NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
.TRRO ĐỔI:
uá trình sưu tầm, nghiên cứu văn
hoá, văn nghệ dân gian Việt Nam ở
thế KỈ XX bao gồm hai thời kì với mốc
phân kì là Cách mạng Tháng Tâm năm
1945.
LU VIỆC SƯU TÂM, NGHIÊN CỨU VĂN
HOÁ, VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT
NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM
Ngày 2ð tháng 8 năm 1883, tại kinh
thành Huế, nhà Nguyễn phải kí với Pháp
bản hiệp ước Hácmăng, đầu hàng hoàn
toàn, thừa nhận Pháp đặt quyển thống
trị trên toàn cõi Việt Nam. Đất nước ta bị
chia làm ba kì: từ Bình Thuận vào Nam
gọi là Côsanhsin, tức Nam E), thuộc địa
Pháp, từ Khánh Hoà tới Đèo Ngang gọi là
An Nam, tức Trung Kì, theo chế độ nửa
bảo hộ, từ Đèo Ngang ra Bắc gọi là Tông
canh, tức Bắc Kì, theo chế độ bảo hộ của
Pháp. Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều
đình Huế lại còn phải kí bản hiệp ước
Patơnốt. Nội dung bản hiệp ước này căn
bản giống hiệp ước năm 1883; Pháp đưa
thêm mấy tỉnh Bình Thuận, Hà Tĩnh,
Nghệ An, Thanh Hoá vào Trung Kì, và về
danh nghĩa thì cho triều đình Huế cai
quản, nhưng dưới sự bảo hộ của Pháp,
nước Pháp sẽ thay mặt triều đình trong
mọi quan hệ đối ngoại". “Chia cắt Việt
Nam làm ba kì, thực dân Pháp nhằm xoá
bỏ sức mạnh thống nhất của dân tộc Việt
Nam. Hợp nhất Việt Nam với Lào,
MỘT THẾ KỈ SƯU TẦM,
NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ,VĂN
NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
NGUYÊN XUÂN KÍNH')
Campuchia thành Liên bang Đông
Dương, chúng lại nhằm xoá bỏ tên Việt
Nam, cũng như tên Lào và Camipuchia
trên bản đồ thế giới. Đó là hai mặt của
cùng chính sách thâm độc của chúng”?”,
Đứng đầu Liên bang Đông Dương là
toàn quyền, thay mặt chính phủ Pháp để
cai trị Đông Dương về mọi mặt chính tr,
quân sự, dân sự, ngoại giao,... Dưới toàn
quyền là năm quan chức đứng đầu năm
xứ: Thống đốc Nam Kì, thống sứ Bắc Kì.
và ba khâm sứ ở Trung Kì, Lào,
Campuchia. Dưới cấp kì là cấp tỉnh.
Đứng đầu mỗi tỉnh Nam Kì là một viên
chủ tỉnh, ở Bắc Kì và Trung Kì là một
viên công sứ, tất cả đều là người Pháp”.
Như vậy, từ năm 1883 cho đến đêm
trước của Cách mạng Tháng Tám (1945),
Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
quân chủ.
Mấy chục năm đầu thế kỉ XX, các nhà
Nho (trong đó có người làm quan) tiếp tục
truyền thống ghi chép, biên soạn văn học
dân gian có từ các thế kỉ trước, đã dùng chữ
Nôm (là chủ yếu) biên soạn tục ngữ, ca đao:
Th«nh Hoá quan phong (Vương Duy Trình
soạn năm 1903); Đại Nam quốc tuý (Ngô
Giáp Đậu soạn năm 1908); Việt Naờn phong
sử (Nguyễn Văn Mại biên soạn năm 1914);
Nam âm sự loại (Vũ Công Thành soạn
năm 192ã). Sách Nam quốc phương ngôn
(*) PGS, TS, Viện Nghiên cứu văn hoá dân
gian
4
NGUYỄN XUÂN KÍNH
tục ngữ bị lục không để tên người soạn,
được khắc In năm 1914 là trường hợp đặc
biệt: mỗi trang chia làm hai tầng. tầng
trên bằng chữ Nôm, tầng dưới bằng chữ
quốc ngữ phiên âm nội dung tầng chữ
Nôm. Một số sách được biên soạn từ thế
kỉ XIX, nay được xuất bản: W)ưm phong
giải trào (Nxb Liều văn đường khắc in
năm 1910), Quốc phong thị tập hợp thái
(Nxb Quan văn đường khắc in năm 1910).
Các nhà Nho trần trọng và đánh giá
cao thơ ca dân gian. Đóng góp lớn nhất
của các sách do bọ biên soạn là đã cung
cấp những cứ liệu cho việc nghiên cứu
lịch sử tục ngữ và thơ ca dân gian. Về
hạn chế, phương pháp phân loại chưa
thật nhất quán và khoa học, việc chú giải
phần nhiều khiên cưỡng, chủ quan (thí
dụ Việt Nam phong si”,
5o với các nhà Nho, các tắc giả
phương Tây đã chú ý nhiều hơn, bài bản
hơn đối với văn hoá dân gian Việt Nam.
Từ các thế kỉ XVII, XVIII, XIX, các
cha cố người Pháp như Đơ Rốt, Vasee, Gô
bìn, những thương nhân người Anh như
Tavecnhiê, Barơn đã viết các hồi kí,
những bản tường thuật về tình hình
chính trị xã hội, về văn hoá, phong tục
tập quán nước ta. Sang thế kỉ XX, việc
nghiên cứu văn hoá Việt Nam được người
Pháp tiến hành nhiều hơn. có tổ chức
hơn. Ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện
Viễn đông bác cổ (EFEO) được thành lập
tại Sài Gòn. sau đó hai năm, trụ sở của cơ
quan này được chuyển ra Hà Nội. Phi nô,
giám đốc đầu tiên của viện này đã lặp lại
gần như nguyên xi lời nói của Đume,
toàn quyển Đông Dương: "Muốn cai trị
tốt các dân tộc thuộc địa thì điều trước
tiên là phải hiểu tường tận đân tộc mình
cai trị như thế nào ”” Những người
nghiên cứu bao gồm cha cố, giám mục, võ
quan, công sứ và các học giả. Các lĩnh
vực nghiên cứu gồm có luật tục. sử thi.
truyện dân gian, hội lễ, mĩ thuật, văn
hoá tộc người và khảo cổ.
Kì thị chủng tộc. coi châu Âu là trung
tâm là điều dễ nhận thấy trong các công
trình nghiên cứu của ngươi Pháp. Trong
khi nghiên cứu trống đồng Đông Sơn,
Gianxê đem đối chiếu văn hoá Đông Sơn
với văn hoá đồ đồng Trung Quốc thời Tần
Hán và chứng minh cả hai nền văn hoá
ấy đều có nguồn gốc từ văn hoá đồ đồng
Hanxtát ở châu Âu. Về tiếng Việt,
Matxpêrô nhận xét: “Tiếng An Nam chưa
bao gø1ỡ là một ngôn ngữ văn minh cä, văn
học, hành chính, luật pháp, tất ca đều
viết bằng tiếng Trung Quốc cho mãi đến
gần đây”””. Khi nghiên cứu các phong tục
tập quán các dân tộc ở Đắc Lắc, Metơrơ
khăng định: “Người Mnông và người Bi
không hề biết hát”“?. Beena cũng có nhận
xét tương tự về người đê: “Vốn dân ca
của người Rađê không có øì”?. Để chỉ các
dân tộc ít người, không ít lần họ dùng các
từ “mọi rợ”, “đã man”.
Phương hướng nghiên cứu nhằm
phục vụ cho mục đích cai trị đã khiến cho
sử thi và truyện kể dân gian (vốn là đối
tượng của khoa nghiên cứu văn học đân
gian, một ngành khoa học ra đời ở châu
Âu từ nửa sau thế kỉ XIX) không được
xem xét với tư cách là đối tượng của một
bộ môn nghiên cứu độc lập, mà chỉ được
coi như những tài liệu hỗ trợ. phục vụ
cho nghiên cứu dân tộc học, xã hội học.
