TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011
75
mối chỉ cho ra mắt bốn tập, các tập còn lại dù đã xong từ năm 2005, nhưng chưa có điều kiện xuất bản(3).
VÀI MINH ĐỊNH VỀ SỬ THI CHĂM VÀ THỂ THƠ W M C H flM
INRASARA
Sakaya viết bài nhận định dựa trên bản Akayet Dewa Mưno trong cuốn Văn học Chăm II, Trường ca in năm 1996. Nghĩa là phê bình vể công trình mà chính tác giả (Inrasara) cho là hãy còn sơ lược, in cách đó gần 15 năm! Trong khi năm 2005, tôi đã hoàn chỉnh sử thi này, đảm bảo tiêu chuẩn khoa học nghiêm ngặt hơn rất nhiều(4).
ở trang 221 - 222, Sakaya viết: "...râ"t tiếc rằng, đa sô" từ mà Inrasara chú giải thêm đều bị lệch nghĩa vì những nhóm từ này không phải hoàn toàn là vô'n từ Chăm mà nó là những từ vựng Mã Lai, A Rập và Phạn ngữ".
rong bài "Một số vấn đề sưu tầm và nghiên cứu akayet - sử thi Chăm"* (1), Sakaya có vài nhận định liên quan đến việc chuyển ngữ tác phẩm sử thi Chăm và thể thơ ariya Chăm trong tác phẩm của tôi. Bài này được đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 6 năm 2009, sau đó được công bô" trong Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, bộ sách mà tôi có tên trong ủy viên Hội đồng biên tập. Trong bài viết, tôi nhận thấy có nhiều điểm chưa chuẩn, cho nên để độc giả và giới nghiên cứu thấy rõ vấn đề hơn, tôi nghĩ việc nói lại là cần thiết.
Sakaya nêu 10 từ "lệch nghĩa" tiêu biểu. Vừa sưu tầm và đô"i chiếu văn bản, vừa nghiên cứu và chuyển ngữ một văn bản cổ ra đời cách nay hơn ba thê" kỉ như Akayet Dewa Mưno trước đó chưa được nghiên cứu đúng mức, mà chỉ "lệch nghĩa" có chừng ấy từ thì hãy còn quá ít! Tiếc là "quá ít" này lại chưa được tác giả Sakaya truy cứu thấu đáo, khi bình luận.
Giải minh hết 10 từ "lệch nghĩa" cho đến nơi đến chôn thì dài dòng, tôi chỉ nêu ra ba từ dễ nhận thấy hơn cả.
1. Mưh lỉkơm
Sakaya viết: "Malikam (mal): đá quý, nhưng Inrasara dịch mưh likam\ vàng ròng".
I. về từ vựng Cuốn Văn học Chăm II, Trường ca in hai sử thi Chăm là: Akayet Dewa Mưno và Akayet Um Mưrup cùng 13 thi phẩm thuộc thể loại khác. Mục đích của bộ ba Vẫn học Chăm, Khái luận - vần tuyển chỉ để giúp độc giả làm quen với văn học Chăm vốn chìm trong lãng quên từ lâu(2). Vì giới thiệu "khái quát " nên ở mỗi tác phẩm, tôi chỉ ghi chuyển tự La-tinh bản văn tiếng Chăm và phần dịch sang tiếng Việt, bên cạnh sơ bộ đối chiếu dị bản và chú thích từ khó. Ở phần kết bộ sách, tôi có hẹn độc giả sẽ đi sâu hơn vào mỗi bộ phận văn học dân tộc, khi điều kiện cho phép.
Từ điển của E. Aymonier (Từ điển A.)<5): Likơnv. pur, fin ròng, mịn. Ông lấy ví dụ: Mưh likơm\ or fin vàng mịn; tôi dịch Mưh likơm là vàng ròng (mưh\ vàng). Sau đó Tủ sách văn học Chăm được khởi động biên soạn, gồm 10 tập. Đến nay
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
76
"Ngự trên tòa sư tử" hay "Ngự trên tượng sư tử", tùy người đọc thơ xét vậy!
