213
chương 5
BIẾN ĐỘNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
TÌnh hÌnh VIỆc LÀM TROng nĂM 2011
Việc làm là một trong những chỉ số quan trọng nhất của kinh tế
mô. Điều này lại càng đúng Việt Nam, do lực lượng lao động tăng
khá nhanh nên tạo và đảm bảo việc làm là một trong những thách thức
mô lớn. Để có bức tranh về tình hình lao động và việc làm trong năm
2011, cần đặt năm này trong cả một giai đoạn để thể thực hiện việc
so sánh đánh giá. Phân tích số liệu của Tổng cục Thống cho giai đoạn
từ năm 2006 đến năm 2011 cho thấy, tổng số việc làm trong nền kinh tế
tăng từ 44 triệu lên 50,6 triệu, đạt tốc độ tăng trung bình khoảng 2,5%/
năm (xem Hình 1.11 - Chương 1). Với lực lượng lao động tốc độ
tăng tương đương việc làm (2,8%/năm), số việc làm mới của Việt Nam
trong giai đoạn này chủ yếu cung cấp cho những người mới gia nhập
lực lượng lao động.
Liên quan đến cấu lao động (từ 15 tuổi trở lên) đang làm việc
trong các khu vực kinh tế, Hình 5.1 cho thấy một sự chuyển dịch
đáng kể trong giai đoạn 2006-2011. Số lao động trong nông, lâm nghiệp
và thủy sản giảm từ 55,4% xuống 48%, công nghiệp và xây dựng tăng
từ 19,3% lên 22,4%; khu vực dịch vụ từ 25,3% đến 29,6%. Có thể thấy
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ là những ngành đóng góp chính cho
tăng trưởng việc làm đây thể được nhìn nhận như một xu hướng
khá tích cực. một góc độ phân tích khác về cấu, cho đến năm
2010, khu vực tư nhân trong nước, đặc biệt là nông nghiệp và khu vực
phi chính thức, giữ vai trò chính tạo việc làm cho nền kinh tế (chiếm
86% số việc làm), còn khu vực nhà nước vai trò giảm (từ 11,2 xuống
10,4%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn nhỏ nên chiếm tỉ trọng
214
không lớn trong tổng việc làm, song tỉ trọng này có xu hướng gia tăng
(tăng từ 3 lên 3,5%).
Hình 5.1. Cơ cấu việc làm của Việt Nam, 2006 và 2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2011.
Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế nhân trong nước
đóng vai trò quan trọng đối với tạo việc làm, hạn chế tình trạng thất
nghiệp hay thiếu việc làm. Liên quan đến các chỉ số quan trọng này của
thị trường lao động, số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong giai
đoạn 2006-2011, tỉ lệ thất nghiệp tăng tăng nhẹ từ 2,1% đến 2,3%, với
số người thất nghiệp tăng từ 1 lên 1,2 triệu. Riêng năm 2009 2010,
thất nghiệp tăng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
Tuy tình hình thất nghiệp ở khu vực thành thị vẫn nghiêm trọng hơn so
với nông thôn cả nước và số người thất nghiệp ổn định trong khoảng
0,6 triệu, tỉ lệ thất nghiệp thành thị xu hướng giảm với tỉ lệ từ 4,8%
năm 2006 xuống còn 3,6% năm 2011. Tỉ lệ thiếu việc làm - một chỉ
số hết sức quan trọng khác giúp đánh giá sức khỏe của khu vực nông
nghiệp và khu vực phi chính thức phi nông nghiệp cũng giảm đáng kể,
thể hiện sự hồi phục của các khu vực này nói riêng nền kinh tế sau
khủng hoảng (Hình 5.2 và Hình 5.3).
215
Hình 5.2. Tỉ lệ thất nghiệp, 2006-2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2011.
Hình 5.3. Tỉ lệ thiếu việc làm, 2006-2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2011.
Một chỉ tiêu quan trọng khác của thị trường lao động là tiền lương.
Tuy không có số liệu của Tổng cục Thốngvề tiền lương, song những
số liệu thu thập được từ các cuộc khảo sát do Viện Khoa học hội Việt
Nam tại các khu công nghiệp một số địa bàn quan trọng khác một số
tỉnh như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương được
thực hiện hàng năm trong suốt giai đoạn từ 2009 đến 2011 cũng cho thấy
chỉ số này phục hồi khá tốt sau khi chạm đáy vào quý I/2009 dưới tác
động của cuộc khủng khoảng kinh tế tài chính toàn cầu. Cả tiền lương
danh nghĩa cũng như tiền lương thực tế (đã loại trừ yếu tố lạm phát) tại
các địa bàn tiến hành khảo sát vào tháng 8/2011 đều cao hơn so với thời
điểm ba năm trước đó (tháng 6/2008).
216
Như vậy các số liệu của Tổng cục Thống kê cũng như các thông tin
số liệu do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thu thập được từ cuộc Đánh
giá nhanh tác động của những biến động đến doanh nghiệp, người
lao động hộ gia đình cho thấy cả ba chỉ số chính về thị trường lao
động - thất nghiệp, thiếu việc lầm tiền lương, đều tương đối khả quan
trong năm 2011. Các kết quả này về thị trường lao động thể được
nhìn nhận là các điểm sáng của kinh tế vĩ mô trong năm 2011.