Các tác giả muốn thông qua các tác phẩm
đó để tìm hiểu phong tục, tập quán, tình
hình xã hội. Có lúc có người còn trắng
trợn xuyên tạc sự thật vì mục đích chính
trị. Đó là trường hợp giám mục Đuôc nơ
bịa chuyện Xơrơđen (vị thần thuỷ tổ của
người Hơrê) gắn bó với người Pháp:
trưởng hợp công sứ Sabachiê bịa đặt
thêm một đoạn luật tục (trong luật tục
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Ö
truyền miệng vốn có từ lâu đời của người
Êđê) để chia rẽ các dân tộc ít người với
ngươi Kinh (Việt), khuyên nhủ các dân
tộc ít người đừng đấu tranh chống Pháp
mà hãy sống hoà thuận với người da
trắng.
Cái nhìn kì thị chủng tộc, phương
hướng nghiên cứu không đúng và những
trường hợp bịa đặt. phản khoa học nêu
trên là một thực tế.
Ngoài ra, còn có một thực tế nữa đưới
đây.
Hai cuộc khai thác thuộc địa trước và
sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914
- 1918) làm thay đổi cơ cấu xã hội Việt
Nam. Một mặt, đân tộc ta chống lại sự
đàn áp, bóc lột, chống lại ách đô hộ: mặt
khác, người Việt Nam đã tiếp thu những
cái hay, cái mới của văn hoá Pháp. Điều
này nhiều khi nằm ngoài ý muốn của
những kẻ đi xâm lược.
Tiếng Việt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tiếng Pháp về mặt cú pháp, để rồi
những năm 30, 40 của thế kỉ XX, bên
cạnh văn xuôi nghệ thuật, đã xuất hiện
văn xuôi chính luận, khoa học viết bằng
quốc ngữ. Khi người Việt Nam tiếp xúc
với văn học và khoa học của châu Âu (qua
tiếng Pháp) nói chung, của nước Pháp nói
riêng, các công trình về tu từ học, những
bản tuyên ngôn nghệ thuật của chủ
nghĩa cổ điển. chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện thực... trở nên quen thuộc
trong tầng lớp trí thức Tây học thượng
lưu và trung lưu người Việt. Có thể nói.
với sự tiếp xúc với văn học và khoa học
Pháp. văn hoá Việt Nam kết thúc một
thời kì dài khép kín ở phương Đông, văn
học Việt Nam bắt đầu quá trình hiện đại
hoá và đần dần gia nhập vào quỹ đạo văn
học thế giới.
Khi nhìn lại ảnh hưởng của tiếng
Pháp và văn học Pháp, GS Đặng Thai
Mai đã viết: “Riêng về phần tôi, trong
mấy năm học trung học, tôi đã có thể đọc
được ít nhiều tác phẩm của các nhà văn
tiêu biểu cho văn học Pháp. Tôi mơ màng
cảm thấy răng trong bấy nhiêu áng văn
chương đường như bao giờ cũng có một
cái gì có thể gọi là tỉnh thần đân tộc
Pháp. Phải chăng đó là cái lối viết sáng
sủa, trật tự, phân mình, thỉnh thoảng dí
dỏm nhưng cũng không thiếu những
nhận xét khá sâu sắc về tâm lí một nhân
vật, về nếp sống một tầng lớp xã hội, về
sinh hoạt của một thời kì lịch sử, về nét
phổ biến của nội dung???”
Không phải người Pháp nào cũng kì
thị văn hoá Việt Nam. Xãm nêu một
trương hợp. Cadie là công chức ngành
thuế, làm phiên dịch ở Sở Tư pháp Đông
Dương, dạy tiếng Việt và chữ Hán ở
những lớp mở cho công chức người Pháp,
nghiên cứu văn học dân gian và văn học
trung đại Việt Nam. Năm 1942, ông ta
viết như sau: “Tôi đã hiểu người An Nam
vì tôi đã nghiên cứu điều liên quan đến
họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng nói của họ, từ
khi mới đến nước này, và hiện nay tôi
tiếp tục làm việc ấy, tôi đã thấy răng
tiếng An Nam rất tỉnh tế về phương diện
cấu trúc, và sự phong phú của nó về
phương điện từ vựng thì không được phép
coi thường như ngày nay người ta quá ư
quen làm”,
Thực tế văn hoá Việt Nam, ánh sáng
mới của thời đại và lương tri của con
người đã làm cho các tác giả phương Tây
có những biến đổi lớn trong cách nhìn và
trong sự đánh giá văn hoá dân gian Việt
Nam. Từ công trình về trường ca Hơrê
(năm 1948) đến công trình nghiên cứu về
các tù trưởng Lửa và Nước ở vùng người
Giaral (1977), giám mục Đuốcnơ đã có
6
NGUYÊN XUÂN KÍNH
==....Ö......... " ".ẻễễễ.moaAAAeaụaụaụuauaụuụuaụaựaụuụaaanaaamr
bước chuyển quan trọng. ở công trình
sau, ông chú trọng nhiều đến cơ sở lịch
sử của thần thoại và đã tôn trọng sự thật
, II
khách quan,
Viện Viễn đông bác cổ được thành lập
nhằm phục vụ cho sự cai trị của chính
phủ Pháp. Sự thực thì ý đồ này đã được
các học giả thực hiện đến đâu? Cuối năm
2000, một học giả Pháp đã viết như sau:
“Viện Viễn đông bác cổ được hình thành
với ý tưởng là cơ quan phụ trợ cho hệ
thống thuộc địa, hệ thống đã sinh ra
Viện, nên ngay từ khi thành lập, EFEO
đã vấp phải những mâu thuẫn về thể chế
cũng như thiên hướng của mình. Liệu
nhà nghiên cứu của Viện có cần phải là
một nhà “bác học thực dân”, phục vụ cho
một tham vọng cai trị và người này sẽ
phải cung cấp những bí mật của một số
đân tộc nào đó cho tham vọng này không?
Liệu nhà nghiên cứu này có cần phải
hiện điện như một kĩ thuật viên say mê
lặp lại những phương pháp điều tra và
phân tích có từ châu Âu cho một đối
tượng nghiên cứu ngoại lai và xa lạ? Cuối
cùng, bằng một công việc nhẫn nại buộc
ông ta phải có sự khiêm tốn cần thiết,
liệu ông ta có thể trở thành những con
người như vậy, những con người đi theo
hai nền văn mình, có khả năng hiểu thấu
những quan điểm đồng nhất đối với lợi
ích được chia sẻ cho nền văn mình này
cũng như nền văn mình kia. Tình trạng
tiến thoái lưỡng nan chưa bao giữ được
giải quyết, tuy nó lại có khả năng được
phát triển rộng. Thái độ do dự này, giữa
một bên là những môi quan hệ gắn cội
nguồn với Pháp và một bên là sức hấp
đẫn đối với một đất nước và đối với một
nền văn minh cần nghiên cứu, đã biến
các nhà nghiê+ cứu người Âu của Viện
thành những con người phức tạp. đôi khi
bị nghi là thông đồng với người bản xứ,
thường được thừa nhận là những nhà bác
học lỗi lạc”°”.
Năm 1908, khi Viện Viễn đông bác cổ
tuyên truyền cho sự kiện Phan Châu
Trinh liền bị toàn quyền Đông Dương
nhắc nhở. Viện “đã phải giới hạn những
cuộc điều tra của mình trong phạm vì các
lĩnh vực không có khả năng làm tổn
thương hay gây thiệt hại cho lợi ích cua
chính quyền Pháp. Chủ trương đưa ra là:
tất cả những øì liên quan đến khoa học
xã hội đều bị cấm. Còn lại là khảo cổ học,
ngôn ngữ, nghiên cứu văn bản cổ, sử học,
bảo tàng học và đân tộc học nhưng chỉ
được tiến hành một cách dè đặt”.
