuật của thế giới: biển học thuật ấy là Đại Pháp ân quốc ta vậy ”°”, Những cuốn sách của các tác giả kể trên, trong đó các sách sưu tầm, biên soạn văn học dân gian chiếm một tỉ lệ đáng kể có đóng góp chủ yếu trên phương điện tư liệu, những tư liệu cần thiết trong việc tìm hiểu lịch sử văn học đân gian người Việt.
Có những trí thức tân học ít hay nhiều độc lập với chính sách văn hoá thực dân. Đó là Phạm Quang Sán, Đoàn Duy Bình, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Văn Tố, Hoa Băng, Nguyễn Văn Ngọc, Dương Quảng Hàm... và các nhóm Thanh nghị, Tri tân. Về mặt nhận thức, với thiên “Văn chương bình dân” (Văn chương truyền khẩu) trong sách Việt (1943). Dương Quảng Hàm “là người đầu tiên định vị văn học dân gian trong nền văn học dân tộc”? Công lao đáng kế của các nhà trí thức tân học tập trung ở phương diện sưu tầm, biên soạn văn học dân gian: Nguyễn Văn Ngọc với Tục ngữ phong dao (1928, hai tập), Truyện cổ nước Nam (1932 tập L,
Nam uăn học sử yếu 8
NGUYÊN XUÂN KÍNH


1934 tập II), Nguyễn Can Mộng với Ngạn ngữ phong dao (1936. tái bản 1941). Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ. khi có học giả phương Tây phủ nhận nền văn hoá Việt Nam độc đáo, khi có học giả Pháp trắng trợn viết rằng, truyện Tin Cám chỉ là mô phóng truyện Cô Lọ kem mà các cha cố Pháp đem sang nước ta từ thế kỉ XVIII, ý Kiến sau đây của Nguyễn
Văn Ngọc trong lời tựa sách Truyện cô
nước Nam thật đáng chú ý. thể hiện sự tình thần tự tôn dân tộc: “Những truyện cổ chúng tôi sưu tập đây, chúng tôi dám quyết rằng thật của riêng nước Nam, tự người Nam sắng tác, xuất sản ra, chứ không phải đi vay, đi mượn. nhờ vả vào ai mà được”?€?,
Vào nửa đầu những năm 40, đã có một số bài viết, bài nói theo quan điểm mác xít về văn học dân gian, tiêu biểu là bài “ÝY nghĩa nhân sinh trong truyện cười nước ta ngày xưa” của Đặng Thai Mai đăng trên Tạp chí Tr1 tân năm 1943.
*
ba *
Tính từ đầu thế kỉ XX đến đêm trước của Cách mạng Tháng Tám là 4ð năm. Trong thời kì này, có nhiều khuynh hướng sưu tầm, nghiên cứu văn hoá dân gian. Có khuynh hướng của các nhà Nho. Có khuynh hướng của các tác giả người Pháp. Có khuynh hướng của các trí thức tân học có ý thức phục vụ chính sách văn hoá của chính quyền thực dân. Có khuynh hướng của các trí thức tân học ở những miức độ khác nhau độc lập với chính sách văn hoá thực dân. Có cả mầm mống của khuynh hướng nghiên cứu văn học dân gian theo quan điểm mác xít. Về mặt văn tự, có loại tài liệu viết bằng chữ Nôm là chủ yếu, có tài liệu vừa viết bằng chữ Nôm vừa dùng quốc ngữ, có tài liệu chữ Pháp: có tài liệu chữ quốc ngữ.
Trong các thành tố của văn hoá dân gian, văn học dân gian được chú ý nhiều hơn. Tuy vậy ở nước ta. trước Cách mạng Tháng Tám. chưa ra đơi hoa nghiên cứu ouăn học dân gian. Cũng chưa thể nói đến sự có mặt của bhoa nghiên cưú uăn hoá dân gian (folhlore học).
I- VIỆC NGHIÊN CỨU, SƯU TẤM, GIẢNG DẠY, PHÔ BIỂN, BẢO LƯU VĂN HOÁ DÂN GIAN TRONG THỜI KÌ TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Đ¿¿N NAY
Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỉ nguyên mới cho sự phát triển về nhiều mặt của đời sống dân tộc, đồng thời tạo tiền đề cho sự phát triển văn hoá - khoa học của đất nước. Điều này không chỉ đúng với nhiều ngành khoa học khác mà còn rất đúng với khoa nghiên cứu văn học dân gian và khoa nghiên cứu văn hoá dân gian.
Có thể phân chia thời kì sưu tầm. nghiên cứu từ sau Cách mạng Tháng Tám (194ã) đến nay thành ba giai đoạn: 1/ từ cuối năm 194ã đến hết năm 19ã4; 2/ từ năm 1955 đến tháng tư năm 197ã: 3/ từ sau tháng tư năm 197ã đến nay.
