Bóng ma dịch hạch đang quay lại?

Từ năm 1991, dịch hạch đã không còn hiện diện

trong các bệnh viện lớn và sinh viên y khoa chỉ

còn biết qua giáo trình sách vở. Cho đến gần đây,

ngày 30.7, khi Trung Quốc công bố phát hiện một

ổ dịch hạch thì sự quan tâm của cộng đồng đến

căn bệnh này lại dấy lên.

Điểm mặt thủ phạm gây dịch

Dịch hạch là bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn từ thú vật

lan sang người qua trung gian truyền bệnh. Bệnh có

từ thời cổ đại và vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Vào

thời trung cổ, bệnh dịch hạch mang danh “cái chết

đen” (black death) vào khoảng 1348 – 1350, đã cướp

đi sinh mạng của 1/4 dân số châu Âu.

Thời hiện đại, một đại dịch dịch hạch hoành hành ở

Trung Quốc vào những năm 60 của thế kỷ 19 và lấn

sang Hong Kong vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ đó.

Chính tại nơi này, Alexandre Yersin đã phân lập được

tác nhân gây bệnh dịch hạch vào năm 1894 nên vi

khuẩn gây bệnh được mang tên Yersinia pestis

(Y.pestis).

Đại dịch này bị phát tán khắp thế giới qua những con

chuột trên những con tàu vượt đại dương đến những

nước khác ở châu Á, qua tận California Hoa Kỳ,

xuống những hải cảng xa xôi ở Nam Mỹ và châu Phi.

Dịch hạch ở thị thành do chuột lan truyền hầu hết có

thể kiểm soát được nhưng khi vi khuẩn truyền qua

các loại gặm nhấm hoang dại thì nguồn bệnh đã ẩn

náu trong những vùng hoang dã rất khó tiêu diệt mầm

bệnh.

Trong năm thập niên đầu thế kỷ 20, dịch hạch tấn

công Ấn Độ, giết hại gần 10 triệu người. Trong những

năm 1960 và 1970, Việt Nam là một trong những

nước có nhiều bệnh dịch hạch nhất (chủ yếu ở miền

Nam, với con số khoảng 10.000 trường hợp mỗi

năm). Từ 1996 – 2000 chỉ còn khoảng 140 trường

hợp cả nước với bảy tử vong. Những năm gần đây

hơn, bệnh dịch hạch hầu như không xuất hiện tại các

bệnh viện.

Vi khuẩn từ nguồn lây thường là các loài gặm nhấm

như chuột (Rattus rattus và Rattus norvegicus là hai

nguồn nhiễm quan trọng) hoặc động vật hoang dã

đang mắc bệnh (có vi khuẩn trong máu). Bọ chét

(Xenopsylla cheopis là chủ yếu) trên các động vật này

đốt và hút máu có chứa nhiều vi khuẩn dịch hạch.

Men coagulase của vi khuẩn tiết ra làm máu trong

ống tiêu hóa của bọ chét đông lại và vi khuẩn tiếp tục

phát triển trong các cục máu đông.

Khi chuột chết vì bệnh, bọ chét sẽ nhảy ra tìm chuột

khác và “tình cờ” tìm được người lành để hút máu

trên đường tìm kiếm “chuột lành” khác. Chúng ói ra

các cục máu đông đầy vi khuẩn Y.pestis lên vết đốt,

vi khuẩn xâm nhập vào các mạch máu trắng di

chuyển lên các hạch bạch huyết, phát triển và huỷ

hoại cấu trúc của hạch và làm hạch sưng, đỏ, đau và

chứa đầy vi khuẩn Y.pestis.

Những dấu hiệu nhận diện bệnh

Giai đoạn đầu bệnh nhân bị sốt, đau vùng hạch sau

đó sưng to, nóng và đau gọi là dịch hạch thể hạch.

Nếu không được điều trị kịp thời, vi khuẩn lan nhanh

qua máu, đến nhiều nội tạng gây tình trạng nhiễm

trùng huyết (dịch hạch thể nhiễm trùng huyết). Trong

quá trình phát triển dịch hạch có thể lan lên phổi theo

đường máu gây dịch hạch thể phổi thứ cấp. Dịch

hạch thể phổi nguyên phát là do hít phải vi khuẩn từ

người bệnh hay súc vật bị viêm phổi qua đường

không khí.