So với các nhà Nho Việt Nam, các tác
giả người Pháp đã viết nhiều hơn, có tổ
chức và rất bài bản về văn hoá vật chất
và tỉnh thần Việt Nam. trong đó số công
trình viết về văn học dân gian, văn hoá
dân gian chiếm một tỉ trọng lớn. Có
những lĩnh vực nhà Nho không quan tâm
sưu tầm, nghiên cứu như sử thi, luật tục
thì người Pháp đã chú ý. Có những khía
cạnh nhà Nho chưa đi sâu thì người Pháp
nghiên cứu kĩ hơn. Qua các công trình
của họ, người Việt tiếp thu được tư tưởng
và phương pháp làm việc khoa học.''” Tất
cả những ghi chép. sưu tầm, nghiên cứu
của họ về văn hoá, văn nghệ dân gian là
những tư liệu cần thiết quý, hiếm đối với
việc tìm hiểu lịch sử văn học dân gian,
văn hoá đân gian. Thực tế văn hoá Việt
Nam và lương tri của người cầm bút đã
giúp cho hkaông ít trường hợp họ đánh giá
đúng văn hoá dân gian nước ta. Tuy
nhiên. do cách tiếp cận văn học dân gian
như những tài liệu phụ trợ cho đân tộc
học nên chưa thể hình thành khoa
nghiên cứu uăn học đân gian với ý nghĩa
đầy đủ và chính xác của thuật ngữ này.
Cũng có một số trường hợp mà ở đó tác
giả này hoặc tác giả khác thể hiện cái
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
{
nhìn kì thị. coi châu Ân là trung tâm,
thậm chí xuyên tạc, bịa đặt folRlore
nhằm phục vụ cho ý đồ chính trị của bọn
thực dân. Đã có một thời, những trang
viết như thế không phải là không gây tác
hại. Ngày nay, đối với những trang viết
ăy, chúng ta không khó khăn trong việc
nhận chân gl14 trị.
Sau mươi năm được đào tạo ở Pháp,
cuối năm 1985 tiến sĩ Nguyên Văn Huyên
về nước, dạy học, rồi làm việc ở Viện Viễn
đông bác cổ cho đến năm 1946. Các công
trình của ông được viết và xuất bản bằng
tiếng Pháp, tập trung vào hai chủ để tín
ngưỡng và thiết chế xã hội nông thôn
Việt Nam. Giáo sư Hà Văn Tấn đã nhận
xét: “(...) tuy được tiếp thu một cách có hệ
thống học vấn và văn hoá Pháp, nhưng
với tinh thần dân tộc cao và với sự hiểu
biết sâu sắc về truyền thống văn hoá Việt
Nam và phương Đông, Nguyễn Văn
Huyên đã làm cho các công trình của
mình cố một phong cách riêng. Ông
chuộng sự chính xác trong tài liệu,
nhưng chừng mực, vừa phải trong lí luận.
Ông có tư tưởng nhưng không bao giờ đẩy
đến cực đoan. Do đó cái khuynh hướng xã
hội học trong dân tộc học của trường phái
Pháp ở ông lại trở nên hợp lí, gần gũi với
chủ nghĩa duy vật lịch sử của trường
phái MarxistP2”,
Có người gọi Nguyễn Văn Huyên là
nhà dân tộc học. Có người mệnh danh
ông là nhà sử học. Có người m:iốn gọi ông
là nhà văn hoá học”? Tuy ýng có những
công trình rất sáng giá về mặt tư liệu
cũng như về phương »háp luận như Hới
đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam
(1934), Những khúc ca đám cưới Tày ở
Lạng Sơn uà Cao Bảng (1941), nhưng
thật khó mà nói răng với Nguyễn Văn
Huyên đã có sự >a đời của khoa nghiên
r xe ˆ * 5 - I7)
cứu văn học dân gian ở Việt Nam °.
Thực dân Pháp có ý thức đào tạo tầng
lớp trí thức bản xứ để xây dựng nền văn
hoá thuộc địa gắn bó chặt chẽ với văn hoá
chính quốc. Phủ toàn quyền Đông Dương
cấp tiền trợ cấp cho Đông Dương tạp chí
và Nam phong tạp chí. Những người như
Trương Vĩnh Kí Huỳnh Tịnh Của,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là sản
phẩm của chính sách văn hoá thực dân.
Trên tạp chí Nam phong, số 4, Phạm
Quỳnh đã viết: “Bọn ta sinh ra trong buổi
giao thời, phải bão tồn lấy nền văn hoá cũ
trong nước mà thâu nhặt lấy vẻ văn minh
thời nay. Muốn bão tôn nền văn hoá cũ,
nên duy trì lấy đạo luân thường trong
quốc dân: đầu luân thường là tôn quân
(...). Muốn thâu nhặt vẻ văn minh mới,
nên theo đõi nền học thuật của thế giới:
biển học thuật ấy là Đại Pháp ân quốc ta
vậy ”°”, Những cuốn sách của các tác giả
kể trên, trong đó các sách sưu tầm, biên
soạn văn học dân gian chiếm một tỉ lệ
đáng kể có đóng góp chủ yếu trên phương
điện tư liệu, những tư liệu cần thiết
trong việc tìm hiểu lịch sử văn học đân
gian người Việt.
Có những trí thức tân học ít hay
nhiều độc lập với chính sách văn hoá
thực dân. Đó là Phạm Quang Sán, Đoàn
Duy Bình, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn
Văn Tố, Hoa Băng, Nguyễn Văn Ngọc,
Dương Quảng Hàm... và các nhóm
Thanh nghị, Tri tân. Về mặt nhận thức,
với thiên “Văn chương bình dân” (Văn
chương truyền khẩu) trong sách Việt
(1943). Dương
Quảng Hàm “là người đầu tiên định vị
văn học dân gian trong nền văn học dân
tộc”? Công lao đáng kế của các nhà trí
thức tân học tập trung ở phương diện sưu
tầm, biên soạn văn học dân gian: Nguyễn
Văn Ngọc với Tục ngữ phong dao (1928,
hai tập), Truyện cổ nước Nam (1932 tập L,
Nam uăn học sử yếu
8
NGUYÊN XUÂN KÍNH
1934 tập II), Nguyễn Can Mộng với Ngạn
ngữ phong dao (1936. tái bản 1941).
Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ. khi có
học giả phương Tây phủ nhận nền văn
hoá Việt Nam độc đáo, khi có học giả
Pháp trắng trợn viết rằng, truyện Tin
Cám chỉ là mô phóng truyện Cô Lọ kem
mà các cha cố Pháp đem sang nước ta từ
thế kỉ XVIII, ý Kiến sau đây của Nguyễn
Văn Ngọc trong lời tựa sách Truyện cô
nước Nam thật đáng chú ý. thể hiện sự
tình thần tự tôn dân tộc: “Những truyện
cổ chúng tôi sưu tập đây, chúng tôi dám
quyết rằng thật của riêng nước Nam, tự
người Nam sắng tác, xuất sản ra, chứ
không phải đi vay, đi mượn. nhờ vả vào ai
mà được”?€?,
Vào nửa đầu những năm 40, đã có
một số bài viết, bài nói theo quan điểm
mác xít về văn học dân gian, tiêu biểu là
bài “ÝY nghĩa nhân sinh trong truyện cười
nước ta ngày xưa” của Đặng Thai Mai
đăng trên Tạp chí Tr1 tân năm 1943.
*
ba *
Tính từ đầu thế kỉ XX đến đêm trước
của Cách mạng Tháng Tám là 4ð năm.
Trong thời kì này, có nhiều khuynh hướng
sưu tầm, nghiên cứu văn hoá dân gian. Có
khuynh hướng của các nhà Nho. Có
khuynh hướng của các tác giả người Pháp.
