BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ<br />
DI SẢN VĂN HÓA QUÂN SỰ VIỆT NAM GẮN VỚI<br />
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC<br />
NGUYỄN TIẾN DŨNG<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc là tài sản văn hóa quý giá<br />
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn<br />
năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các di tích văn hóa quân sự Việt Nam đã và đang bị mai<br />
một và tiềm ẩn nguy cơ biến mất. Vì thế, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá quân sự Việt<br />
Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong giai<br />
đoạn hiện nay.<br />
Từ khóa: Quân sự, dựng nước, chống Bắc thuộc, văn hóa quân sự, di sản văn hóa quân sự<br />
Abstract<br />
The Vietnam’s military cultural heritages during the period of the country’s building and fighting<br />
against the Northern invaders is a precious cultural asset of the Vietnamese ethnic community, a part<br />
of the national cultural heritage. During thousands of years with a series up and down of history, the<br />
Vietnam’s military cultural relics have been lost and in the danger of disappearing. Therefore, the<br />
protection and promotion the value of Vietnam’s military cultural heritage associated with the period<br />
of national construction and fighting against Northern invaders is very important and essential in the<br />
current period.<br />
Keyword: Military, national construction, fighting against Northern invaders, military culture,<br />
military cultural heritage<br />
1. Khái niệm về di sản văn hóa quân sự<br />
<br />
Đ<br />
<br />
ể có quan niệm về di sản văn hoá<br />
quân sự, trước hết cần làm rõ quan<br />
niệm về di sản văn hoá. Xét đến<br />
cùng thì văn hoá và di sản văn hoá là những<br />
phạm trù đồng chất. Mọi hiện tượng, quá trình<br />
văn hoá khi đạt trình độ phổ quát của hệ chuẩn<br />
chân - thiện - mỹ luôn có xu hướng tất yếu trở<br />
thành di sản, và ngược lại chỉ trở thành di sản<br />
khi đạt trình độ phổ quát của hệ chuẩn chân<br />
- thiện - mỹ. Song, chỉ có những nhân cách văn<br />
hoá, hành vi văn hoá, hiện tượng văn hoá, quan<br />
hệ văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn<br />
hoá, đời sống văn hoá… hàm chứa giá trị bền<br />
vững, tỏ rõ sức sống, được trau truyền, tích<br />
hợp, phát huy lâu bền mới thực sự trở thành<br />
văn hoá theo ý nghĩa tổng hoà trình độ phát<br />
triển nhân tính trong lịch sử. Và đó chính là di<br />
sản văn hoá.<br />
<br />
Di sản văn hoá nói chung bao gồm toàn bộ<br />
những yếu tố văn hoá được thế hệ trước, thời<br />
đại trước sáng tạo ra và lưu truyền trong tiến<br />
trình lịch sử, đồng thời được thế hệ sau tiếp<br />
nhận, làm sống lại và trau dồi, phát triển thêm.<br />
Đó là các giá trị văn hoá, chuẩn mực quan hệ<br />
văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn hoá...<br />
có thể tồn tại dưới dạng thái vật thể hoặc dạng<br />
thái phi vật thể. Luật Di sản Văn hóa năm 2001<br />
khẳng định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn<br />
hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản<br />
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn<br />
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này<br />
qua thế hệ khác”. Từ khái niệm trên, có thể tiếp<br />
cận khái niệm Di sản văn hoá quân sự ở hai góc<br />
độ: Thứ nhất, di sản văn hoá quân sự là bộ phận<br />
của di sản văn hoá; Thứ hai, di sản văn hoá quân<br />
sự là tổng thể sự tích hợp, phong hoá, trao<br />
truyền, toả sáng… bản thân<br />
<br />
lĩnh vực tổ chức, hoạt động quân sự của cộng<br />
đồng, dân tộc… xét về phương diện giá trị văn<br />
hoá. Từ phân tích trên, có thể hiểu di sản văn<br />
hoá quân sự Việt Nam là những sản phẩm vật<br />
chất và tinh thần được hình thành qua các<br />
hoạt động quân sự, gắn với lịch sử dựng nước<br />
và giữ nước của dân tộc Việt Nam có giá trị lịch<br />
sử, văn hoá, khoa học quân sự được lưu truyền<br />
từ thế hệ này qua thế hệ khác.<br />