Trong dịch hạch thể phổi, bệnh nhân sốt cao, có hạch

hoặc không; ho nhiều, đau ngực, khó thở, hay ho ra

máu. X-quang thấy viêm phổi đốm. Trong thể phổi

đàm có chứa nhiều vi khuẩn Y.pestis. Thể phổi đáng

sợ nhất vì chỉ sau một ngày dù điều trị kháng sinh tỷ

lệ tử vong vẫn rất cao. Ngoài ra Y.pestis còn xâm

nhập vào màng não gây viêm màng não mủ dịch

hạch hay viêm họng, viêm amiđan…

Vi khuẩn dịch hạch giết người như vậy nhưng lại rất

nhạy cảm với kháng sinh cổ điển như streptomycin,

tetracycline, chloramphenicol. Nhóm kháng sinh mới

như fluoroquinolones cũng rất công hiệu để điều trị

bệnh dịch hạch. Để xác định chẩn đoán chỉ cần chọc

hút chất hạch để soi và cấy cũng như cấy máu trong

thể hạch hay nhiễm trùng huyết.

Dịch hạch từng xuất hiện ở Việt Nam

Những năm sau chiến tranh, dịch hạch vẫn còn lưu

hành ở các tỉnh phía Nam nhất là khu vực miền Đông

Nam bộ như Long Khánh (trong các nông trường cao

su), Tân Phú của Đồng Nai; Củ Chi, Tây Ninh, các

tỉnh Tây Nguyên... một vài nơi ở đồng bằng sông Cửu

Long như Bạc Liêu, Cà Mau… kể cả tại TP.HCM.

Trong thời gian đó, người viết bài này đã đi cùng GS

Nguyễn Duy Thanh, giám đốc bệnh viện Chợ Quán

(nay là bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới) và bác sĩ Cao Minh

Tân, viện trưởng viện Pasteur TP.HCM lúc bấy giờ.

Trong những lán trại của công nhân cao su nông

trường Cù Bị I, II giữa bạt ngàn cao su, số công nhân

bị sốt lên đến hàng chục người mỗi ngày. Công tác

phòng chống dịch hạch lúc bấy giờ gặp nhiều khó

khăn do chúng ta ở ngay vào giữa vùng có nhiều

động vật gặm nhấm hoang dại. Nhà cửa toàn bằng

tre nứa… các chuyên gia Liên Xô cũng ớn lạnh vì đôi

lúc chuột từ nóc nhà rơi xuống trước mặt, giữa lúc ăn

trưa trong lán. Như thế cách phun thuốc diệt bọ chét

từ mặt đất lên khoảng 1,2 – 1,5m được khuyến cáo

trong phòng chống dịch hoàn toàn vô hiệu vì bọ chét

từ chuột ở tận trên mái tranh rơi xuống.

Cũng thời điểm này, mỗi năm bệnh viện Chợ Quán

nhận khoảng 200 – 300 bệnh nhân được chẩn đoán

dịch hạch. Trong đó có ba trường hợp dịch hạch thể

phổi nhưng đều tử vong. Một vị phó giám đốc nhà

máy xay lúa sau mấy ngày sốt ho, nhập viện với hình

ảnh X-quang có tổn thương lan toả, tử vong nhanh

chóng sau đó. Khi dọn dẹp văn phòng, người ta tìm

thấy xác một con chuột chết trong hộc bàn ngổn

ngang giấy tờ. Khi chuột chết bọ chét sẽ nhảy đốt

người và gây bệnh…

Dịch hạch thay đổi theo mùa vì nhiệt độ cao bất hoạt

men coagulase của vi khuẩn không tạo cục máu đông

được. Khí hậu ẩm cho phép bọ chét tồn tại lâu hơn.

Ngoài ra, dịch hạch hay xảy ra ở nơi người sống tập

trung và môi trường thuận lợi cho chuột phát triển

như gần các nhà máy thực phẩm, kho nông sản…