Có khuynh hướng của các trí thức tân học
có ý thức phục vụ chính sách văn hoá của
chính quyền thực dân. Có khuynh hướng
của các trí thức tân học ở những miức độ
khác nhau độc lập với chính sách văn hoá
thực dân. Có cả mầm mống của khuynh
hướng nghiên cứu văn học dân gian theo
quan điểm mác xít. Về mặt văn tự, có loại
tài liệu viết bằng chữ Nôm là chủ yếu, có
tài liệu vừa viết bằng chữ Nôm vừa dùng
quốc ngữ, có tài liệu chữ Pháp: có tài liệu
chữ quốc ngữ.
Trong các thành tố của văn hoá dân
gian, văn học dân gian được chú ý nhiều
hơn. Tuy vậy ở nước ta. trước Cách mạng
Tháng Tám. chưa ra đơi hoa nghiên cứu
ouăn học dân gian. Cũng chưa thể nói đến
sự có mặt của bhoa nghiên cưú uăn hoá
dân gian (folhlore học).
I- VIỆC NGHIÊN CỨU, SƯU TẤM,
GIẢNG DẠY, PHÔ BIỂN, BẢO LƯU
VĂN HOÁ DÂN GIAN TRONG THỜI
KÌ TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM Đ¿¿N NAY
Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỉ
nguyên mới cho sự phát triển về nhiều
mặt của đời sống dân tộc, đồng thời tạo
tiền đề cho sự phát triển văn hoá - khoa
học của đất nước. Điều này không chỉ
đúng với nhiều ngành khoa học khác mà
còn rất đúng với khoa nghiên cứu văn
học dân gian và khoa nghiên cứu văn hoá
dân gian.
Có thể phân chia thời kì sưu tầm.
nghiên cứu từ sau Cách mạng Tháng
Tám (194ã) đến nay thành ba giai đoạn:
1/ từ cuối năm 194ã đến hết năm 19ã4; 2/
từ năm 1955 đến tháng tư năm 197ã: 3/
từ sau tháng tư năm 197ã đến nay.
A/ Giai đoạn từ cuối năm 1945 đến
hết năm 1954
Từ cuối năm 1945 đến hết năm 19ã4
là giai đoạn xây dựng và củng cố những
quan điểm mácxít về văn học nghệ thuật
dân gian, là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra
đời và phát triển của ngành nghiên cứu
văn học dân gian trong giai đoạn sau. Đã
có những tài liệu có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo việc xây dựng nền văn hoá
mới. Những tài liệu quan trọng nhất là
bài “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận
động văn hoá mới Việt Nam hiện nay”
của đồng chí Trường Chinh“”, bản báo
cáo Chủ nghĩa Mác uà uăn hoá Viêt Nam
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9
— 7B B B ằ—CCCE
do đồng chí Trường Chinh đọc tại Hội
nghị văn hoá toàn quốc lần thứ bai
(1948), bản thuyết trình “Xây dựng văn
nghệ nhân dân” do nhà thơ Tế Hữu trình
bày tại Hội nghị tranh luận về văn nghệ
tổ chức ở Việt Bắc (1949). Những vấn đề
như vai trò của quần chúng trong lịch sử
xã hội nói chung và lịch sử văn hoá nói
riêng, giá trị của nền văn hoá nhân dân
(chủ yếu là chỉ nền văn nghệ dân gian),
việc tiếp thu đi sẵn văn hoá nhân dân để
phục vụ cho việc xây dựng nền văn hoá
dân chủ mới - những vấn đề đó đã được
phân tích sâu sắc. Thí dụ. trong bản báo
cáo Chủ nghĩa Mác uà uăn hoá Việt Nam,
tác giả nêu rõ: “Bên cạnh văn hoá chính
thống của các thời đại, có cä nền văn hoá
nhân dân còn lưu lại trong phương ngôn,
ngạn ngữ, ca đao, truyện cổ tích, tranh
gà lợn,... v.v... Văn hoá này tả sự phấn
đấu của những người lao động (làm
ruộng, làm thợ, đi buôn....), lòng mở ước
của nhân dân về một tương lai tươi sắng
hay là chí phần kháng của họ đối với bọn
quyền quý; chế giêu hủ tục mê tín, dị
đoan hoặc khuyên răn làm điều “thiện”,
tránh điều “ác”. Đó là một kho tàng rất
phong phú mà các nhà văn học, sử học,
khảo cổ học nước ta còn phải dày công
tìm tòi, nghiên cứu mới hiểu hết được”””.
Đang Cộng sản Việt Nam kêu gọi
phải “ra sức phát triển vốn văn nghệ cũ
của dân tộc, nhất là vốn văn nghệ bình
dân”#”, Không phải ngay từ đầu các văn
nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hoá đã
quán triệt tư tưởng trên. Quá trình thực
hiện đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng
là quá trình đấu tranh cho quan điểm
mácxít đúng đắn về vai trò của dòng văn
nghệ dân gian trong sự nghiệp xây dựng
nền văn nghệ mới. Quá trình đấu tranh
vừa nêu được.thể hiện rõ nhất, tập trung
nhất trong Hội nghị tranh luận về văn
nghệ ở Việt Bắc (1949), trong Hội nghị
tranh luận về sân khấu ở Việt Bắc (1950),
tại cuộc họp văn nghệ ở Nam Bộ (1951).
Trong thời gian kháng chiến chống
Pháp, mặc dù đã ra đời Ban Văn Sử Địa
từ tháng 12 năm 1953, cũng chưa thể nói
ở nước ta đã có các cơ quan chuyên ngành
để sưu tầm nghiên cứu văn học, văn nghệ
đân gian.
Bí Giai đoạn từ năm 1955 đến
tháng từ nắm 1975
Sau hiệp định Giơnevơ (1954), miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng. Trong
khung cảnh ổn định, các nhà nghiên cứu
có điều kiện cần thiết để từng bước xây
dựng bộ môn khoa học mác xít về văn học
đân gian.
Từ cuối những năm ðO, việc giảng dạy
văn học dân gian một cách có hệ thống đã
được tiến hành ở bậc đại học. Đầu những
năm 60, các tập giáo trình đại học về văn
học dân gian được xuất bản. Ở Trường Đại
học sư phạm Hà Nội có Giáo trình lịch sử
uăn học Việt Nam tập Ïl: Văn học dân gian,
của Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Nghĩa Dân.
Lí Hữu Tấn, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị,
Lê Trí Viễn, công bố lần đầu năm 1961,
(đến năm 1978 thì được in đến lần thứ
năm)#®, Ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội
có Văn họ: dân gian Việt Nam của Đình
Gia Khánh, Chu Xuân Diên, xuất bản năm
1969, đến đầu những năm 70, một bộ giáo
trình mới của hai ông được công bố: Văn
học dân gian, gồm hai tập (tập I: 1979. tập
II: 1973). Năm 1959, tại Viện Văn học, tổ bộ
môn Văn học Cổ cận dân (cổ đại, cận đại,
dân gian) được thành lập.
Việc sưu tầm, nghiên cứu các lĩnh vực
khác như chèo, âm nhạc dân gian, múa dân
øian.... do các cơ quan trực thuộc Bộ Văn
hoá đảm nhiệm.
Cuối năm 1966, tại Hà Nội, Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam tổ chức Đại hội
10
NGUYÊN XUÂN KÍNH
thành lập với sự có mặt của mười vị sáng
lập viên (Hà Huy Giáp. Nguyễn Văn
Huyền. Đặng Thai Mai, Cù Huy Cận, Hoài
Thanh. Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ
Cung, Bao Định Giang, Vũ Ngọc Phan.
Nông Quốc Chấn) và trên 900 hội viên.