Lịch sử dựng nước đi liền với giữ nước đã<br />
để lại cho dân tộc Việt Nam kho tàng di sản<br />
văn hoá quân sự phong phú. Cũng như di sản<br />
văn hoá nói chung, di sản văn hoá quân sự Việt<br />
Nam được tích hợp từ những giá trị văn hoá<br />
quân sự tiêu biểu, hình thành và phát triển<br />
trên cơ sở những nhân tố nền gốc về tiền đề<br />
địa lý tự nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội và tâm<br />
thức văn hoá đặc trưng của người Việt. Chính<br />
những đặc điểm thực tiễn của lịch sử dân tộc<br />
đã tích hợp nên những đặc trưng của di sản<br />
văn hoá quân sự Việt Nam. Cấu trúc của di sản<br />
văn hoá quân sự Việt Nam bao gồm di sản vật<br />
thể và di sản phi vật thể được trầm tích tự<br />
nhiên và được trau truyền chính thống.<br />
2. Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời Mở<br />
nước và chống Bắc thuộc<br />
Nước ta có vị trí địa lý quan trọng ở vùng<br />
Đông Nam Á, nằm trên ngã tư các đường giao<br />
thông Bắc - Nam - Đông - Tây, giữa đại lục và<br />
hải đảo. Đây là điều kiện thuận lợi để người Việt<br />
giao lưu, tiếp xúc với các quốc gia khác, nhưng<br />
đồng thời phải sớm đương đầu với nhiều mối<br />
đe doạ từ bên ngoài. Về lãnh thổ, bờ cõi nước<br />
ta trong thời kỳ này đã trải dài và khá rộng. Từ<br />
Hà Giang và các vùng phụ cận ở phía Bắc vào<br />
đến dãy Hoành Sơn ở phía Nam; từ vùng rừng<br />
núi phía Tây qua miền trung du và đồng bằng<br />
các châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam...<br />
ra biển Đông. Trung tâm của đất nước chuyển<br />
dần và ngày càng mở rộng về vùng đồng bằng,<br />
nhưng vẫn tựa lưng vững chắc vào vùng rừng<br />
núi, nơi có thế thiên hiểm và chứa đựng<br />
nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Đồng<br />
thời, ngay từ thời lập quốc, đất nước ta đã có<br />
một không gian nước bao la với bờ biển dài,<br />
nhiều đảo và quần đảo giàu hải sản quý hiếm,<br />
đặc biệt là ngọc trai, đồi mồi… mà giới quý tộc<br />
phương Bắc ham chuộng. Ở nội địa, mạng<br />
sông ngòi chằng chịt không chỉ bồi đắp phù sa<br />
màu mỡ cho vùng đồng bằng, thuận lợi cho<br />
phát triển nông nghiệp mà còn tạo ra hệ thống<br />
<br />
giao thông đường thuỷ, thuận tiện cho giao lưu,<br />
trao đổi sản vật giữa các vùng của đất nước cũng<br />
như với các nước khác, đồng thời tiện cho việc<br />
cơ động lực lượng, vận chuyển lương thực, phát<br />
huy thế mạnh của thuỷ chiến khi đất nước có<br />
chiến tranh. Yếu tố nước chi phối nền văn hoá<br />
Việt, bởi vùng cư trú của người Việt cổ có trên<br />
50% diện tích là sông hồ, cùng với tính chất bán<br />
đảo (chiếm trọn phần phía Đông của bán đảo<br />
Đông Dương). Đặc tính nền văn hoá lúa nước với<br />
triết lý nước góp phần tạo nên tư tưởng chiến<br />
tranh linh hoạt, mềm dẻo của người Việt. Địa lý<br />
tự nhiên, môi trường sinh thái, không gian sinh<br />
tồn của người Việt gồm vùng núi, vùng đồng<br />
bằng và các vùng nước nối liền và gắn kết với<br />
nhau là những yếu tố quan trọng hình thành nên<br />
các ngành, nghề kinh tế đa dạng cùng nền văn<br />
hoá phong phú, trong đó có những nét đặc sắc<br />
liên quan đến hoạt động quân sự như tài bơi<br />
lặn, giỏi dùng thuyền trong thuỷ chiến, đánh mai<br />
phục, đánh gần...<br />
Trải qua hàng nghìn năm, tổ tiên ta đã từng<br />
bước tiến vào xã hội văn minh, định hình quốc<br />
gia, dân tộc, xây dựng nền văn hiến, với nhà<br />
nước sơ khai đầu tiên - nhà nước Văn Lang. Về<br />
dân số nước ta thời Văn Lang, theo sách Tiền<br />
Hán thư, ước đoán, có thể đã có khoảng một<br />
triệu người. Trong buổi đầu ấy, tổ chức nhà<br />
nước đã xuất hiện, nhưng còn sơ khai - Bộ<br />
máy hành chính với hệ thống quan chức chỉ<br />
được ghi chép sơ sài trong thư tịch và lưu ảnh<br />
trong ký ức dân gian - qua truyền thuyết. Ở các<br />
bộ (địa phương) có Lạc Tướng đứng đầu, cha<br />
truyền con nối, gọi là phụ đạo. Bộ máy chính<br />
quyền trung ương do Hùng Vương đứng đầu,<br />
với các Lạc Hầu là người giúp việc, cùng đội<br />