PhÂn TÍch cÁc YẾU TTÁc ĐỘng LÊn VIỆc LÀM VÀ ThU
nhẬP TROng nĂM 2011 VÀ TRIỂn VỌng nĂM 2012
Các kết quả của thị trường lao động nêu trên liên quan nhiều
đến tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ cũng như cơ cấu, diễn ra trong năm
2011. Về tốc độ tăng trưởng, mặc tỉ lệ tăng trưởng chỉ đạt 5,89% (tức
chỉ cao hơn tăng trưởng năm 2009 trong giai đoạn 2008-2011) song
đây là mức rất đáng ghi nhận trong so sánh với nhiều nước khác ở châu
Á và trên thế giới. Mức này cũng không thấp hơn nhiều so với mức của
các năm 2008 và 2010 (tương ứng là 6,31% và 6,78%). Song có lẽ điều
đáng ghi nhận nhất chính đạt được tốc độ tăng trưởng đáng khích lệ
trong bối cảnh tổng đầu hội chịu sự sụt giảm mạnh, từ mức cao
41,9% trong năm 2010 (và còn cao hơn trong các năm 2007 2009
trước đó) xuống chỉ còn 34,6% trong năm 2011.
Song lẽ cấu của tăng trưởng còn đóng vai trò cao hơn đến các
kết quả chính của thị trường lao động thu nhập việc làm. Trước hết
kết quả ấn tượng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản với mức
tăng trưởng khoảng 4%. Đây là mức cao nhất trong vòng ba năm trở lại
đây, và đóng góp tới 0,66 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế, được
coi là một điểm sáng quan trọng khác của kinh tế năm 2011, và thực sự
đã đóng vai trò giảm sốc khá hiệu quả cho nền kinh tế thông qua đóng
góp tích cực không những chỉ cho tăng trưởng còn giúp kiềm chế
lạm phát (thông qua kiềm chế sự gia tăng giá của các mặt hàng lương
thực - thực phẩm) và bảo đảm thu nhập cho người dân ở khu vực nông
thôn. Cuộc điều tra khảo sát nhanh do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
thực hiện trong năm 2011 như được nêu ở trên cũng khẳng định những
217
ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng nông nghiệp đến thu nhập tiền
lương tại các địa bàn điều tra (xem Phụ lục 3).
Tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng trong năm 2011 (tăng khoảng
33,25% so với năm 2010) cũng yếu tố quan trọng khác hỗ trợ cả tăng
trưởng cũng như lao động việc làm. cấu tăng trưởng xuất khẩu
cũng yếu tố tác động tích cực lên thị trường lao động: những ngành
xuất khẩu thâm dụng lao động hay liên quan đến kế sinh nhai của
lao động có ít kỹ năng đã đạt được mức tăng trưởng cao. Cụ thể, so với
năm 2010, trong năm 2011, giá trị xuất khẩu dệt may tăng 25,1%, giày
dép tăng 27,3%; thủy sản tăng 21,7%; điện tử máy tính tăng 16,9%;
máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 34,5%; gỗ sản phẩm gỗ tăng
13,7%; gạo tăng 12,2%; cao su tăng 35%; cà phê tăng 48,1%; v.v... Du
lịch đón khách quốc tế đến - lĩnh vực xuất khẩu tạo chỗ và có tác động
lên việc làm thu nhập - hoặc qua tác động trực tiếp hoặc qua tác động
lan tỏa, cũng có tốc độ tăng trưởng tốt ở mức 19,1%.
Hai lĩnh vực khác liên quan nhiều đến tạo việc làm bán lẻ
xây dựng - những lĩnh vực không tham gia xuất nhập khẩu (non-
tradables) kết quả thấp hơn. Nếu như lĩnh vực bán lẻ vẫn đạt được sự
tăng trưởng cho dù ở mức thấp (tăng 24,2% so với năm trước, song nếu
loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 4,7%) thì lĩnh vực xây dựng lại mức
giảm nhẹ, chỉ bằng 99,3% so với năm 2010.
Cũng với cách tiếp cận phân tích này áp dụng cho số liệu quý
I/2012 đã dẫn đến những quan ngại về khả năng có một sự đảo chiều
trên thị trường lao động trong năm 2012. Trước hết sự suy giảm
trong tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, với mức tăng trưởng
chỉ đạt 4%, thấp hơn đáng kể so với mức 5,57% của quý I/2011. Những
số liệu về sự gia tăng mạnh của hàng tồn kho trong quý I/2011 (chỉ số
tồn kho tại thời điểm 1/3/2012 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm trước) cho thấy triển vọng tăng
trưởng trong những quý còn lại của năm cũng sẽ rất khó khăn, do khả
năng hấp thụ sản phẩm hàng hóa của nền kinh tế xu hướng suy giảm.
Tình hình còn có thể sẽ còn diễn biến khá phức tạp và nhiều ý kiến cho
thấy tăng trưởng khó đạt được chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Tuy nhiên tác