Bệnh thường gặp trên cá

điêu hồng và cách phòng

trị

BỆNH NỔ MẮT

Hình : Cá điêu hồng bị bệnh nổ mắt

Người nuôi cá điêu hồng không ai không gặp qua bệnh nổ

mắt và bệnh trắng mang, thối mang trên cá điêu hồng. Bệnh

thường xảy ra vào mùa có nhiệt độ nước tăng cao, khi hàm

lượng oxy hoà tan trong nước thấp, cá nuôi với mật thả cao,

trọng lượng cá từ 100g trở lên. Bệnh xảy ra gây thiệt hại

nghiêm trọng cho người nuôi (50-70%). Thông tin sau sẽ

giúp người nuôi hiểu rõ hơn về hai bệnh này từ đó có cách

phòng trị

Tác nhân gây bệnh

Do vi khuẩn Steptococcus gây ra. Vi khuẩn này phát triển

mạnh ở môi trường có nhiệt độ nước 20 – 30oC.

Dấu hiệu bệnh lý của cá bệnh

Cá có dấu hiệu hôn mê, mất phương hướng bơi lội. Vùng

mắt bị thương tổn như viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt

Xuất hiện các vết lở loét xuất huyết không lành ở quanh

mắt, các gốc vây hoặc những vùng da hơi đỏ xung quanh hậu

môn, sinh dục của cá

Có dịch chất lỏng trong bụng cá chảy ra hậu môn (dấu hiệu

của dịch bệnh ở thời kỳ cấp tính)

Cá bỏ ăn, kiểm tra không thấy thức ăn trong dạ dày hoặc

ruột của cá bị bệnh, quan sát thấy túi mật to

Gan, thận, lá lách, tim, ống ruột bị xuất huyết. Lá lách và

thận bị trương lên và sưng nhẹ

Khi cá bị nhiễm bệnh nặng kiểm tra có sự dính nhau của

các cơ quan nội tạng với màng trong khoang bụng của cá,

quan sát thấy có các tơ huyết trong màng ở khoang bụng

Phương pháp phòng và trị bệnh

Thực hiện tốt công việc chuẩn bị ao, lồng bè nuôi, đặc biệt

là khâu xử lý đáy ao và xử lý nước. Dùng Virkon® A để xử

lý nước với liều 0,7 kg/1.000 m3 nước ao hoặc cho vào các

túi vải, treo xung quanh lồng bè nuôi để tiêu diệt vi khuẩn

gây bệnh

Trước khi thả cá nuôi nên tắm qua nước muối 2 – 3%

trong thời gian 5 – 15 phút. Nên thả nuôi với mật độ vừa phải

Trong quá trình nuôi cần theo dõi thường xuyên các yếu tố

môi trường nước, nếu được duy trì hàm lượng oxy hoà tan ở

mức cao bằng máy quạt nước. Trộn cho ăn liên tục 5 g Aqua

C® Fish + 3 g Grow Fish trong 1 kg thức ăn, định kỳ từ 7 –

10 ngày/tháng để tăng cường sức đề kháng cho cá khi nhiệt

độ thay đổi

Khi dịch bệnh xảy ra nên cắt giảm một phần hoặc toàn bộ

lượng thức ăn cho cá. Giảm mật độ nuôi sẽ giảm bớt căng

thẳng và mức độ lây lan bệnh đến cá. Lập tức vớt bỏ số cá

chết ra khỏi ao, lồng bè nuôi

Điều trị ngay bằng kháng sinh Osamet® Fish (hoặc

Fortoca®) liều 5 – 10 gram + Aqua C® Fish liều 5 gram

trong 1 kg thức ăn (hoặc cho 2 – 3 tấn cá nuôi), cho ăn liên

tục trong 7 – 10 ngày

Điều trị bệnh giai đọan sớm hiệu quả điều trị sẽ rất cao.

BỆNH TRẮNG MANG, THỐI MANG

Hình : Cá điêu hồng bị bệnh thối mang

Tác nhân gây bệnh

Do vi khuẩn Myxococcus piscicolas gây ra. Vi khuẩn này

phát triển mạnh ở môi trường có pH = 6,5 – 7,5, nhiệt độ

nước 25 – 35oC.

Dấu hiệu bệnh lý của cá bệnh

Cá bệnh có dấu hiệu bơi tách đàn, bơi lờ đờ trên mặt

nước, khả năng bắt mồi giảm đến ngừng ăn

Các tơ mang cá bị thối nát, ăn mòn, rách nát, xuất huyết,

thối rữa và có lớp bùn dính rất nhiều

Bề mặt xương nắp mang bị xuất huyết, ăn mòn và có hình

dạng không bình thường

Phương pháp phòng và trị bệnh

Cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị ao nuôi, vét sạch bùn đáy

ao

Trong quá trình nuôi phải quản lý tốt môi trường để hạn

chế ô nhiễm hữu cơ thông qua việc quản lý lượng thức ăn

Định kỳ thay nước ao để giữ môi trường trong sạch.

Thường xuyên vệ sinh thành lồng bè để đảm bảo lưu tốc

dòng nước chảy cho phù hợp

Định kỳ xử lý nước bằng Virkon® A liều 0,7 kg/1.000 m3

nước ao hoặc cho vào các túi vải, treo xung quanh lồng bè để

tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh

Trộn cho ăn liên tục 5 g Aqua C® Fish + 3 g Grow Fish

trong 1 kg thức ăn, định kỳ từ 7 – 10 ngày/tháng để tăng

cường sức đề kháng cho cá khi nhiệt độ thay đổi

Khi phát hiện bệnh sớm cần phải điều trị ngay bằng kháng

sinh BayMet® liều 5 – 10 gram + Aqua C® Fish liều 5 gram

trong 1 kg thức ăn (hoặc 1 kg BayMet®+ 1 kg Aqua C® Fish

cho 3 – 5 tấn cá nuôi), cho ăn liên tục trong 7 – 10 ngày. Tắm

BayMet® với liều 2 - 5g/m3 .

BỆNH DO KÝ SINH TRÙNG

các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con

trong quá trình ương. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương

giống có tỉ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị

bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt

trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp

xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).

Cách phòng trị: ao ương hoặc nuôi cá phải có sục khí. Khi

phát hiện cá bị bệnh cần bón: Formol nồng độ 25 – 30ml/m3

trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150ml/m3 nếu trị trong

15-30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2-5g/10m3 trị thời

gian dài và từ 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút, cách

ngày trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá,

nồng độ 1-3% trị thời gian dài và 1-2% trị trong 10-15 phút.

BỆNH XUẤT HUYẾT

bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc

Edwardsiellatarda gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất

huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc

hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất hiện ở

cá rô phi đỏ nuôi bè.

Biện pháp đề phòng: là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay

nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón khử trùng nơi cho ăn.

cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc

kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.

CÁ TRƯƠNG BỤNG DO THỨC ĂN

thường xảy ra ở các ao, bè cho cá ăn thức ăn tự chế không

được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu

hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá

bơi lờ đờ và chết rải rác.

Biện pháp khắc phục: là kiểm tra chất lượng và thành phần

thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp. Nếu trường hợp

nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn. Trong thức ăn

nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic...)