thân binh làm nhiệm vụ bảo vệ và dần hình<br />
thành một lực lượng vũ trang thường trực.<br />
Năm 208 trước Công nguyên, nhà nước Âu<br />
Lạc được thành lập. Đây là kết quả của “liên<br />
minh” chống quân xâm lược nhà Tần giữa bộ<br />
lạc Âu Việt của Thục Phán và nước Văn Lang<br />
của Hùng Vương. Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong<br />
một thời gian ngắn (từ năm 208 - 179 trước<br />
Công nguyên), cơ bản kế thừa nền tảng kinh<br />
tế, xã hội, chính trị… của nhà nước Văn Lang.<br />
Trước kẻ thù đông và mạnh hơn gấp nhiều lần,<br />
nhà nước Âu Lạc đã quan tâm đặc biệt đến việc<br />
phát triển lực lượng quân sự, mà theo Đào Duy<br />
Anh, “sự thành lập nước Âu Lạc là một sự kiện<br />
<br />
do tổ tiên chúng ta là người Lạc Việt đã xuất<br />
đầu lộ diện trên lịch sử chính là kết quả của<br />
cuộc kháng chiến bền bỉ của tổ tiên ta chống<br />
quân nhà Tần. Nó có ý nghĩa trọng đại đối với<br />
lịch sử nước ta”(1).<br />
Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà<br />
chiếm được Âu Lạc, từ đó, đất nước ta phải<br />
trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Các triều<br />
đại phong kiến phương Bắc từ Triệu, Hán, Ngô,<br />
Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường đã thực<br />
thi nhiều chính sách và mưu đồ nhằm đồng<br />
hoá dân tộc ta, xoá tên quốc gia của người Việt.<br />
Tuy nhiên, dựa trên nền tảng vững chắc của<br />
một cộng đồng quốc gia dân tộc có lãnh thổ<br />
riêng, tiếng nói riêng, nền văn hoá riêng, nhân<br />
dân ta không chịu khuất phục, liên tục đấu<br />
tranh chống các triều đại phong kiến phương<br />
Bắc. Tiêu biểu, như khởi nghĩa của Hai Bà Trưng<br />
chống ách đô hộ nhà Đông Hán năm 40 - 43;<br />
khởi nghĩa Bà Triệu chống ách đô hộ nhà Đông<br />
Ngô năm 248; khởi nghĩa Lý Bí chống ách đô<br />
hộ nhà Lương năm 542 - 545; kháng chiến<br />
chống ách đô hộ nhà Tuỳ của Lý Phật Tử năm<br />
603; khởi nghĩa Mai Thúc Loan chống ách đô<br />
hộ của nhà Tùy năm 722; kháng chiến chống<br />
ách đô hộ của nhà Đường do Phùng Hưng<br />
lãnh đạo năm 766 - 791, của Khúc Thừa Dụ<br />
năm 905; kháng chiến chống quân Nam Hán<br />
xâm lược giai đoạn 930 - 938...<br />
Theo đó, di sản văn hóa quân sự vật thể<br />
thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc của dân<br />
tộc đã được định hình qua hàng nghìn năm lao<br />
động, đấu tranh bền bỉ và sáng tạo của tổ tiên<br />
ta, điển hình là các di chỉ có vũ khí, trang bị<br />
quân sự, như mũi tên, nỏ, lao, giáo, rìu chiến,<br />
dao găm, kiếm ngắn, tấm che ngực, mộc,<br />
những phương tiện thông tin liên lạc, thuyền<br />
chiến... thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng<br />
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn; các<br />
công trình phòng thủ quân sự, như làng Việt,<br />
thành cổ của Kinh Dương Vương (Việt Trì - Phú<br />
Thọ); thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội)...; các<br />
di tích chiến trường, dấu tích chiến công, như<br />
căn cứ Cấm Khê, thuộc dãy núi Ba Vì trong khởi<br />
nghĩa của Hai Bà Trưng; căn cứ núi Nưa, thuộc<br />
miền núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa,<br />
nơi Triệu Thị Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt<br />
dấy binh khởi nghĩa; đầm Dạ Trạch ở huyện<br />
Chu Diên (tức bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng<br />
Yên) - căn cứ quân sự được Triệu Quang Phục<br />
<br />
sử dụng để sản xuất lương thực, rèn giũa binh<br />
khí, huấn luyện quân sĩ, tập kích quân nhà<br />
Lương; cửa sông Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên<br />
- Quảng Ninh), nơi được Ngô Quyền chọn làm<br />
chiến trường quyết chiến với quân Nam Hán.<br />
Bên cạnh đó là các di sản văn hóa quân sự<br />
phi vật thể thời kỳ dựng nước và chống Bắc<br />
thuộc như: truyền thuyết Thánh Dóng, truyền<br />
thuyết An Dương Vương xây dựng thành Cổ<br />
Loa... Các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc còn để<br />