A/ Giai đoạn từ cuối năm 1945 đến hết năm 1954
Từ cuối năm 1945 đến hết năm 19ã4 là giai đoạn xây dựng và củng cố những quan điểm mácxít về văn học nghệ thuật dân gian, là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của ngành nghiên cứu văn học dân gian trong giai đoạn sau. Đã có những tài liệu có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo việc xây dựng nền văn hoá mới. Những tài liệu quan trọng nhất là bài “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá mới Việt Nam hiện nay” của đồng chí Trường Chinh“”, bản báo cáo Chủ nghĩa Mác uà uăn hoá Viêt Nam NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9
— 7B B B ằ—CCCE
do đồng chí Trường Chinh đọc tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ bai (1948), bản thuyết trình “Xây dựng văn nghệ nhân dân” do nhà thơ Tế Hữu trình bày tại Hội nghị tranh luận về văn nghệ tổ chức ở Việt Bắc (1949). Những vấn đề như vai trò của quần chúng trong lịch sử xã hội nói chung và lịch sử văn hoá nói riêng, giá trị của nền văn hoá nhân dân (chủ yếu là chỉ nền văn nghệ dân gian), việc tiếp thu đi sẵn văn hoá nhân dân để phục vụ cho việc xây dựng nền văn hoá dân chủ mới - những vấn đề đó đã được phân tích sâu sắc. Thí dụ. trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác uà uăn hoá Việt Nam, tác giả nêu rõ: “Bên cạnh văn hoá chính thống của các thời đại, có cä nền văn hoá nhân dân còn lưu lại trong phương ngôn, ngạn ngữ, ca đao, truyện cổ tích, tranh gà lợn,... v.v... Văn hoá này tả sự phấn đấu của những người lao động (làm ruộng, làm thợ, đi buôn....), lòng mở ước của nhân dân về một tương lai tươi sắng hay là chí phần kháng của họ đối với bọn quyền quý; chế giêu hủ tục mê tín, dị đoan hoặc khuyên răn làm điều “thiện”, tránh điều “ác”. Đó là một kho tàng rất phong phú mà các nhà văn học, sử học, khảo cổ học nước ta còn phải dày công tìm tòi, nghiên cứu mới hiểu hết được”””.
Đang Cộng sản Việt Nam kêu gọi phải “ra sức phát triển vốn văn nghệ cũ của dân tộc, nhất là vốn văn nghệ bình dân”#”, Không phải ngay từ đầu các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hoá đã quán triệt tư tưởng trên. Quá trình thực hiện đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng là quá trình đấu tranh cho quan điểm mácxít đúng đắn về vai trò của dòng văn nghệ dân gian trong sự nghiệp xây dựng nền văn nghệ mới. Quá trình đấu tranh vừa nêu được.thể hiện rõ nhất, tập trung nhất trong Hội nghị tranh luận về văn

nghệ ở Việt Bắc (1949), trong Hội nghị tranh luận về sân khấu ở Việt Bắc (1950), tại cuộc họp văn nghệ ở Nam Bộ (1951).
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, mặc dù đã ra đời Ban Văn Sử Địa từ tháng 12 năm 1953, cũng chưa thể nói ở nước ta đã có các cơ quan chuyên ngành để sưu tầm nghiên cứu văn học, văn nghệ đân gian.
Bí Giai đoạn từ năm 1955 đến tháng từ nắm 1975
Sau hiệp định Giơnevơ (1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Trong khung cảnh ổn định, các nhà nghiên cứu có điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng bộ môn khoa học mác xít về văn học đân gian.
Từ cuối những năm ðO, việc giảng dạy văn học dân gian một cách có hệ thống đã được tiến hành ở bậc đại học. Đầu những năm 60, các tập giáo trình đại học về văn học dân gian được xuất bản. Ở Trường Đại học sư phạm Hà Nội có Giáo trình lịch sử uăn học Việt Nam tập Ïl: Văn học dân gian, của Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Nghĩa Dân. Lí Hữu Tấn, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị, Lê Trí Viễn, công bố lần đầu năm 1961, (đến năm 1978 thì được in đến lần thứ năm)#®, Ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội có Văn họ: dân gian Việt Nam của Đình Gia Khánh, Chu Xuân Diên, xuất bản năm 1969, đến đầu những năm 70, một bộ giáo trình mới của hai ông được công bố: Văn học dân gian, gồm hai tập (tập I: 1979. tập II: 1973). Năm 1959, tại Viện Văn học, tổ bộ môn Văn học Cổ cận dân (cổ đại, cận đại, dân gian) được thành lập.
Việc sưu tầm, nghiên cứu các lĩnh vực khác như chèo, âm nhạc dân gian, múa dân øian.... do các cơ quan trực thuộc Bộ Văn hoá đảm nhiệm.