Năm 1967, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
này được Chính phủ công nhận. Từ sau sự
kiện này, ở mỗi Tỉ Văn hoá thông tin của
từng tỉnh đều có tiểu ban Văn nghệ đân
gian. Năm 1979, Hội đã tổ chức cuộc thi
sưu tầm văn học đân gian và trao giải
thưởng. Đã xuất hiện hình thức hợp tác
sưu tầm giữa một cơ quan ở trung ương với
tiểu ban Văn nghệ dân gian địa phương: thí
dụ năm 1974, Tổ Văn học dân gian của
Viện Văn học phối hợp với tiểu ban Văn
nghệ dân gian Thanh Hoá khoanh vùng
sưu tầm văn học dân gian tại một xã”,
Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp
phối hợp với tiểu ban vừa nêu khoanh vùng
sưu tầm văn học dân gian tại một huyện.
Đóng vai trò công bố kịp thời những tư
liệu mới sưu tầm, những suy nghĩ mới nhất
của các nhà nghiên cứu, trở thành diễn đàn
của những cuộc thảo luận, thậm chí tranh
luận về văn học dân gian là tờ Tạp chí Văn
học '“?, Nó đã công bố nhiều bài viết của Vũ
Ngọc Phan, Định Gia Khánh, Cao Huy
Đỉnh. Bùi Văn Nguyên, Chu Xuân Diễn,
Hà Châu, Đặng Văn Lung, Phan Đăng
Nhật. Nguyễn Quang Vinh, Vù Ngọc
Khánh, Trần Đức Các...., đã đăng những ý
Kiến khác nhau về truyện “MỊ Châu Trọng
Thuỷ”, về truyện “Trương Chỉ”. về vấn để
văn học đân gian hiện đại.
Từ năm 19ãã đến năm 1966, thành tựu
dê thấy nhất là việc sưu tầm. biên soạn và
xuất bản hàng loạt cxốn sắch sưu tầm văn
học dân gian và một số sách sưu tầm chèo
cố. Từ năm 1967 đến tháng tư năm 1975,
một mặt thì các cuốn sách sưu tầm, biên
soạn về văn nghệ, văn học dân gian tiếp tục
được xuất bản; mặt khác những công trình
nghiên cứu xuất hiện nhiều hơn trước.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến thắng
tư năm 18/5, những công trình có giá trị
trong lĩnh vực sưu tầm, biên soạn văn
học dân gian là Tục ngữ ca dao dân ca
Việt Nam của Vũ Ngọc Phan”, Kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam (bốn tập đầu) của
Nguyễn Đổng Chi. Về phương diện nghiên
cứu đã có những cuốn sách cắm mốc: Mgười
anh hùng làng Dóng, Tìm hiểu tiến trình
uăn học dân gian Việt Nam đều của Cao
Huy Đỉnh. hai tập Văn học dân gian (1979-
1973) của Định Gia Khánh, Chu Xuân
Diên.
Nhìn chung, cho đến đầu những năm
70. tuy còn một vài chỗ yếu về lí luận và
phương pháp. ngành nghiên cứu văn học
dân gian ở miền Bác đã có những bước
trưởng thành rõ rệt. Trong số nhiều
nguyên nhân tạo nên sự trưởng thành, có lí
do là các nhà khoa học nước ta ở những
mức độ khác nhau đều đã chịu ảnh hưởng
tích cực của các nhà khoa học xô- viết (Liên
Xô cũ).
Ở các lĩnh vực nghiên cứu chèo sân
đình, sân khấu rối tuy cũng đã có cán bộ
chuyên trách. đã xuất bản một số cuốn sách
sưu tầm, nghiên cứu nhưng thành tựu
chưa thật nổi bật như ở lĩnh vực nghiên
cứu văn học dân gian.
Trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị
chia cắt các nhà khoa học miền Bắc không
có điều kiện trực tiếp sưu tầm và nghiên
cứu tại chỗ văn học dân gian nói riêng, văn
nghệ dân gian nói chung của nửa nước phía
Nam”.
C/í Giai đoạn từ sau tháng tư năm
1975 đến nay
Đất nước thống nhất (30/4/197ã) mở ra
một triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển
của khoa học, trong đó có ngành nghiên
cứu văn hoá dân gian.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cÁ
—===== 6ˆ
Về mặt tổ chức, đã ra đời một cơ quan
mới: 1979, Ban nghiên cứu văn hoá dân
gian (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt
Nam); 1983 ban này được nâng thành Viện
Văn hoá dân gian; 1993, Viện được đổi tên
là Viện Nghiên cứu văn hoá đân gian.
Về mặt đào tạo, nếu trước giải phóng
miền Nam, ở miền Bắc chỉ đào tạo đến
trình độ đại học thì trong giai đoạn này đã
có chế độ đào tạo trên đại học ở trong nước;
từ những năm 80, đào tạo nghiên cứu sinh
về văn học dân gian (bằng phó tiến sĩ, nay
gọi là điển sĩ), từ những năm 90, có thêm
chế độ đào tạo cao học về văn học dân gian
(bằng thạc sĩ).
Năm 1994 bắt đầu có chế độ đào tạo cao
học ngành văn hoá dân gian. Từ tháng 3
năm 2001, Chính phủ cho phép đào tạo tiến
sĩ văn hoá dân gian.
Tháng 1 năm 1983, Tạp chí Văn hoá
dân gian được phép xuất bản. Từ đây trở đi,
bên cạnh Tạp chí Văn học, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, do chức năng, nhiệm vụ của
mình, Tạp chí Văn hoá dân gian là cơ quan
chuyên môn công bố được nhiều hơn các bài
viết về folklore"”””.
Sau một số năm gặp khó khăn về tổ
chức (các tiểu ban Văn nghệ dân gian ở các
Ti Văn hoá thông tin bị giải thể là một thí
dụ), tháng 12 năm 1989, Đại hội lần thứ
hai của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
được tổ chức và tiến hành đại hội thành
công. Nếu Đại hội lần thứ nhất (1966) là
Đại hội dựng nghiệp. thì Đại hội lần thứ
hai là Đại hội hổi sinh, Đại hội lần thứ ba
(1995) là Đại hội phéứt triển. Đại hội lần thứ
tư (2000) là Đại hội nâng cao chất lượng.Tùừ
Đại hội lần thứ tư, Hội tự nguyện xác định
là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp. Mấy năm gần đây, Hội đã làm được
nhiều việc có ích: góp phần xuất bản những
cuốn sách về nghề và làng ghề. tổ chức
triển lãm, góp phần tôn vinh những nghề
hay tài khéo của ông cha, phối hợp với các
địa phương, các cơ quan khác tổ chức nhiều
cuộc hội thảo khoa học, mở hàng chục lớp
tập huấn về nghiệp vụ sưu tầm, nghiên cứu
văn hoá, ván nghệ dân gian, trên địa bàn
từ Lào Cai về Phú Thọ, Hải Phòng, Hà Tây,
Hoà Bình, qua Ninh Bình, Thanh Hoá,
Nghệ An.... đến tận Kiên Giang. Từ năm
1993 trở đi, Hội trao giải thưởng hằng năm
cho các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn
hoá, văn nghệ dân gian. Hội đã quan tâm
một cách thiết thực và có hiệu quả đến
những hội viên có đóng góp quan trọng đối
với công cuộc sưu tầm, nghiên cứu và phổ
biến văn hoá, văn nghệ dân gian gặp khó
khăn về sức khoẻ, về đời sống hoặc về việc
công bố công trình. Hiện nay cả nước có
1000 hội viên và 61 tổ chức cơ sở (chi hội.
tỉnh hội, thành hội).
Nếu Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
có tác động rộng khắp đến hoạt động sưu
tầm, nghiên cứu, phổ biến văn hoá văn
nghệ dân gian ở trong nước thì Viện
Nghiên cứu văn hoá dân gian có công đầu
trong việc tổ chức các hội thảo quốc tế tại
Việt Nam: về lễ hội (1983, tại Hà Nội), về
' sử thi (1997, tại Đắc Lắc), về luật tục (1999,
tại Đắc Lắc). Viện cũng là chiếc cầu nối, tạo
điều kiện cho các nhà khoa học nước ngoài
đến Việt Nam khảo sát folklore.