lại cho chúng ta những thông điệp và tư tưởng<br />
quân sự, chiến lược và chiến thuật quân sự,<br />
như: tư tưởng“đồng khởi” của Hai Bà Trưng,<br />
“nam nữ bình quyền” của Bà Triệu,“Nam đế cư”<br />
và kháng chiến trường kỳ của Lý Bí, lối đánh “du<br />
kích” của Triệu Quang Phục, kế vây hãm thành<br />
của Phùng Hưng, tinh thần độc lập tự chủ của<br />
họ Khúc, Dương Đình Nghệ... Di sản văn hóa<br />
quân sự phi vật thể còn được thấy qua một số<br />
lễ hội truyền thống, như hội đền Hùng - khơi dậy<br />
tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân<br />
tộc; hội đền Dóng, lễ hội đền Hai Bà Trưng...<br />
3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân<br />
sự Việt Nam thời Mở nước và chống Bắc<br />
thuộc<br />
Với đường lối đúng đắn và sáng tạo của<br />
Đảng ta, di sản văn hóa Việt Nam nói chung<br />
và di sản văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng<br />
đã và đang được bảo tồn, phát huy, góp phần<br />
quan trọng vào những thắng lợi to lớn của<br />
nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải<br />
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.<br />
Bởi vậy, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn<br />
hóa quân sự, trong đó có di sản văn hóa quân<br />
sự thời dựng nước và chống Bắc thuộc trong<br />
sự phát triển toàn diện đất nước, làm cho di<br />
sản văn hóa quân sự tiếp tục tỏa sáng trong<br />
giao lưu, hội nhập là nhiệm vụ quan trọng, có<br />
ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.<br />
Ngày nay, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ<br />
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân<br />
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn<br />
minh” là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn<br />
của nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải<br />
biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phải phát huy cao<br />
độ khả năng và trí tuệ của mỗi con người Việt<br />
Nam. Bên cạnh đó, những thành tựu của cách<br />
<br />
mạng khoa học - công nghệ thế giới, cùng với<br />
việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để<br />
chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của<br />
nhân loại, đồng thời, cũng đặt ra những thách<br />
thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa<br />
dân tộc. Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc<br />
tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng đã<br />
bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến<br />
việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa<br />
quân sự dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch<br />
cũng luôn ráo riết chống phá ta trên mặt trận<br />
tư tưởng văn hóa, nhằm chia rẽ khối đại đoàn<br />
kết dân tộc... Trong khi đất nước ta còn nghèo,<br />
nhu cầu văn hóa của nhân dân rất lớn nhưng<br />
khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những<br />
điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.<br />
Một điều đáng quan tâm là những di sản<br />
văn hóa quân sự gắn với thời kỳ dựng nước và<br />
chống Bắc thuộc cách đây hàng ngàn năm, ở<br />
một đất nước đã trải qua biết bao biến cố, nhất<br />
là chiến tranh, lại thường xuyên phải chống<br />
lại chính sách thôn tính, đồng hóa thâm độc<br />
của các thế lực phong kiến phương Bắc, rất<br />
dễ bị mai một và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến<br />
mất nhanh chóng. Vì thế, việc bảo vệ và phát<br />
huy giá trị hệ thống di sản văn hoá quân sự<br />
Việt Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống<br />
Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng. Đó cũng<br />
chính là việc bảo vệ và phát huy một tài sản<br />
văn hóa quý giá của cộng đồng các dân tộc<br />
Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân<br />
tộc và di sản văn hóa quân sự của nhân loại cội nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn<br />
hóa quân sự Việt Nam hôm nay và mai sau.<br />
Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn<br />