Từ mưh líkơm trong Akayet Dewa Mưno chép theo bản in của Trung tâm Văn hóa Chàm Phan Rang, 1974, đôĩ chiếu với bản in ỏ Kuala Lumpur năm 1989 và bản chép tay của Thiên Sanh Cảnh in trên Nội san Panrang. Nghĩa là người viết bài này lấy bản của Trung tâm Vắn hóa Chàm làm gốc. Câu 394 bản này chép:
s. Nưmơx su kal Hai trường hợp thing mưnga và mưh likam là danh từ cụ thể, sai đúng rất dễ nhận biết. Riêng từ nưmơx sukal hay ưưmơx sukar tùy văn bản chép, là động từ hàm nghĩa văn hóa thì khó dịch hơn. Không thấy từ này có mặt trong từ điển của Gérard Moussay (Từ điển Moussay). Sakaya viết: "Sukal (mal. Skrt): cầu nguyện, cầu xin, nhưng Inrasara dịch nưmơs suka (sic): nhò ơn trời".
Dorn nan Dewa Mưno nhu mưrai Kachait mưh bingu palai, twak kapiah mưh likơm.
Ở đây, tôi không hiểu Sakaya muốn nói gì!? Anh nêu một từ đơn sukal, trong khi từ tôi dịch là từ ghép: nưmơx sukal\ Không thấy đâu malikam cả! Tôi chưa thấy bản chép tay nào của Chăm chép malikam. Nếu có cũng không sao, bởi người viết dựa vào bản của Trung tâm là mưh likam, để dịch. Và ngữ nghĩa của từ này chính xác như thế.
2. Thing m tínga
Nưmơx nguồn gốc tiếng Sanskrit: namas\ và sukal có liên quan với tiếng Mã Lai: sukur. Trong từ điển của mình, Aymonier cũng nhận ra như thế. Ông dịch:
Sakaya viết: "Thing (sing): sư tử; manga (mal): bệ (đá hoặc gỗ) có điêu khắc; Thing manga: tượng sư tử (để trong cung vua), nhưng Inrasara dịch Thing mưnga: tòa sư tử".
Câu 9: Bản của Trung tâm Văn hóa - Nưmơx: adorer, rendre hommage tôn kính, tỏ lòng tồn kính; conjuration; formule conjuratoire lời khẩn cầu, thể thức cầu khấn; Chàm Phan Rang chép:
Pataw hiđang di ngauk thing miừiga Ew pataw karang sa rituh mưrai - Sukal (haỳ sukar): bienfait; acte de générositể; remerciements ân huệ; hành động ban ân huệ; sự cảm tạ. taum tanan.
Ngữ nghĩa của từ thing và mitnga thì rõ rồi. Hai từ đơn kia, tôi và Sakaya hiểu không khác nhau. Nhưng khi ghép lại, Sakaya hiểu thing manga là tượng sư tử (để trong cung vua). Tôi dịch cậu Pataw biđang di ngauk thing mưnga là Đức vua ngự trên tòa sư tử.
Nưmơx sukál cũng có thể chỉ là một từ đơn có nguồn gốc Sanskrit namaskar, như Aymonier đã chỉ ra. Nghĩa là adorer, rendre hommage tôn kính, tỏ lòng tôn kính, ở đó su chỉ là âm tiết đệm thêm vào, như thưòng thấy trong sử thi này. Chữ "có thể" ỏ đây được sử dụng là do, tất cả văn bản văn học Chăm đều chép tay bởi nhiều ngưòi khác nhau thuộc nhiều địa phương khác nhau; chữ Chăm lại được viết liền một mạch, nên việc xảy ra nhiều dị bản là khó tránh. Việc xác định bản "gốc" khả tín là điều rất tương đối. Tôi hiểu chữ "tòa" theo nghĩa như "tòa sen", "tòa sư tử" là chỗ ngồi trang nghiêm có khắc tượng sư tử đặt trong cung vua. Nếu như ý Sakaya, thì phải dịch là: "Đức vua ngự trên tượng sư tử (để trong cung vua)".
TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011
77
Toan đưa công chúa lên đưòng thì chợt thấy cây chà là.
Ông bà Chăm xưa khi đọc không thông hay khi chưa hiểu, cũng đã phải vận dụng đến sự suy luận, suy đoán (tiếng Chăm: pacơn inư). 169. Dewa Mưno sunit ginrơh xak tajai Nưmơx sukal padit paniai ba patri
tơl nưgar Dewa Mưno tài phép thần thông Lạy tạ ơn trời rồi đưa công chúa về quê hương.
177. Jiơng limưn kauk di cơk Lơnggiri Chuyện từ “ngữ và ngữ nghĩa là vậy. Điều cần lưu ý thêm, là ỏ đây chúng ta đang cố gắng chuyển dịch văn bản văn chương sang ngôn ngữ khác, chứ không phải tìm ngữ nghĩa. Tìm ngữ nghĩa của một từ thì cứ việc lật sách công cụ là xong, không vấn đề gì cả. Nưmơx sukal likuiu patri biyar krung mưng dahluw Mang hình con voi trắng đứng giữa rừng núi Vinh danh thánh thần công chúa mới hóa làm người như xưa.
Trong bài nghiên cứu, tôi dịch nứmơx sukal là lạy tạ; vinh danh (tr. 23). Từ ghép này không có từ tương đương trong tiếng Việt. Nó vừa là hành vi cầu nguyện, tỏ lòng tôn kính chân thành vừa là thái độ nói lên lòi tạ ân khi vừa nhận được ân huệ từ đấng linh thánh (dùng cho cả ở hai thì quá khứ lẫn tương lai).
Dịch linh hoạt như thế, mối hi vọng nắm bắt được ý nghĩa và làm toát lên được vẻ đẹp nội hàm của tác phẩm văn chương Akayet Dewa Mưno.
Từ nưmơx sukal xuất hiện năm lần trong Akayet Dewa Mưno. Ở bản in năm 1996, tôi dịch: "lạy tạ ơn trời", "ơn tròi". Lần in năm 2009, tùy văn cảnh, tôi dịch linh hoạt như sau:
018. Nưmơx sukal pak sunit brei dan Wơk mưrai takkal ra brei bboh di dit padei
Vinh danh đấng linh ban phước xuôhg Xin báo mộng được thấy để thỏa ước mơ.
107. Twơn patri niừnơx sukal habien hu Yuw panwơc kalang bino habien
De brei mưrai
Công chúa phủ phục hỏi đến bao giờ Tròi mổi mang tới cho ta như lời hai vị nói.
119. Nưmơx sukal pak sunỉt De ppajiơng Ba patri wơk xơng bboh sa phun kuramư
n. v ề thể thơ ariya - lục bát Chăm<8> Thể thơ ariya [lục bát] Chăm được tôi lần đầu nêu lên để phân tích ở chuyên luận Văn học Chăm, Khái luận - Văn tuyền, in năm 1994 trong chưa đầy ba trang giây(7>. Vì "chỉ dành cho nó một phân tích rất sơ lược... nên đã gây vài ngộ nhận"(8). Sau đó, tôi có viết lại thành bài riêng để trình bày kĩ hơn về thể thơ này, so sánh nó với lục bát Việt<9). Đoạn kết ỏ cuôì bài viết: "Qua đôĩ chiếu và phân tích sơ bộ, chúng ta thấy lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau. Trong đó cái giông nhất là nhịp điệu (rhythm) của chúng. Khác nhau chăng là do sự dị biệt ở ngôn ngữ của hai dân tộc. Chúng ta không thể khẳng định ai có trước ai có sau, ít ra là cho đến lúc này (các chữ in đậm do Inrasara nhấn mạnh)"(10). Cho nên, Sakaya cho rằng: "Inrasara lấy thơ lục
ơ n trời đã ban bùa linh
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
78
tiết: có đồng có dị, sang vị trí hiệp vần giữa Chăm và Việt: khác và giống, sau cùng là: thanh điệu, Chăm còn giữ lối hiệp vần trắc nên đa dạng hơn Việt. Bài viết có dẫn các ca dao Việt cổ cho đến sáng tác lục bát hiện đại Việt ra đối chiếu. Chỉ môi bàn sơ bộ thôi mà đã thế.