Có một Chi hội Văn nghệ dân gian đặt
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Bảo
tàng này trực thuộc Trung tâm Khoa học
xã hội và nhân văn quốc gia, khánh thành
đúng vào địp Hội nghị cấp cao lần thứ bấy
các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà
Nội (tháng 11 năm 1997). Bảo tàng được
Nhà nước phê duyệt luận chứng kinh tế Kĩ
thuật, cấp kinh phí và cấp đất xây dựng.
Tổng thống Pháp đánh giá: “Nó là mỉnh
12
NGUYÊN XUÂN KÍNH
“=——————————ễễễ EEEEEE——=ễễễ .
chứng cho sự tôn trọng của các nhà chức
trách Việt Nam đối với toàn bộ các thành
phần phong phú của dân tộc, các tộc người
(54) hợp thành đi sản và cả tâm hồn Việt
NanY#°. “Có thể nói, Bảo tàng này là một
trung tâm nghiên cứu dân tộc học với
những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh
vực chuyên ngành, đồng thời là một trung
tâm lưu giữ quý giá về văn hoá của đủ ã4
dân tộc (...). Người ta đến đây không chỉ để
tham gia giải trí mà còn để tìm hiểu,
nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn
hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng
vùng cũng như những giá trị truyền thống
chung của các dân tộc”? “Bảo tàng lấy
hiện vật làm trung tâm, hơn nữa hiện vật
phần ánh những sinh hoạt đời thường của
nhân dân các dân tộc; (...). Trong bảo tàng
không có tranh minh hoạ. Nếu cần minh
chứng cho những sinh hoạt nào đó, ở đây
chỉ dùng ảnh hay băng ghi hình lại cuộc
sống thực của các dân tộc”?”,
Đội ngũ các nhà nghiên cứu ngày càng
đông đão, ở một số lĩnh vực đã có chuyên
gia (hiểu theo nghĩa là người tập trung
nhiều thời gian, công sức vào lĩnh vực đó và
đã công bố công trình). Quan tâm nhiều
đến các vấn đề lí luận và phương pháp luận
có Định Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Trần
Quốc Vượng, Đỗ Bình Trị. Về âm nhạc dân
gian có Tô Ngọc Thanh. Về chèo sân đình
có Hà Văn Cầu, Trần Việt Ngữ. Về mĩ
thuật dân gian có Chu Quang Trứ, Nguyễn
Bá Vân. Về nghệ thuật rối có Nguyễn Huy
Hồng. Về tín ngưỡng, tôn giáo dân gian có
Ngô Đức Thịnh. Về hội lễ dân gian có Lê
Trung Vũ. Về truyện nôm bình dân có Kiều
Thu Hoạch. Về văn học dân gian các dân
tộc ít người nói chung và về sử thi nói riêng
có Võ Quang Nhơn, Phan Đăng Nhật, Đỗ
Hồng Kì. Về dân ca quan họ có Trần Linh
Quý, Hồng Thao. Về ca dao có Nguyễn
Xuân Kính, Triều Nguyên. Về truyện dân
gian có Tăng Kim Ngân, Nguyễn Thị Huế.
Về nghề và làng nghề thủ công có Đỗ Thị
Hão. Có những tác giả thâm canh ở một
vùng đất: Ninh Viết Giao ở Nghệ Tĩnh,
Nguyễn Thanh ở Thái Bình, Trần Hữu Sơn
ở Lào Cai, Trân Sĩ Huệ ở Phú Yên, Huỳnh
Ngọc Trảng, Nguyễn Chí Bền ở Nam Bộ...
Có những nhà giáo với nhiều thập kỉ vừa
giảng dạy ở đại học (là chính) vừa nghiên
cứu văn hoá, văn học dân gian: Hoàng Tiến
Tựu, Lê Chí Quế, Nguyễn Xuân Đức, Lê
Trường Phát, Trần Đức Ngôn, Bùi Mạnh
Nhị, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Bích Hà. Phạm
Thu Yến, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Hùng Vĩ,
Trần Hoàng. Nguyễn Ngọc Quang...."””. Về
những công trình cắm mốc có thể kế: Văn
học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam (1983) của Võ Quang Nhơn, Trên
đường tìm hiểu uăn hoá dân gian (1989)
của Đinh Gia Khánh, Sử £h¿ Êđê (1991) của
Phan Đăng Nhật, Văn hoá dân gian Việt
Nam trong bối cảnh uăn hoá Đông Nam Á
(1993) của Định Gia Khánh, Dân ca người
Việt (1994) của Tú Ngọc, Địa chí uăn hoá
dân gian Nghệ Tĩnh (1995) do Nguyễn
Đổng Chỉ chủ biên, Kho tàng ca dao người
Việt (1995, tái bản 2001) do Nguyễn Xuân
Kính, Phan Đăng Nhật đồng chủ biên, Sở
thi thần thoại M nông (1997) của Đỗ Hồng
Kì, Điểu Kâu, Nơ Yu, Đăm Pơ Tiêu, Âm
nhạc dân gian Thái Tôáy Bắc (1998) của Tô
Ngọc Thanh, Luật tục Thái ở Việt Nam
(1999) của Ngô Đức Thịnh.
Trong
Câm
Văn hoá dân gian gồm nhiều thành tố.
Việc xuất hiện trên Tạp chí Văn hoá dân
gian nhiều bài viết về văn học dân gian là
một thực tế. Sở đi như vậy là vì nền văn
học dân gian nước ta phong phú; là vì so với
việc nghiêu cứu các bộ môn khác trong khối
văn học nghệ thuật. việc nghiên cứu văn
học có bề dày hơn và có nhiều kinh nghiệm
hơn. _
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13
Việc nghiên cứu văn học dân gian trở
thành một khoa học sớm hơn so với việc
nghiên cứu các thành tố khác của văn hoá
dân gian (nghệ thuật tạo hình dân gian,
nghệ thuật biểu điễn dân gian,...) cũng sớm
hơn so với việc nghiên cứu tổng thể, bao
quát văn hoá đân gian. Nếu năm 1966 sự
ra đời của Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam bước đầu đánh dấu việc mở rộng đối
tượng nghiên cứu là toàn bộ văn nghệ dân
gian thì từ sau năm 1975, việc mở rộng
phạm vi nghiên cứu được tiếp tục sâu, rộng
hơn. Từ cuối năm 1979 đến nay, thuật ngữ
uăn hoá dân gian được sử dụng rộng rãi”,
Với tư cách là người đặt nền móng cho khoa
nghiên cứu văn hoá dân gian, là Viện
trưởng và Tổng biên tập đầu tiên của Viện
Văn hoá dân gian và Tạp chí Văn hoá dân
gian, Định Gia Khánh đề nghị hiểu uăn
hoá dân gian theo hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hoá dân gian (folk
culture) bao gồm toàn bộ văn hoá vật chất
và tinh thần của dân chúng. Còn văn hoá
dân gian với nghĩa hẹp (folklore) chính là
văn hoá dân gian với nghĩa rộng (folk
culture) được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ.
Hiện nay cả Viện Nghiên cứu văn hoá
dân gian và Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam đều có xu hướng hiểu văn hoá dân
gian theo nghĩa rộng ”?.
Ở các trường đại học, theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay môn Văn
hoá học và Văn hoá Việt Nam thuộc số
những môn học chính trong chương trình
giảng dạy. Thí dụ, từ năm 1994, Trường
Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
đã quyết định cho thành lập Tổ bộ môn Văn
hoá học trực thuộc Khoa Ngữ văn và Báo
chí để đảm nhiệm một phần môn học ấy.
Như vậy, từ chỗ đặt công việc nghiên
cứu văn học dân gian trong khuôn khổ một
tổ nghiên cứu (Cổ cận dân ở Viện Văn học
và các trường đại học), qua việc thành lập
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, cho đến
nay chúng ta đã có thể nói đến một ngành
nghiên cứu văn hoá dân gian với những
thành tựu bước đâù và những hạn chế,
những chỗ bất cập khó tránh khỏi.