hóa quân sự Việt Nam gắn với thời kỳ dựng<br />
nước và chống Bắc thuộc trong giai đoạn hiện<br />
nay, trước hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc<br />
những quan điểm cơ bản của Đảng về xây<br />
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc<br />
dân tộc, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã<br />
hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững<br />
đất nước, văn hóa phải được đặt ngang hàng<br />
với kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng cường vai<br />
trò quản lý của nhà nước trong việc xây dựng<br />
và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,<br />
chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.<br />
<br />
Công tác bảo tồn và trùng tu các di sản văn<br />
hóa quân sự thời dựng nước và chống Bắc<br />
thuộc cần đảm bảo tính nguyên gốc và tính<br />
chân thực lịch sử của di sản, đó là cần làm rõ<br />
lịch sử hình thành, ý nghĩa của di sản, phải bảo<br />
đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di sản<br />
văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới<br />
thiệu, trưng bày, phục dựng và tôn tạo. Tăng<br />
cường việc ứng dụng những thành tựu khoa<br />
học kỹ thuật hiện đại trong việc bảo tồn di sản<br />
góp phần chống xuống cấp và bảo vệ lâu dài<br />
cho di sản văn hóa quân sự thời dựng nước và<br />
chống Bắc thuộc là rất cần thiết, bởi những di<br />
sản đó đã có cách đây hàng nghìn năm rất dễ<br />
bị hư hại trong điều kiện khí hậu nóng ẩm,<br />
đồng thời cũng cần áp dụng các biện pháp<br />
khoa học, các phương tiện hiện đại trong<br />
trưng bày phát huy giá trị các di sản.<br />
Phát huy di sản văn hóa quân sự Việt Nam<br />
thời mở nước và chống Bắc thuộc có hiệu quả,<br />
thu hút được sự quan tâm của công chúng với<br />
di sản đó là cần khai thác những tinh hoa của<br />
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp<br />
nên qua lịch sử ngàn năm đấu tranh giữ nước<br />
gắn liền với dựng nước. Những giá trị tiêu biểu<br />
như lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường<br />
dân tộc, tinh thần đoàn kết, cả nước một lòng,<br />
toàn dân đánh giặc, nghệ thuật quân sự “lấy<br />
ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, “lấy đoản<br />
binh thắng trường trận”, là tinh thần nhân đạo,<br />
nhân văn, hòa hiếu, là phương lược giữ nước<br />
từ lúc nước chưa nguy, là nghệ thuật dựng<br />
binh và dụng binh độc đáo…<br />
Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch<br />
sử và cũng là người sáng tạo ra văn hóa, bảo tồn<br />
và phát huy giá trị di sản văn hoá quân sự thời<br />
mở nước và chống Bắc thuộc là sự nghiệp của<br />
toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí<br />
thức giữ vai trò quan trọng. Do đó, vấn đề then<br />
chốt trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn<br />
hoá quân sự là phải đổi mới và nâng cao nhận<br />
thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lư¬ợc gắn với<br />
cộng đồng dân cư, là môi trường sống, nơi sinh<br />
ra và đồng thời là nơi lưu giữ, trao truyền và<br />
phát huy những giá trị văn hóa quân sự. Vì vậy,<br />
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý<br />
thức tự giác của người dân trong việc bảo tồn<br />
và phát huy di sản văn hóa<br />
<br />
quân sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc,<br />
khơi dậy lòng tự hào đối với di sản văn hóa<br />
quân sự là công việc có ý nghĩa quan trọng để<br />
hướng người dân chủ động tìm tòi, sưu tầm và<br />
bảo tồn các loại hình di sản văn hóa quân sự<br />
này. Cùng với việc phổ biến các quy định, cần<br />
thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa<br />
các quy định chung, các văn bản hướng dẫn<br />
phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người<br />
dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành.<br />
Ngoài ra, cần phải làm rõ và gắn lợi ích của<br />
người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn.<br />