bát để định vị, suy xét thơ Chăm... dùng khuôn mẫu thơ lục bát để chụp lên thơ Chăm" thì rất cần xem lại. Inrasara viết: "không thể khẳng định ai có trước ai có sau", nghĩa là tôi so sánh ngang bằng. So sánh là thao tác cần thiết trong khoa học. So sánh cùng hệ hay khác hệ cũng cần. Vối thể thơ thông dụng của hai dân tộc gần gũi nhau trong quá khứ và đang sống cộng cư trong hiện tại: Việt (lục bát) và Chăm (arìyà) thì còn cấp thiết hơn bao giồ.
Còn khẳng định của Sakaya rằng: "thơ Chăm đã có quy luật ổn định... Đó là "nghệ thuật gieo vần lưng" tự do là phổ biến và thơ không phụ thuộc vào số từ trong câu"' thì xin không bàn. Bàn thêm dễ vượt qua giới hạn của bài viết. Theo thiển ý, nếu chỉ đơn giản vậy thì quá dễ, và người ta sẽ không cần đến nhà khoa học đi sâu phân tích cho đến tận cùng vấn đề nữa.
Khi thấy "lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau", tôi đi vào phân tích phần giống nhau này, sau đó nêu ra các khác biệt. Điểm nhấn mạnh là nhịp điệu, là yếu tố rất quan trọng trong làm thơ và đọc thơ. Nói như Maiakovski: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ. Sự ngắt đoạn và nhịp điệu củạ bài thơ còn hệ trọng hơn sự chấm câu...”. Charles Hartman quyết liệt hơn nữa: “Nhịp điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa của bài thơ, và phép làm thơ là chuyển nó trỏ thành ý nghĩa”0 w.
Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ tộc Nam Đảo, cùng gốc với ngôn ngữ Mã Lai cũng là ngôn ngữ đa âm tiết, nhưng qua quá trình lịch sử, tiếng Chăm đã và đang biến đổi mạnh: đại bộ phận từ đa âm rụng bốt âm tiết. Ví dụ: Nagara là tiếng Phạn. Malaysia vay mượn để nguyên dạng mà dùng, hiện vẫn còn dùng. Chăm viết thành Nagar, sau viết thành Nitnggar, Nơgar rồi cuôĩ cùng là Nưgar... Manusia cũng thế. Hiện nay người Chăm viết Mưnux v.v.
Về thể thơ ariya Chăm, người viết đã phân tích khá tưòng tận trong tiểu luận rồi. Nay chỉ xin nhắc lại, nhiều dân tộc Đông Nam Á có thể thơ "có cấu trúc tương tự lục bát" Việt, không chỉ riêng Chắm hay Mã Lai. Tôi tạm lấý của Việt ra so sánh đầu tiên.
Trên văn bản là vậy, còn phát âm trong trao đổi thường nhật thì chỉ còn: n'gar, m'nux hay thậm chí: gar, nux... Đó là một hiện tượng bất khả vãn hồi. Hiện tượng này, tôi không dám dùng cụm từ "trạng thái đơn tiết hóa" như Bùi Khánh Thể02*, mà chỉ muốn nhấn mạnh rằng: Người Chăm có xu hướng nuốt âm trong văn nói.