Cuối năm 1966, tại Hà Nội, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức Đại hội 10
NGUYÊN XUÂN KÍNH

thành lập với sự có mặt của mười vị sáng lập viên (Hà Huy Giáp. Nguyễn Văn Huyền. Đặng Thai Mai, Cù Huy Cận, Hoài Thanh. Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung, Bao Định Giang, Vũ Ngọc Phan. Nông Quốc Chấn) và trên 900 hội viên. Năm 1967, tổ chức xã hội - nghề nghiệp này được Chính phủ công nhận. Từ sau sự kiện này, ở mỗi Tỉ Văn hoá thông tin của từng tỉnh đều có tiểu ban Văn nghệ đân gian. Năm 1979, Hội đã tổ chức cuộc thi sưu tầm văn học đân gian và trao giải thưởng. Đã xuất hiện hình thức hợp tác sưu tầm giữa một cơ quan ở trung ương với tiểu ban Văn nghệ dân gian địa phương: thí dụ năm 1974, Tổ Văn học dân gian của Viện Văn học phối hợp với tiểu ban Văn nghệ dân gian Thanh Hoá khoanh vùng sưu tầm văn học dân gian tại một xã”, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp phối hợp với tiểu ban vừa nêu khoanh vùng sưu tầm văn học dân gian tại một huyện.
Đóng vai trò công bố kịp thời những tư liệu mới sưu tầm, những suy nghĩ mới nhất của các nhà nghiên cứu, trở thành diễn đàn của những cuộc thảo luận, thậm chí tranh luận về văn học dân gian là tờ Tạp chí Văn học '“?, Nó đã công bố nhiều bài viết của Vũ Ngọc Phan, Định Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh. Bùi Văn Nguyên, Chu Xuân Diễn, Hà Châu, Đặng Văn Lung, Phan Đăng Nhật. Nguyễn Quang Vinh, Vù Ngọc Khánh, Trần Đức Các...., đã đăng những ý Kiến khác nhau về truyện “MỊ Châu Trọng Thuỷ”, về truyện “Trương Chỉ”. về vấn để văn học đân gian hiện đại.
Từ năm 19ãã đến năm 1966, thành tựu dê thấy nhất là việc sưu tầm. biên soạn và xuất bản hàng loạt cxốn sắch sưu tầm văn học dân gian và một số sách sưu tầm chèo cố. Từ năm 1967 đến tháng tư năm 1975, một mặt thì các cuốn sách sưu tầm, biên soạn về văn nghệ, văn học dân gian tiếp tục
được xuất bản; mặt khác những công trình nghiên cứu xuất hiện nhiều hơn trước.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến thắng tư năm 18/5, những công trình có giá trị trong lĩnh vực sưu tầm, biên soạn văn học dân gian là Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan”, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (bốn tập đầu) của Nguyễn Đổng Chi. Về phương diện nghiên cứu đã có những cuốn sách cắm mốc: Mgười anh hùng làng Dóng, Tìm hiểu tiến trình uăn học dân gian Việt Nam đều của Cao Huy Đỉnh. hai tập Văn học dân gian (1979- 1973) của Định Gia Khánh, Chu Xuân Diên.
Nhìn chung, cho đến đầu những năm 70. tuy còn một vài chỗ yếu về lí luận và phương pháp. ngành nghiên cứu văn học dân gian ở miền Bác đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Trong số nhiều nguyên nhân tạo nên sự trưởng thành, có lí do là các nhà khoa học nước ta ở những mức độ khác nhau đều đã chịu ảnh hưởng tích cực của các nhà khoa học xô- viết (Liên Xô cũ).
Ở các lĩnh vực nghiên cứu chèo sân đình, sân khấu rối tuy cũng đã có cán bộ chuyên trách. đã xuất bản một số cuốn sách sưu tầm, nghiên cứu nhưng thành tựu chưa thật nổi bật như ở lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian.
Trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt các nhà khoa học miền Bắc không có điều kiện trực tiếp sưu tầm và nghiên cứu tại chỗ văn học dân gian nói riêng, văn nghệ dân gian nói chung của nửa nước phía Nam”.
C/í Giai đoạn từ sau tháng tư năm 1975 đến nay
Đất nước thống nhất (30/4/197ã) mở ra một triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của khoa học, trong đó có ngành nghiên cứu văn hoá dân gian. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

—===== 6ˆ
Về mặt tổ chức, đã ra đời một cơ quan mới: 1979, Ban nghiên cứu văn hoá dân gian (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam); 1983 ban này được nâng thành Viện Văn hoá dân gian; 1993, Viện được đổi tên là Viện Nghiên cứu văn hoá đân gian.
Về mặt đào tạo, nếu trước giải phóng miền Nam, ở miền Bắc chỉ đào tạo đến trình độ đại học thì trong giai đoạn này đã có chế độ đào tạo trên đại học ở trong nước; từ những năm 80, đào tạo nghiên cứu sinh về văn học dân gian (bằng phó tiến sĩ, nay gọi là điển sĩ), từ những năm 90, có thêm chế độ đào tạo cao học về văn học dân gian (bằng thạc sĩ).