Đây cũng là cách thức thu hút đông đảo người<br />
dân tham gia lưu giữ di sản văn hóa quân sự.<br />
Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân<br />
phải thực hiện tốt chính sách xã hội hóa hoạt<br />
động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân<br />
sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc, nhằm<br />
động viên sức người, sức của của các tầng lớp<br />
nhân dân, các tổ chức xã hội. Chính sách này<br />
được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai<br />
trò và trách nhiệm của nhà nước. Các cơ quan<br />
chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm<br />
tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp<br />
vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.<br />
Cần ban hành và thực hiện nghiêm cơ chế và<br />
chính sách phát huy nội lực của nhân dân; tạo<br />
được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham<br />
gia bảo tồn di sản văn hóa quân sự, coi trọng<br />
bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng của<br />
tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu<br />
của hoạt động này.<br />
Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa ở cơ sở,<br />
bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,<br />
sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm<br />
chủ của nhân dân và lực lượng những người làm<br />
công tác bảo tồn các di sản văn hóa quân sự.<br />
Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết<br />
chế văn hóa hiện có, thực hiện phương<br />
trâm“Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”,<br />
hình thành các hình thức sáng tạo và<br />
tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể,<br />
cá nhân trong khuôn khổ luật pháp và chính<br />
sách. Khuyến khích các hình thức bảo trợ văn<br />
hóa. Nghiêm trị những hành động xâm phạm<br />
các di sản văn hóa, ngăn chặn và đẩy lùi các<br />
hoạt động phản văn hóa, làm biến dạng các<br />
di sản văn hóa, lợi dụng di sản văn hóa để trục<br />
<br />
lợi. Xây dựng các quy chế, quy định về lễ hội,<br />
việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã,<br />
việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, v.v...<br />
Khuyến khích nhân dân các xã, phường, thôn<br />
ấp, cụm dân cư xây dựng các quy ước về nếp<br />
sống văn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh công cộng,<br />
bảo vệ các di sản văn hóa.<br />
Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời dựng<br />
nước và chống Bắc thuộc là một bộ phận quan<br />
trọng của Di sản văn hóa Việt Nam và của di<br />
sản văn hóa quân sự nhân loại. Do đó, bảo vệ<br />
và phát huy giá trị di sản văn hóa quân sự Việt<br />
Nam thời dựng nước và chống Bắc thuộc<br />
không chỉ có giá trị về lĩnh vực văn hóa, khoa<br />
học, kinh tế mà còn có giá trị thực tiễn trong<br />
công tác bảo vệ Tổ quốc hiện nay.<br />
N.T.D<br />
(ThS, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Đào Duy Anh (1956), Lịch sử Việt Nam,<br />
quyển thượng, Hà Nội.<br />
2. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử<br />
cương, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, .<br />
3. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2002), Văn<br />
hoá quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân,<br />
Hà Nội.<br />
4. Nguyễn Văn Tài (tổng chủ biên) (2010), Sự<br />
nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội,<br />
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br />
5. Nguyễn Văn Tài - Văn Đức Thanh (2010),<br />
Lược khảo danh nhân quân sự trong sự nghiệp bảo<br />
vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Chính trị<br />
Quốc gia, Hà Nội.<br />
6. Văn Đức Thanh (2001), Quán triệt và vận<br />
dụng quan điểm của Đảng về “bảo tồn và phát huy<br />
các di sản văn hoá dân tộc”, Tạp chí Khoa học xã<br />
hội, số 6.<br />
Ngày nhận bài: 2 - 3 - 2017<br />
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017<br />
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017<br />
<br />