Sau khi nhắc qua thể "pauh catwai mà mỗi cặp [lục bát] đều đứng biệt lập như một bài thơ hoàn chỉnh vói đầy đủ ý nghĩa, được kết nôì liên hoàn đến cả mấy trăm câu mà vẫn thông nhất qua giọng điệu, tư tưỏng mà hình thức không khác mấy so với Choka của Nhật" (hi vọng sẽ có bài viết riêng so sánh hai thể thơ này), tôi đi vào phân tích thể ariya Chăm qua so sánh với lục bát Việt. Từ số lượng âm Thêm vào đó, trong hai thế kỉ tiếp xúc với người Việt, tiếng Chăm ngày càng xích lại gần với ngôn ngữ đơn tiết của dân tộc này hơn nữa. Đó là điều không thể
TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011
79
Về từ ralo và lo, ba cuốn từ điển Chăm định nghĩa rất minh bạch:
tránh. Có thể nói, tiếng Chăm hôm nay đang chuyển động lấp lửng giữa ngôn ngữ đa âm tiết (tiêu biểu là tiếng Mã Lai, cùng ngữ tộc) và ngôn ngữ đơn tiết (chủ yếu là tiếng Việt qua trao đổi tiếp xúc hàng ngày).
Từ điển A. ghi: lo: beaucoup, bien, plusieurs... lắm. Ông lấy ví dụ: Ralo bbơng lo: maintes fois nhiều lần lắm. Ralo: beaucoup, nombreux, le plus nhiều, lắm. Ông ví dụ: Ralo mưh: beaucoup d'or nhiều vàng, lắm vàng.
Từ điển Moussay ghi: lo: lắm, quá. Sự ảnh hưỏng ngôn ngữ đời thường vào trong sáng tác thi ca, là điều đương nhiên. Ông lấy ví dụ: ralo lo: nhiều lắm.
Ngưồi viết có may mắn là đã được học chữ mẹ đẻ, được dạy đọc và làm thơ tiếng mẹ đẻ trước tiếng Việt(13). Qua kinh nghiệm ấy, người viết đưa các câu thơ phổ biến nhất trong văn học Chăm để minh họa cho bài viết. Các câu thơ kia được Sakaya nêu_ra để phê bình. Phần này người viết tạm lấy hai ví dụ dễ thấy hơn cả để giải minh:
1. Câu ca dao: Từ điển mới nhất do Bùi Khánh Thế chủ biên cũng hệt vậy<14). c ả ba tác giả chủ biên đều lấy ví dụ ralo lo: nhiều lắm để minh họa, như có ý tránh cho người đọc sự lẫn lộn này. Ralo là tính từ, thường đứng trước danh từ hay động từ; còn lo là phó từ. Hai từ hoàn toàn khác nhau cả về hình thức lẫn chức năng, rất đơn giản. Người viết không hiểu sao Sakaya có thể lẫn lộn như thế.
Thei mai mưng deh thei 0 Thrơh (sic) phik kuw loyaum sa urang Trong câu ca dao trên: Drơh... lo: giông... lắm; drơh phik kuw lo: giống ngưòi yêu ta lắm. ' (bản Inrasara viết chính xác là: Drơh)
Ai đến từ phía kia xa
Giông người yêu ta riêng chỉ một người Ngưdi Chăm còn có bài dân ca khác được nhiều người biết đến, là bài "Anit lo". Nghĩa là "Yêu lắm". Có ai nói, đọc và hát là anit ralo bao giờ đâu!
2. Câu đầu trong Akayet Dewa Mưno:
Tôi nêu ví dụ để minh họa: Dịch nghĩa: "Ai về từ phía kia ai đó/ Giông người yêu ta lắm, riêng chỉ một người".