Năm 1994 bắt đầu có chế độ đào tạo cao học ngành văn hoá dân gian. Từ tháng 3 năm 2001, Chính phủ cho phép đào tạo tiến sĩ văn hoá dân gian.
Tháng 1 năm 1983, Tạp chí Văn hoá dân gian được phép xuất bản. Từ đây trở đi, bên cạnh Tạp chí Văn học, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, do chức năng, nhiệm vụ của mình, Tạp chí Văn hoá dân gian là cơ quan chuyên môn công bố được nhiều hơn các bài viết về folklore"”””.
Sau một số năm gặp khó khăn về tổ chức (các tiểu ban Văn nghệ dân gian ở các Ti Văn hoá thông tin bị giải thể là một thí dụ), tháng 12 năm 1989, Đại hội lần thứ hai của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam được tổ chức và tiến hành đại hội thành công. Nếu Đại hội lần thứ nhất (1966) là Đại hội dựng nghiệp. thì Đại hội lần thứ hai là Đại hội hổi sinh, Đại hội lần thứ ba (1995) là Đại hội phéứt triển. Đại hội lần thứ tư (2000) là Đại hội nâng cao chất lượng.Tùừ Đại hội lần thứ tư, Hội tự nguyện xác định là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Mấy năm gần đây, Hội đã làm được nhiều việc có ích: góp phần xuất bản những
cuốn sách về nghề và làng ghề. tổ chức triển lãm, góp phần tôn vinh những nghề hay tài khéo của ông cha, phối hợp với các địa phương, các cơ quan khác tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, mở hàng chục lớp tập huấn về nghiệp vụ sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, ván nghệ dân gian, trên địa bàn từ Lào Cai về Phú Thọ, Hải Phòng, Hà Tây, Hoà Bình, qua Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An.... đến tận Kiên Giang. Từ năm 1993 trở đi, Hội trao giải thưởng hằng năm cho các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian. Hội đã quan tâm một cách thiết thực và có hiệu quả đến những hội viên có đóng góp quan trọng đối với công cuộc sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến văn hoá, văn nghệ dân gian gặp khó khăn về sức khoẻ, về đời sống hoặc về việc công bố công trình. Hiện nay cả nước có 1000 hội viên và 61 tổ chức cơ sở (chi hội. tỉnh hội, thành hội).
Nếu Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam có tác động rộng khắp đến hoạt động sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến văn hoá văn nghệ dân gian ở trong nước thì Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian có công đầu trong việc tổ chức các hội thảo quốc tế tại Việt Nam: về lễ hội (1983, tại Hà Nội), về
' sử thi (1997, tại Đắc Lắc), về luật tục (1999,
tại Đắc Lắc). Viện cũng là chiếc cầu nối, tạo điều kiện cho các nhà khoa học nước ngoài đến Việt Nam khảo sát folklore.
Có một Chi hội Văn nghệ dân gian đặt tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Bảo tàng này trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, khánh thành đúng vào địp Hội nghị cấp cao lần thứ bấy các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội (tháng 11 năm 1997). Bảo tàng được Nhà nước phê duyệt luận chứng kinh tế Kĩ thuật, cấp kinh phí và cấp đất xây dựng. Tổng thống Pháp đánh giá: “Nó là mỉnh 12
NGUYÊN XUÂN KÍNH
“=——————————ễễễ EEEEEE——=ễễễ .
chứng cho sự tôn trọng của các nhà chức trách Việt Nam đối với toàn bộ các thành phần phong phú của dân tộc, các tộc người (54) hợp thành đi sản và cả tâm hồn Việt NanY#°. “Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành, đồng thời là một trung tâm lưu giữ quý giá về văn hoá của đủ ã4 dân tộc (...). Người ta đến đây không chỉ để tham gia giải trí mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc”? “Bảo tàng lấy hiện vật làm trung tâm, hơn nữa hiện vật phần ánh những sinh hoạt đời thường của nhân dân các dân tộc; (...). Trong bảo tàng không có tranh minh hoạ. Nếu cần minh chứng cho những sinh hoạt nào đó, ở đây chỉ dùng ảnh hay băng ghi hình lại cuộc sống thực của các dân tộc”?”,
Đội ngũ các nhà nghiên cứu ngày càng đông đão, ở một số lĩnh vực đã có chuyên gia (hiểu theo nghĩa là người tập trung nhiều thời gian, công sức vào lĩnh vực đó và đã công bố công trình). Quan tâm nhiều đến các vấn đề lí luận và phương pháp luận có Định Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Trần
Quốc Vượng, Đỗ Bình Trị. Về âm nhạc dân