Xin khẳng định hai vấn đề:
1) Trong khi đã ra đời khoa nghiên cứu
văn hoá dân gian (folklore học) thì khoa
nghiên cứu văn học dân gian với qul phạm
riêng của mình vẫn tồn tại. Văn học dân
gian vừa là đối tượng nghiên cứu, giảng
dạy ở trường phổ thông và trường đại học
(nằm trong khoa ngữ văn) vừa được nghiên
cứu ở khoa nghiên cứu văn hoá dân gian
(với tư cách là một thành tố của văn hoá
dân gian).
2 Nhân học văn hoá (cultural
anthropology) là một nhánh, một phần của
nhân học, hay còn gọi là nhân loại học
(anthropology). Các nhà folklore học và
nhân học văn hoá xác định việc nghiên cứu
văn hoá dân gian (theo nghĩa rộng) với tư
cách là một nhánh, một phần của nhân học
văn hoá. “Với tư cách là một nhánh, một bộ
phận của nhân học văn hoá, folklore học
cũng có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề
chung của nhân học văn hoá. Song trong
khi giải quyết những nhiệm vụ chung của
nhân học văn hoá, folklore học cũng có
những vấn đề riêng của mình”””. Đó là lí
do tồn tại của khoa nghiên cứu văn hoá dân
gian.
* *
Trong thế kỉ XX, giới nghiên cứu đã
làm được nhiều việc. Sự ra đời của khoa
nghiên cứu văn học dân gian, khoa nghiên
cứu văn hoá dân gian với một số công trình
xuất sắc là thành tựu nổi bật so với các thế
kỉ trước. Về số lượng, chỉ tính trong lĩnh
vực ca đao học, đã có khoảng một nghìn
cuốn sách, bài tạp chí, bài báo.
14
NGUYÊN XUÂN KÍNH
Thành tựu là đáng trân trọng. Tuy
nhiên. kế từ năm 1975 đến nay, đã 2ð năm
đất nước thống nhất, nhân dân sống trong
thời bình, thế mà trong lĩnh vực khoa học
về văn học dân gian, văn hoá dân gian, vẫn
_cehưa có một chiến lược đồng bộ, nhất quán,
đảm bảo tính bhd thí cho việc sưu tầm,
nghiên cứu, xuất bản, giảng dạy, đào tạo
cán bộ: số lượng sách báo tuy nhiều nhưng
tỉ lệ những công trình sâu sắc, nghiêm túc,
thể hiện lương tâm nghề nghiệp còn chưa
cao; văn còn không ít vấn để cần giải quyết
hoặc tiếp tục thực hiện. Thí dụ, về ca dao,
trên phương diện sưu tầm, biên soạn, rất
cần thiết phiên âm, dịch và xuất bản các
sách Hán Nôm có ghi chép, sưu tầm thơ ca
dân gian. Trên phương điện nghiên cứu,
việc phân loại ca dao, việc tìm hiểu ý nghĩa
các biểu tượng, mối quan hệ giữa ca dao
người Việt và thơ ca dân gian các dân tộc ít
người, mối quan hệ giữa thơ ca dân gian và
thơ trữ tình của dòng văn học viết... vẫn là
những vùng đất mà các nhà folklore học
của thế kỉ XX chưa có điều kiện khai phá
hoặc chỉ mới lật những đường cày đầu tiên.
Thế kỉ XX đã khép lại nhưng việc sưu
tầm, nghiên cứu, giảng dạy, phổ biến văn
học đân gian, văn hoá dân gian thì vẫn còn
phải tiếp tục với những thuận lợi mới và
thử thách mới.
Tháng 3 năm 2001
N.X.K
(1) Nguyễn Khánh Toàn chủ biên (1985):
kịch sử Việt Nam tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr. 71
(2) Lịch sử Việt Nam, tập IL, sđd, tr. 84
- 85
(3) Lịch sử Việt Nam, tập IL, sảd, tr. 8ã
- 86
(4) Xem thêm: Nguyễn Xuân Kính
(2001): “Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu ca
dao người Việt”, Tạp chí Văn học, Hà Nội,
Eñ 1, tr. 88 - 87.
(5) Dã:: theo Định Gia Khánh và Võ
Quang Nhơn. Xem: Định Gia Khánh chủ
biên, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
(1997): Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 7Ö và tr. 562.
(6) Văn học dân gian Việt Nam, sửdú,
. TẾ
(7) Văn học dân gian Việt Nam, sửú,
tr. 559
(8) Văn học dân gian Việt Nam, sảd,
tr. 555
(9) Đặng Thai Mai (1988): “Quá trình
bồi dưỡng nghề viết văn của tôi”, in trong
tập sách nhiều tác giả: Công uiệc uiết 0uăn,
Trường Viết văn Nguyễn Du xb, tr. 7ð
(10) Dẫn theo Đỉnh Gia Khánh: Văn
học dân gian Việt Nam, sđử, tr. 75
(11) Xm xem Võ Quang Nhơn: Văn học
cđân gian Việt Nam, sửa, tr. 561 - 569
(12) Philippe Le Failler (2000): “Một
trăm năm Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại
Việt Nam”, Im trong tập sách nhiều tác giả:
Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Việt Nam.
Nhìn lại một thế bỉ nghiên cúu bhoa học,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 7.
Cũng có người, có chỗ gọi là Trường
Viễn đông bác cổ (#ÈFEO). Ở bài này, chúng
tôi theo cách gọi: Viện Viễn đông bác cổ.
(13) Philippe Le Failler, bài đã dẫn, tr. 8.
Trong tập sách Viện Viên đông bá+ cổ
Pháp tạt Việt Nam. Nhìn lại một thê sử
nghiên cứu khoa học, có những đánh giả
rất cao của GS Nguyễn Duy Quý, GS Trần
Quốc Vượr g, GS Hà Văn Tấn, PGS Lại Văn
Toàn,... về công trình của các nhà khoa học
châu Âu, trong đó có những công trình viết
về văn hoá dân gian Việt Nam. Thí dụ, GS
Trần Quốc Vượng viết: "Tôi đã gặm mòn
các tập BEFEO và được làm quen với các
học giả P. Pelliot, G. Coedes, V. Goloubew,
L. Aurousseau, H;/ Maspero, jJ. Przyluski
v.V... qua các công trình nghiên cứu Đông
phương học, Việt Nam học của họ. Sau này
có sinh viên, nghiên cứu sinh cho rằng thế
hệ chúng tôi được trưởng thành và trở
thành học giả hàng đầu của thế hệ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà không chỉ vì được
học Chủ nghĩa Mác - Lênin và đọc các công
trình của các học giả xô viết và Trung Hoa
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
lỗ
—————————————— ————————————==ễ=—ỄễỄEEEEETE
mới mà chủ yếu là được Pháp đào tạo".
(tr.14)
G§ Hà Văn Tấn viết: "Các nhà khảo cổ
học chúng tôi không những biết ơn các nhà
học giả Pháp trong việc nghiên cứu các nền
văn hoá cổ trên đất nước Việt Nam mà còn
biết ơn họ trong việc bảo tồn và lưu giữ
nhiều di tích của các nền văn hóa đó. Bão
tàng Lịch sử Việt Nam hiện nay đã được
tiếp quản gần như toàn bộ các sưu tập của
Bdo tàng L. Finot". (tr. 20)
(14) Năm 1918, trong Chủ nghĩa Mác
uà uàn hoá Việt Nam, đồng chí Trường
Chỉnh nhận xét, trong lĩnh vực sưu tầm,
nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian “ta
đã tập được phần nào tư tưởng và phương
pháp làm việc khoa học”. (Dẫn theo Đỗ
Bình Trị (1991): Văn học dân gian Việt
Nam, tập L, tr. 76). Căn cứ vào vị thế lãnh
đạo của tác giả và thời điểm phát biểu (lúc
cuộc kháng chiến chống Pháp đang gay go,
quyết liệt), hiện nay (năm 2001), chúng ta
có thể hiểu ảnh hưởng của phương pháp
làm việc khoa học đó là đáng bể, ở trên
mức phần nào.