- Akayet si panưh twơr tábiak
01-2 3 04 5 06
Ppadơng mởn ka rahvớk Rija Dewa Mưno
(Ạkayet DeivaMưno) 3 01 2 04 05 06 7-8 Sakaya viết: "Tác giả tự bỏ đi một âm tiết Chăm trong từ ralo (nhiều) trong câu hai để biến thành từ lo chỉ mang một âm tiết. Từ đó câu hai của cặp thơ này có nguồn gốc là chín âm tiết còn lại tám âm tiết và thành thơ lục bát".
Lạ! Người viết bài này có "tự bỏ đi" cái chi đâu! Đó là nguyên văn ca dao Chăm đấy chứ. Đây là bài dân ca được phổ biến khá rộng trong cộng đồng thường được gọi là "Thei mai". Về cách đếm Dewa 1 âm tiết, còn Mưno là 2, Sakaya viết: "Tác giả làm việc này có chủ ý của nó, vì muốn gò sô" từ/âm tiết trong câu hai của thơ Chăm thành một câu có tám từ/âm tiết như trong câu lục bát trong thơ Việt".
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
s o
CHÚ THÍCH
(1) Viện Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì biên soạn (2010), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 23 - Nhận định và tra cứu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 412 - 438.
khiêm cung trong học tập và nghiên cứu chưa bao giờ là thừa cả(17).n
(2) Bộ ba gồm Văn học Chăm: Văn học Chăm I • Khái luận ■ Văn tuyển, Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 1994; Văn học dàn gian Chăm - Ca dao, tục ngữ, câu đố, Nxb. Vãn hóa dân tộc, H., 1995; in lần thứ hai: Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 2006; Văn học Chăm II - Trường ca, sưu tầm - nghiên cứu, Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 1995; in lần thứ hai: Nxb. Văn nghệ, Thành phô” Hồ Chí Minh, 2006.
Phê bình như vậy, có lẽ Sakaya chưa có kinh nghiệm về đọc và ngâm ariya Chăm. Viết Dewa Mưno thành hai "phần", vì đó là tên người gồm hai hình vị, tách bạch là chính xác. Nhưng khi đọc, ngâm, ông bà Chăm chỉ đọc là Dwa'Mưno (tạm phiên âm là: "tòa-mư-nô"). Nghĩa là hai từ trên được đọc gộp làm ba âm tiết, đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu thơ. Không có chút "gò" hay "chủ ý" gì ở đây cả(15).
(3) Các tập đã in trong Tủ sách Văn học
Chăm gồm:
- Tập 7: Vãn học dân gian Chăm - Ca dao, tục ngữ, câu đô', Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 2006.
Hiện tượng đọc gộp (tamưkai thành tamkai dưa hấu), nốì và gộp (DwaMưnò), đọc lướt (các hư từ một âm tiết) và nuốt âm (trong các từ đa âm), là chuyện xảy ra ồ mọi ngôn ngữ đa âm tiết, nhất là khi chúng được thể hiện trong ca khúc hay thơ ca.
- Tập 3: Ariya - Trường ca Chăm, Nxb.
Văn nghệ, Thành phô' Hồ Chí Minh, 2006.
- Tập 9: Văn học Chăm hiện đại - Thơ,
Nxb. Văn học, H., 2008.
- Tập 2: Sử thi Akayet Chăm, do Viện Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì biên soạn, Nxb. Khoa học xã hội, H., 2009.
(4) Sử thi Akayet Chăm, sđd, tr. 47 - 227. (5) E. Aymonier, A. Cabaton (1906),
Dictionnaire Cam - Franẹais, Leroux, Paris.
Bài "Một số vấn đề sưu tầm và nghiên cứu akayet - sử thi Chăm" của Sakaya còn nhiều điều khác để nói lại. Chúng tôi xin ngừng ở đây.