gian có Tô Ngọc Thanh. Về chèo sân đình có Hà Văn Cầu, Trần Việt Ngữ. Về mĩ thuật dân gian có Chu Quang Trứ, Nguyễn Bá Vân. Về nghệ thuật rối có Nguyễn Huy Hồng. Về tín ngưỡng, tôn giáo dân gian có Ngô Đức Thịnh. Về hội lễ dân gian có Lê Trung Vũ. Về truyện nôm bình dân có Kiều Thu Hoạch. Về văn học dân gian các dân tộc ít người nói chung và về sử thi nói riêng có Võ Quang Nhơn, Phan Đăng Nhật, Đỗ Hồng Kì. Về dân ca quan họ có Trần Linh Quý, Hồng Thao. Về ca dao có Nguyễn Xuân Kính, Triều Nguyên. Về truyện dân
gian có Tăng Kim Ngân, Nguyễn Thị Huế. Về nghề và làng nghề thủ công có Đỗ Thị Hão. Có những tác giả thâm canh ở một vùng đất: Ninh Viết Giao ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Thanh ở Thái Bình, Trần Hữu Sơn ở Lào Cai, Trân Sĩ Huệ ở Phú Yên, Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Chí Bền ở Nam Bộ... Có những nhà giáo với nhiều thập kỉ vừa giảng dạy ở đại học (là chính) vừa nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian: Hoàng Tiến Tựu, Lê Chí Quế, Nguyễn Xuân Đức, Lê Trường Phát, Trần Đức Ngôn, Bùi Mạnh Nhị, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Bích Hà. Phạm Thu Yến, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Hùng Vĩ, Trần Hoàng. Nguyễn Ngọc Quang...."””. Về những công trình cắm mốc có thể kế: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (1983) của Võ Quang Nhơn, Trên đường tìm hiểu uăn hoá dân gian (1989) của Đinh Gia Khánh, Sử £h¿ Êđê (1991) của Phan Đăng Nhật, Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh uăn hoá Đông Nam Á (1993) của Định Gia Khánh, Dân ca người Việt (1994) của Tú Ngọc, Địa chí uăn hoá dân gian Nghệ Tĩnh (1995) do Nguyễn Đổng Chỉ chủ biên, Kho tàng ca dao người Việt (1995, tái bản 2001) do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật đồng chủ biên, Sở thi thần thoại M nông (1997) của Đỗ Hồng Kì, Điểu Kâu, Nơ Yu, Đăm Pơ Tiêu, Âm nhạc dân gian Thái Tôáy Bắc (1998) của Tô Ngọc Thanh, Luật tục Thái ở Việt Nam (1999) của Ngô Đức Thịnh. Trong
Câm
Văn hoá dân gian gồm nhiều thành tố. Việc xuất hiện trên Tạp chí Văn hoá dân gian nhiều bài viết về văn học dân gian là một thực tế. Sở đi như vậy là vì nền văn học dân gian nước ta phong phú; là vì so với việc nghiêu cứu các bộ môn khác trong khối văn học nghệ thuật. việc nghiên cứu văn học có bề dày hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn. _ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13


Việc nghiên cứu văn học dân gian trở thành một khoa học sớm hơn so với việc nghiên cứu các thành tố khác của văn hoá dân gian (nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu điễn dân gian,...) cũng sớm hơn so với việc nghiên cứu tổng thể, bao quát văn hoá đân gian. Nếu năm 1966 sự ra đời của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam bước đầu đánh dấu việc mở rộng đối tượng nghiên cứu là toàn bộ văn nghệ dân gian thì từ sau năm 1975, việc mở rộng phạm vi nghiên cứu được tiếp tục sâu, rộng hơn. Từ cuối năm 1979 đến nay, thuật ngữ uăn hoá dân gian được sử dụng rộng rãi”, Với tư cách là người đặt nền móng cho khoa nghiên cứu văn hoá dân gian, là Viện trưởng và Tổng biên tập đầu tiên của Viện Văn hoá dân gian và Tạp chí Văn hoá dân gian, Định Gia Khánh đề nghị hiểu uăn hoá dân gian theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hoá dân gian (folk culture) bao gồm toàn bộ văn hoá vật chất và tinh thần của dân chúng. Còn văn hoá dân gian với nghĩa hẹp (folklore) chính là văn hoá dân gian với nghĩa rộng (folk culture) được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ.
Hiện nay cả Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian và Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đều có xu hướng hiểu văn hoá dân gian theo nghĩa rộng ”?.
Ở các trường đại học, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay môn Văn hoá học và Văn hoá Việt Nam thuộc số những môn học chính trong chương trình giảng dạy. Thí dụ, từ năm 1994, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định cho thành lập Tổ bộ môn Văn hoá học trực thuộc Khoa Ngữ văn và Báo chí để đảm nhiệm một phần môn học ấy.
Như vậy, từ chỗ đặt công việc nghiên cứu văn học dân gian trong khuôn khổ một tổ nghiên cứu (Cổ cận dân ở Viện Văn học
và các trường đại học), qua việc thành lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, cho đến nay chúng ta đã có thể nói đến một ngành nghiên cứu văn hoá dân gian với những thành tựu bước đâù và những hạn chế, những chỗ bất cập khó tránh khỏi.