(15) Hà Văn Tấn (1998): “Nhà bác học
Nguyễn Văn Huyên với văn hóa Việt
Nam", in trong tập sách: Nguyễn Văn
Huyên: Góp phần nghiên cứu uăn hoá Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập T,
tr, l8
(16) Trần Quốc Vượng (9000): Văn hoá
Việt Nam tìùn tòi uà suy nghĩ, Nxb Văn hoá
đân tộc và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà
Nội, tr 952.
(17) Các công trình của Nguyễn Văn
Huyên đã được dịch ra tiếng Việt và xuất
bản thành hai tập Góp phần nghiên cứu
uăn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995 - 1996. Năm 2000, hai tập
này đã được Chủ tịch Nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh.
(18) Dẫn theo Đỗ Bình Trị (1991): Văn
học dân gian Việt Nm, tập I, sđd
(19) Đồ Bình Trị (1991): Văn học dân
gian Việt Nam, tập L, sđd, tr. 73
(20) Dân theo Định Gia Khánh (1997):
Văn học dân gian Việt Nam, sửd, tr. 78
(21) Bài này đăng trên báo chí bí mật
của Đảng vcừ năm 1944, tới cuối năm 1945
đăng lại trên tờ Tiên phong, số 2, ra ngày 1
tháng 12 (theo Chu Xuân Diên)
(22) Trương Chinh (1974): Chú nghĩa
Mác uà uăn hoá Việt Nam (in lần thứ hai,
có xem và sửa), Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 34
- Ò
(23) Văn biện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng, Ban Nghiên
cứu lịch sử Đảng xb, H, 1965. Đại hội này
được tiến hành năm 1951 tại Việt Bắc. ở
đây chúng tôi chuyển dẫn theo Chu Xuân
Diễn, trong sách: Định Gia Khánh, Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997): Văn
học dân gian Việt Nam, sủảd, tr. 841.
(24) Ỏ những lần xuất bản sau, tên
sách là Lí h sử uăn học Việt Nam. Tập I:
Văn học dân gian.
(25) Tác giả bài này có tham gia đợt
sưu tầm vừa nêu.
(26) Tiền thân của Tạp chí Văn học là
tập san Nghiên cứu văn học, ra từ năm
1960 đến giữa năm 1963 được chuyển
thành Tạp chí Văn học. Từ năm 1960 đến
năm 1969 ra mỗi tháng một kì. Từ 1970
đến 1998: hai tháng một kì. Từ 19941 đến
nay: môi tháng một kì.
(27) Từ năm 1956 đến 1971, sách này
được in bấy lần, trong sáu lần ín đầu, sách
có tên là Tục ngữ uà dân ca Việt Nam.
Sách này vừa sưu tầm, biên soạn vừa có
những bài tiểu luận.
(28) Về tình hình nghiên cứu ở miền
Nam (từ 1955 đến 30/4/1975) về văn hoá,
văn học dân gian, xin xem:
a/ Nguyễn Quang Vinh (1977): “Về
mấy khuynh hướng sai lầm ở các đô thị
miền Nam trước ngày 30/4/197ỗ trong việc
nghiên cứu văn học dân gian”, Tạp chí Văn
học, Hà Nội, số 4.
b/ Lê Đình KịỊ (1987): Nhìn lại t†ư tưởng
uăn nghệ thời Mĩ nguy, Nxb Thành phố Hoö
Chí Minh
1G
NGUYỄN XUÂN KÍÑH
c/ Võ Quang Nhơn (1997), trong sách
Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ
Quang Nhơn: Văn học dân gian Việt Nam,
sủd, tr.564 - 571.
(29) Tạp chí Văn hoá nghệ thuật ra từ
năm 1973, thời gian đầu ba tháng một kì,
sau đó hai tháng một kì, từ năm 1994 đến
nay ra mỗi tháng một kì. Thời gian đầu là
Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, sau đổi là
Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật,
hiện nay là Tạp chí Văn hoá nghệ thuật.
Từ năm 1983 đến năm:2000 Tạp chí
Văn hoá dân gian ra ba tháng một kì, từ
năm 2001 ra hai tháng một kì.
(30) Lời chào mừng của Tổng thống
Cộng hoà Pháp Jacques Chirac trong lễ
khánh thành Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam ngày 12/11/1997, xin xem: Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam (1999): Các công
trình nghiên cứu của Báo tàng Dán tộc học
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
lf, Zã.,
(31) Nguyễn Văn Huy (1999), bài “Bão
tàng Dân tộc học Việt Nam”, trong sách
Các công trình nghiên cứu cúa Bdo tàng
ân tộc học Việt Nam, tr. 29 - 30.
(32) Nguyễn Văn Huy, sdd, tr. 32
(33) Rất tiếc cho đến nay, bản luận án
tiến sĩ khoa học của Bùi Mạnh Nhị, các bản
luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Đức, Trần
Đức Ngôn, Phạm Thu Yến, vẫn chưa được
dịch và xuất bản ở Việt Nam.
(34) Tập ð, tập cuối cùng của bộ sách
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi in lần đầu năm 1983.
Năm 1993, lần đầu tiên ca bộ sách được tái
bản trọn bộ trong cùng một năm.
Năm 1996, Chủ tịch Nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh cho:
+ Cụm công trình Văn học dân gian
(1972 - 1973, chu biên), Trên đường tùn
hiểu uăn hoá dân gian (1989), Văn hoá
đân gian Việt Nam trong bối cảnh uăn hoá
Đông Nam Á (1993), Văn hoá dân gian
Việt Nam uới sự phát triển của xã hội Việt
Nam (1995) của GS. Định Gia Khánh:
+ Cụm công trình Lược khảo uề thần
thoại Việt Nam (1957), Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam (1958 - 1982), Địa chỉ an
hoá dân gian Nghệ Tĩnh (chủ biên, 1995)
của cố GS Nguyễn Đổng Chỉ:
+ Cụm công trình Truyện cổ Việt Nam
(1955) và Tục ngử ca dao dân ca Việt Naàn
(1956 - 1994) của cố nhà văn Vũ Ngọc
Phan:
„ + Cụm công trình Tim hiếu thần thoại
An Độ (1964), Người anh hùng làng Dóng
(1969), Tìm hiểu tiến trình uăn học dân
gian Việt Nam (1974) của nhà nghiên cứu
đã quá cố Cao Huy Đỉnh.
Năm 2000, Chu tịch Nước tặng giải
thưởng Nhà nước cho cụm công trình Văn
học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam (1983) và Sử thị anh hùng Tây
Nguyên (1997) của cố PGS Võ Quang
Nhơn.
(35) Trên Tạp chí Văn học số 4 năm
1991, có ý kiến cho rằng “thuật ngữ ăn
hoá dân gian là vô nghĩa, không có nội
hàm". Y Kiến này không có cơ sở khoa học
và thực tế ngành nghiên cứu folklore ở
Việt Nam đã bác bỏ. Về điều này, xin xem,
thí dụ bài của Trần Quốc Vượng, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, số 5 năm
1990, bài của Trịnh Đình Niên, Tạp chí
Văn hoá dân gian số 3 năm 1999.
(36) Xim xem:
a/ Bản điều lệ về tổ chức hoạt động
cua Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian,
199141, điều 1.
b/ Điều lệ Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam năm 1990, điều 1 và Điều lệ Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam năm 1995, điều 1.
c/ Nguyễn Tấn Đắc (1987) “Nội dung
của folklore", Tạp chí Văn hoá dân gian, số
41.
d/ Trần Quốc Vượng (1990): “Folklore
Việt Nam: trữ lượng và viễn cảnh”, Tạp chí
Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số ã.
(37) Chu Xuân Diên (1995): Văn hoá
dân gian (ƒolhlore) uà phương pháp nghiên
cứu liên ngành, Trường Đại học Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh xb, tr. 59.