Tóm lại, các sử thi Chăm xuất hiện từ trên dưới ba thế kỉ nay, dù ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ tộc Nam Đảo và trước đó vô'n từ vựng Chăm được hô’ sung tiếng Sanskrit khá nhiều, nhưng các tác giả vô danh Chăm đã có những bước sáng tạo đột phá rất nền tảng trong sáng tác. Tìm hiểu ngữ nghĩa từ nguyên tiếng Chăm qua truy cứu tiếng Mã Lai hay tiếng Phạn là cần nhưng chưa đủ(16), nhất là khi ngôn từ đó được thể hiện qua tác phẩm văn chương đặc thù đầy cá tính sáng tạo. Hiểu văn bản văn học Chăm đòi hỏi đến nhiều yếu tố khác. Ngoài ra, dịch chúng sang một ngôn ngữ khác thì còn yêu cầu cao hơn nữa.
(6) Về thuật ngữ "lục bát Chăm", tôi có giải minh như sau: "NĐT hỏi: Tôi nghĩ anh để nguyên thuật ngữ tiếng Chăm không hay hơn ư, tại sao.phải chuyển sang tiếng Việt? Nhất là thuật ngữ "lục bát", rất dễ gây ngộ nhận. Và thực sự đã có vài hiểu lầm rồi. - Inrasara. Trong hai thứ tiếng Chăm và Việt, hãy tự hỏi: bạn rành tiếng nào hơn, chắc chắn là tiếng Việt rồi, phải chứ? Việc chuyển ngữ thuật ngữ là thao tác rấ t bình thường trong nghiên cứu. Tại sao lại ngại nó? Và tôi có bỏ nguyên ngữ đâu? vẫn ghi đầy đủ cả đấy chứ!" (Văn hóa -
"Chúng ta vỡ lòng mốc bụi dĩ vãng", một nhà văn đã nói thế. Với văn bản Chăm, mốc bụi càng dày hơn. Nên thái độ
TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011
xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại, tiểu luận, in lần thứ ba: Nxb. Văn học, H., 2008, tr. 149).
(7) Inrasara (1994), Văn học Chăm - Khái
luận, sđd, tr. 21 - 23.
(8) Inrasara (2008) Văn hóa - xã hội
Chăm..., sđd, tr. 135.
này đã thể hiện một cách khác nhau. Thòi kì Thơ Mới ỏ Việt Nam, dù các nhà thơ Việt thòi đó học chương trình Pháp, chủ yếu đọc thơ Pháp, đa phần học và viết thơ theo thể thơ Pháp, sáng tác bằng hệ mĩ học lãng mạn và hiện thực Pháp, nhưng do cấu trúc ngôn ngữ khác nhau - thơ của hai dân tộc Pháp - Việt vẫn có rất nhiều cái khác biệt.
(9) Inrasara, " Đôì chiếu, so sánh lục bát Chăm • Việt, những gợi ý bước đầu", lần đầu đăng ỏ Đặc san Tagalau 1, Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 20Õ0; in lại trong Văn hóa - xã hội Chăm, sđd, tr. 135 - 145.
(10) Inrasara (2008) Văn hóa - xã hội
Chăm..., sđd, tr. 143.
(11) Charles Hartman, trích theo Khế Iêm, "Thơ Tự do - một tiếng gọi khác", Tạp chí Thơ, sô" mùa đông 1999, tr. 158.
(12) Bùi Khánh Thế, "Văn học dân gian Chăm là lĩnh vực lý tưởng của tiếp xúc văn hóa, tiếp xúc ngôn ngữ", Đặc san Tagalau 2, Nxb. Văn hóa dân tộc, H., 2001.