Xin khẳng định hai vấn đề:
1) Trong khi đã ra đời khoa nghiên cứu văn hoá dân gian (folklore học) thì khoa nghiên cứu văn học dân gian với qul phạm riêng của mình vẫn tồn tại. Văn học dân gian vừa là đối tượng nghiên cứu, giảng dạy ở trường phổ thông và trường đại học (nằm trong khoa ngữ văn) vừa được nghiên cứu ở khoa nghiên cứu văn hoá dân gian (với tư cách là một thành tố của văn hoá dân gian).
2 Nhân học văn hoá (cultural anthropology) là một nhánh, một phần của nhân học, hay còn gọi là nhân loại học (anthropology). Các nhà folklore học và nhân học văn hoá xác định việc nghiên cứu văn hoá dân gian (theo nghĩa rộng) với tư cách là một nhánh, một phần của nhân học văn hoá. “Với tư cách là một nhánh, một bộ phận của nhân học văn hoá, folklore học cũng có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề chung của nhân học văn hoá. Song trong khi giải quyết những nhiệm vụ chung của nhân học văn hoá, folklore học cũng có những vấn đề riêng của mình”””. Đó là lí do tồn tại của khoa nghiên cứu văn hoá dân gian.
* *
Trong thế kỉ XX, giới nghiên cứu đã làm được nhiều việc. Sự ra đời của khoa nghiên cứu văn học dân gian, khoa nghiên cứu văn hoá dân gian với một số công trình xuất sắc là thành tựu nổi bật so với các thế kỉ trước. Về số lượng, chỉ tính trong lĩnh vực ca đao học, đã có khoảng một nghìn cuốn sách, bài tạp chí, bài báo. 14
NGUYÊN XUÂN KÍNH

Thành tựu là đáng trân trọng. Tuy nhiên. kế từ năm 1975 đến nay, đã 2ð năm đất nước thống nhất, nhân dân sống trong thời bình, thế mà trong lĩnh vực khoa học về văn học dân gian, văn hoá dân gian, vẫn _cehưa có một chiến lược đồng bộ, nhất quán, đảm bảo tính bhd thí cho việc sưu tầm, nghiên cứu, xuất bản, giảng dạy, đào tạo cán bộ: số lượng sách báo tuy nhiều nhưng tỉ lệ những công trình sâu sắc, nghiêm túc, thể hiện lương tâm nghề nghiệp còn chưa cao; văn còn không ít vấn để cần giải quyết hoặc tiếp tục thực hiện. Thí dụ, về ca dao, trên phương diện sưu tầm, biên soạn, rất cần thiết phiên âm, dịch và xuất bản các sách Hán Nôm có ghi chép, sưu tầm thơ ca dân gian. Trên phương điện nghiên cứu, việc phân loại ca dao, việc tìm hiểu ý nghĩa các biểu tượng, mối quan hệ giữa ca dao người Việt và thơ ca dân gian các dân tộc ít người, mối quan hệ giữa thơ ca dân gian và thơ trữ tình của dòng văn học viết... vẫn là những vùng đất mà các nhà folklore học của thế kỉ XX chưa có điều kiện khai phá hoặc chỉ mới lật những đường cày đầu tiên.
Thế kỉ XX đã khép lại nhưng việc sưu tầm, nghiên cứu, giảng dạy, phổ biến văn học đân gian, văn hoá dân gian thì vẫn còn phải tiếp tục với những thuận lợi mới và thử thách mới.
Tháng 3 năm 2001 N.X.K
(1) Nguyễn Khánh Toàn chủ biên (1985): kịch sử Việt Nam tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 71
(2) Lịch sử Việt Nam, tập IL, sđd, tr. 84 - 85
(3) Lịch sử Việt Nam, tập IL, sảd, tr. 8ã - 86
(4) Xem thêm: Nguyễn Xuân Kính (2001): “Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu ca dao người Việt”, Tạp chí Văn học, Hà Nội, Eñ 1, tr. 88 - 87.
(5) Dã:: theo Định Gia Khánh và Võ Quang Nhơn. Xem: Định Gia Khánh chủ biên, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997): Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 7Ö và tr. 562.
(6) Văn học dân gian Việt Nam, sửdú, . TẾ
(7) Văn học dân gian Việt Nam, sửú, tr. 559
(8) Văn học dân gian Việt Nam, sảd, tr. 555
(9) Đặng Thai Mai (1988): “Quá trình bồi dưỡng nghề viết văn của tôi”, in trong tập sách nhiều tác giả: Công uiệc uiết 0uăn, Trường Viết văn Nguyễn Du xb, tr. 7ð
(10) Dẫn theo Đỉnh Gia Khánh: Văn học dân gian Việt Nam, sđử, tr. 75
(11) Xm xem Võ Quang Nhơn: Văn học cđân gian Việt Nam, sửa, tr. 561 - 569
(12) Philippe Le Failler (2000): “Một trăm năm Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Việt Nam”, Im trong tập sách nhiều tác giả: Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Việt Nam. Nhìn lại một thế bỉ nghiên cúu bhoa học, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 7.
