Bù trừ chứng khoán và tiền (Clearing)
Nếu đăng ký và lưu ký chứng khoán là khâu hỗ trợ trước giao
dịch chứng khoán, thì bù trừ chứng khoán và tin là khâu hỗ trợ
sau giao dịch chứng khoán. Sau khi chứng khoán niêm yết đã được
đưa vào đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng
khn, chúng s được phép giao dịch trênThị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, sau khi giao dịch được thực hiện (đã được xác nhận),
thì các bên tham gia giao dịch cần phải nhận được tài sản của
mình: bên bán nhận được tiền, bên mua nhận được chứng khoán.
Bù trừ chứng khoán và tin thực hiện việc xử lý thông tin về các
giao dịch chứng khoán, tính toán lại nhằm xác định số tiền và
chứng khoán ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia giao dịch
phải có nghĩa vụ thanh toán sau khi giao dịch được thực hiện.
Hoạt động bù trừ trên thị trường chứng khoán về cơ bản cũng
tương tự như hoạt động bù tr của cácngân hàng thương mại. Kết
quả bù trừ tiền luôn thể hiện nghĩa vụ thanh toán một chiều đối với
một thành viên lưu ký: hoặc được nhận tiền, nếu tổng số tiền phải
trả nhỏ hơn tổng số tiền được nhận; hoặc phải trả tiền nếu tổng số
tiền phải trả lớn hơn tổng số tiền được nhận. Điểm khác nhau so
với thanh toán bù trừ của các ngân hàng là bù trừ cho các giao dịch
chứng khoán không chỉ liên quan đến mảng tiền mà còn liên quan
đến mảng chứng khoán nữa. Việc bù trừ chứng khoán cũng mang
đặc thù riêng là phải được thực hiện theo từng loại chứng khoán do
không thể bù trừ các loại chứng khoán khác nhau với nhau. Do đó,
đối với cùng một loại chứng khoán nhất định, kết quả bù trừ chứng
khn cũng sẽ chỉ ra nghĩa vụ thanh toán một chiều của từng thành
viên lưu ký: hoặc phải giao loại chứng khoán đó nếu số lượng
chứng khoán khách hàng đặt mua ít hơn số lượng khách hàng đặt
bán, hoặc được nhận về loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng
khn khách hàng đặt mua nhiều hơn số lượng khách hàng đặt bán.
Trong hoạt động bù trừ, phương
thức bù tr cũng là một vấn đề
cần quan tâm. Phương thức bù
trừ cho các giao dịch chứng
khn được quyết định bởi
phương thức giao dịch trên Th
trường chứng khoán. Nếu phương thức giao dịch là đa phương
(nhiều bên mua với nhiều bên bán), điển hình có thể thấy là đối với
các giao dịch khớp lệnh c phiếu, thì phương thức bù trừ chứng
khn và tiền sẽ là bù trừ đa phương. Nếu phương thức giao dịch
là song phương (một bên mua với một bên bán), điển hình có th
thấy là đối với các giao dịch thỏa thuận, thì phương thức bù tr
cũng sẽ là bù tr song phương.
Tuy nhiên để có hệ thống bù trừ chứng khoán và tin chính xác các
Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tin hc hóa hoàn toàn các
giao dịch chứng khoán, đómột trong các biện pháp hiệu quả,
khắc phục sự chậm trễ trong quá trình xử lý các giao dịch bằng
giấy còn phbiến hiện nay. Ví dụ như việc sử dụng cơ chế CSD
(trung tâm ký thác chứng khoán) để vận hành h thống nhập sổ
chứng khoán và tin mặt. Biện pháp CSD được coi là công cụ lý
tưởng để nhằm giảm thiểu quá trình vận chuyển các chứng khoán
giấy là bởi việc nhập sổ đã đảm bảo được sự thu hồi và phi vật thể
hoá của chứng khoán.