(16) Một ví dụ khác: Câu Di grơp tapien rappawang... trong Ariya Glơng Anak, Inrasara dịch là: Khắp bến bờ người vây... hay Họ vây ta khắp nẻo đường (Văn học Chăm II, sđd, tr. 143). Một tác giả - sau khi phản bác trí thức 'Chăm cũ hiểu sai từ pawang, đã lí giải: “pawang có xuất xứ từ tiếng Mã Lai, pawang là hồ nước (danao aia), chỗ có nưóc (libik hu aia)” (Harak Champaka, 1-12-2001). Lúc đó, câu thơ trên không được dịch. Mãi ba năm sau, tác giả này mới nhận ra mình sai và sửa lại (Champaka 4, IOC- Campa, USA, 2004, tr. 75-76). Nếupawang là “hồ nước”, thì Di grep tapien ra pawang phải hiểu là: ở khắp bến người ta hồ nướcỉ
Nói rằng không cứ nhất nhất đôì chiếu từ
Chăm vối Mã Lai, Sanskrit là vậy.
(17) Tôi nói "khiêm tôn" là vì, văn hóa Chăm chưa được nghiên cứu nhiều, mỗi ngưòi đóng góp được phần nhỏ của mình đã là rất đáng trân trọng. Làm và sẵn sàng đón nhận phản hồi để tác phẩm mình ngày càng bốt sai sót hơn. Ví dụ việc ghi ngữ Chăm tưỏng giản đơn nhưng cũng là thao tác rất khó, do đó trong các công trình về Chăm lâu nay phạm nhiều lỗi. Tạm lấy hai trưòng hợp:
(13) Phú Bô - ôhg ngoại tôi sinh năm’ 1890, là thầy cao đạo, tác giả tập thơ Ariya Rideh Apwei được nhiều người biết đến. Ông dạy tôi chữ Chăm khi tôi còn chưa cắp sách đến trưồng, bày tôi cách đọc, ngâm và hiểu thơ. Nên việc nhận diện nhịp điệu và hơi thơ tiếng Chăm vói tôi là điều rất dễ dàng. Bản thân ngưòi viết bài này dạy chữ Chăm cho các bạn học từ khá sớm. Mùa hè năm 1975, 18 tuổi tôi mố lớp đào tạo cho gần 70 anh chị em Chăm tại quê nhà, sáng tác ba trường ca tiếng Chăm để phục vụ lớp học (xem thêm: Inrasara (2011), Hàng mã kí ức, tiểu thuyết tự thuật, Nxb. Văn học, H).
(14) Gérard Moussay (1971), Dictionnaire Cam - Vietnamien - Franẹais, Trung tâm Vần hóa Chàm, Phan Rang; Bùi Khánh Thế chủ biên (1995), Từ điển Chăm - Việt, Nxb. Khoa học xã hội, H.
- Năm 1989, Po Dharma cho in Akayet Dewa Mưno tại Mã Lai. Phần chuyển tự, ông đã mắc hơn 300 lỗi trên 25 trang in. Tôi đã có bài trao đổi nhẹ nhàng: “Xung quanh việc công bô" Akayet Dewa Mưno, đặt lại vấn đề nghiên cứu văn học cổ Champa” đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học tổng hợp Thành phô" Hồ Chí Minh, sô" 1, 1997. Ông tiếp thu các ý kiến của tôi, đã sửa chữa để làm ra Akayet Dowa Mano (Dharma, Moussay, Karim, P.N.M. et EFEO, Kuala Lumpur, 1998). Dù ông không có lòi cám ơn, nhưng khi giối thiệu ấn bản mới kia, tôi đã đánh giá nó rất cao.
81
(Xem tiếp trang 84)
(15) Tiếp nhận văn hóa An Độ, ngươi Chăm đã có "tiếp thu và sáng tạo" rất độc đáo. Vay mượn chữ viết và cả tiếng Sanskrit, người' Chăm đã có sáng tạo riêng. Việc tiếp nhận nền mĩ thuật ấn và cả ván chương cũng vậy. Riêng thể thơ, chưa vội nói Chăm và Mã Lai, ai có trước, nhưng khi làm thơ, bên cạnh đồng còn có những dị khác, nên hai dân tộc