Cũng có người, có chỗ gọi là Trường Viễn đông bác cổ (#ÈFEO). Ở bài này, chúng tôi theo cách gọi: Viện Viễn đông bác cổ.
(13) Philippe Le Failler, bài đã dẫn, tr. 8.
Trong tập sách Viện Viên đông bá+ cổ Pháp tạt Việt Nam. Nhìn lại một thê sử nghiên cứu khoa học, có những đánh giả rất cao của GS Nguyễn Duy Quý, GS Trần Quốc Vượr g, GS Hà Văn Tấn, PGS Lại Văn Toàn,... về công trình của các nhà khoa học châu Âu, trong đó có những công trình viết về văn hoá dân gian Việt Nam. Thí dụ, GS Trần Quốc Vượng viết: "Tôi đã gặm mòn các tập BEFEO và được làm quen với các học giả P. Pelliot, G. Coedes, V. Goloubew, L. Aurousseau, H;/ Maspero, jJ. Przyluski v.V... qua các công trình nghiên cứu Đông phương học, Việt Nam học của họ. Sau này có sinh viên, nghiên cứu sinh cho rằng thế hệ chúng tôi được trưởng thành và trở thành học giả hàng đầu của thế hệ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không chỉ vì được học Chủ nghĩa Mác - Lênin và đọc các công trình của các học giả xô viết và Trung Hoa NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
lỗ
—————————————— ————————————==ễ=—ỄễỄEEEEETE
mới mà chủ yếu là được Pháp đào tạo". (tr.14)
G§ Hà Văn Tấn viết: "Các nhà khảo cổ học chúng tôi không những biết ơn các nhà học giả Pháp trong việc nghiên cứu các nền văn hoá cổ trên đất nước Việt Nam mà còn biết ơn họ trong việc bảo tồn và lưu giữ nhiều di tích của các nền văn hóa đó. Bão tàng Lịch sử Việt Nam hiện nay đã được tiếp quản gần như toàn bộ các sưu tập của Bdo tàng L. Finot". (tr. 20)
(14) Năm 1918, trong Chủ nghĩa Mác uà uàn hoá Việt Nam, đồng chí Trường Chỉnh nhận xét, trong lĩnh vực sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian “ta đã tập được phần nào tư tưởng và phương pháp làm việc khoa học”. (Dẫn theo Đỗ Bình Trị (1991): Văn học dân gian Việt Nam, tập L, tr. 76). Căn cứ vào vị thế lãnh đạo của tác giả và thời điểm phát biểu (lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang gay go, quyết liệt), hiện nay (năm 2001), chúng ta có thể hiểu ảnh hưởng của phương pháp làm việc khoa học đó là đáng bể, ở trên mức phần nào.
(15) Hà Văn Tấn (1998): “Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên với văn hóa Việt Nam", in trong tập sách: Nguyễn Văn Huyên: Góp phần nghiên cứu uăn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập T, tr, l8
(16) Trần Quốc Vượng (9000): Văn hoá Việt Nam tìùn tòi uà suy nghĩ, Nxb Văn hoá đân tộc và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, tr 952.
(17) Các công trình của Nguyễn Văn Huyên đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản thành hai tập Góp phần nghiên cứu uăn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995 - 1996. Năm 2000, hai tập này đã được Chủ tịch Nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
(18) Dẫn theo Đỗ Bình Trị (1991): Văn học dân gian Việt Nm, tập I, sđd
(19) Đồ Bình Trị (1991): Văn học dân gian Việt Nam, tập L, sđd, tr. 73
(20) Dân theo Định Gia Khánh (1997): Văn học dân gian Việt Nam, sửd, tr. 78
(21) Bài này đăng trên báo chí bí mật của Đảng vcừ năm 1944, tới cuối năm 1945 đăng lại trên tờ Tiên phong, số 2, ra ngày 1 tháng 12 (theo Chu Xuân Diên)
(22) Trương Chinh (1974): Chú nghĩa Mác uà uăn hoá Việt Nam (in lần thứ hai, có xem và sửa), Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 34 - Ò
(23) Văn biện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng xb, H, 1965. Đại hội này được tiến hành năm 1951 tại Việt Bắc. ở đây chúng tôi chuyển dẫn theo Chu Xuân Diễn, trong sách: Định Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997): Văn học dân gian Việt Nam, sủảd, tr. 841.
(24) Ỏ những lần xuất bản sau, tên sách là Lí h sử uăn học Việt Nam. Tập I: Văn học dân gian.
(25) Tác giả bài này có tham gia đợt sưu tầm vừa nêu.
(26) Tiền thân của Tạp chí Văn học là tập san Nghiên cứu văn học, ra từ năm 1960 đến giữa năm 1963 được chuyển thành Tạp chí Văn học. Từ năm 1960 đến năm 1969 ra mỗi tháng một kì. Từ 1970 đến 1998: hai tháng một kì. Từ 19941 đến nay: môi tháng một kì.
(27) Từ năm 1956 đến 1971, sách này được in bấy lần, trong sáu lần ín đầu, sách có tên là Tục ngữ uà dân ca Việt Nam. Sách này vừa sưu tầm, biên soạn vừa có những bài tiểu luận.
(28) Về tình hình nghiên cứu ở miền Nam (từ 1955 đến 30/4/1975) về văn hoá, văn học dân gian, xin xem:
a/ Nguyễn Quang Vinh (1977): “Về mấy khuynh hướng sai lầm ở các đô thị miền Nam trước ngày 30/4/197ỗ trong việc nghiên cứu văn học dân gian”, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 4.
b/ Lê Đình KịỊ (1987): Nhìn lại t†ư tưởng uăn nghệ thời Mĩ nguy, Nxb Thành phố Hoö Chí Minh 1G
NGUYỄN XUÂN KÍÑH

c/ Võ Quang Nhơn (1997), trong sách Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian Việt Nam, sủd, tr.564 - 571.
(29) Tạp chí Văn hoá nghệ thuật ra từ năm 1973, thời gian đầu ba tháng một kì, sau đó hai tháng một kì, từ năm 1994 đến nay ra mỗi tháng một kì. Thời gian đầu là Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, sau đổi là Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, hiện nay là Tạp chí Văn hoá nghệ thuật.
Từ năm 1983 đến năm:2000 Tạp chí Văn hoá dân gian ra ba tháng một kì, từ năm 2001 ra hai tháng một kì.
(30) Lời chào mừng của Tổng thống Cộng hoà Pháp Jacques Chirac trong lễ khánh thành Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ngày 12/11/1997, xin xem: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (1999): Các công trình nghiên cứu của Báo tàng Dán tộc học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, lf, Zã.,
(31) Nguyễn Văn Huy (1999), bài “Bão tàng Dân tộc học Việt Nam”, trong sách Các công trình nghiên cứu cúa Bdo tàng ân tộc học Việt Nam, tr. 29 - 30.
(32) Nguyễn Văn Huy, sdd, tr. 32
(33) Rất tiếc cho đến nay, bản luận án tiến sĩ khoa học của Bùi Mạnh Nhị, các bản luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Đức, Trần Đức Ngôn, Phạm Thu Yến, vẫn chưa được dịch và xuất bản ở Việt Nam.
(34) Tập ð, tập cuối cùng của bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi in lần đầu năm 1983. Năm 1993, lần đầu tiên ca bộ sách được tái bản trọn bộ trong cùng một năm.
Năm 1996, Chủ tịch Nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho:
+ Cụm công trình Văn học dân gian (1972 - 1973, chu biên), Trên đường tùn hiểu uăn hoá dân gian (1989), Văn hoá đân gian Việt Nam trong bối cảnh uăn hoá Đông Nam Á (1993), Văn hoá dân gian Việt Nam uới sự phát triển của xã hội Việt Nam (1995) của GS. Định Gia Khánh:
+ Cụm công trình Lược khảo uề thần thoại Việt Nam (1957), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (1958 - 1982), Địa chỉ an hoá dân gian Nghệ Tĩnh (chủ biên, 1995) của cố GS Nguyễn Đổng Chỉ:
+ Cụm công trình Truyện cổ Việt Nam (1955) và Tục ngử ca dao dân ca Việt Naàn (1956 - 1994) của cố nhà văn Vũ Ngọc Phan:
„ + Cụm công trình Tim hiếu thần thoại
An Độ (1964), Người anh hùng làng Dóng (1969), Tìm hiểu tiến trình uăn học dân gian Việt Nam (1974) của nhà nghiên cứu đã quá cố Cao Huy Đỉnh.
Năm 2000, Chu tịch Nước tặng giải thưởng Nhà nước cho cụm công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (1983) và Sử thị anh hùng Tây Nguyên (1997) của cố PGS Võ Quang Nhơn.
(35) Trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1991, có ý kiến cho rằng “thuật ngữ ăn hoá dân gian là vô nghĩa, không có nội hàm". Y Kiến này không có cơ sở khoa học và thực tế ngành nghiên cứu folklore ở Việt Nam đã bác bỏ. Về điều này, xin xem, thí dụ bài của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, số 5 năm 1990, bài của Trịnh Đình Niên, Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 năm 1999.
(36) Xim xem:
a/ Bản điều lệ về tổ chức hoạt động cua Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian, 199141, điều 1.
b/ Điều lệ Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 1990, điều 1 và Điều lệ Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 1995, điều 1.
c/ Nguyễn Tấn Đắc (1987) “Nội dung của folklore", Tạp chí Văn hoá dân gian, số 41.
d/ Trần Quốc Vượng (1990): “Folklore Việt Nam: trữ lượng và viễn cảnh”, Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số ã.
(37) Chu Xuân Diên (1995): Văn hoá dân gian (ƒolhlore) uà phương pháp nghiên cứu liên ngành, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xb, tr. 59.