
Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động
cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều.
Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động
cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế
độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết
kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường
có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để
phù hợp với chế độ làm việc của động cơ.
* Chế độ khởi động :
- Khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội, điều kiện tạo hỗn hợp khí cháy khó
khăn hơn nhiều. Thứ nhất là vì lúc này, trục khuỷu động cơ quay với tốc độ rất
chậm (Ú 100 v/ph) bởi vậy độ chân không trong họng khuyếch tán rất nhỏ.
Nguyên nhân thứ hai là ở nhiệt độ thấp khả năng bay hơi của nhiên liệu kém đi rất
nhiều. Do vậy, khi khởi động động cơ, cần phải có hỗn hợp đậm đặc. Để tạo được

hỗn hợp đậm đặc trong điều kiện khởi động, bộ chế hoà khí được trang bị thêm
một bướm khí nằm ở phía trên cùng của ống hút.
Khi khởi động, các bướm ga và bướm khí đều đóng và vì vậy mà độ chân không
trong bộ chế hoà khí lúc này rất lớn mặc dù số vòng quay của động cơ là rất nhỏ.
Xăng được hút qua cả đường xăng chính và đường xăng không tải, trong khi đó
không khí chỉ được đi qua gíclơ khí của đường không tải và qua một van nhỏ trên
bướm khí. Nhờ đó mà hỗn hợp khí cháy cấp vào các xi lanh là rất đậm đặc.
* Chế độ không tải
- ở chế độ này, chỉ cần cấp một lượng xăng rất nhỏ đủ để duy trì cho động cơ hoạt
động ổn định với số vòng quay thấp nhất. Lúc này, bướm ga gần như đóng hoàn
toàn cho nên ở phía trên bướm ga độ chân không hầu như không còn nữa và vì vậy
đường xăng chính không hoạt động. Ngược lại, phía dưới bướm ga độ chân không
lại rất lớn và tại đây người ta bố trí lỗ phun của đường xăng không tải.

- Đường xăng không tải bao gồm một giclơ, nằm ở phía trên đường xăng chính,
các đường dẫn xăng nằm trong thân của bộ chế hoà khí, một giclơ khí và một vít
chỉnh. Khi động cơ hoạt động ở chế độ không tải, độ chân không phía dưới bướm
ga rất lớn nên xăng bị hút qua giclơ đường xăng không tải vào các đường dẫn nằm
trong thân của bộ chế hào khí. Việc hoà trộn với không khí được thực hiện một
phần ngay trong đường dẫn: không khí được hút vào qua giclơ khí và qua một lỗ
nhỏ nằm ngay trên bướm ga, sau đó hỗn hợp được phun ra qua lỗ ở phía dưới
bướm ga. Chất lượng của hỗn hợp khí cháy (tỷ lệ nhiên liệu - không khí) phun qua
lỗ này được điều chỉnh bởi một vít chỉnh.
- Lỗ nhỏ nằm phía trên bướm ga còn có tác dụng đảm bảo cho chế độ chuyển tiếp
khi bướm ga bắt đầu mở. Lúc này, đường xăng chính vẫn chưa hoạt động nhưng

do mép trên của bướm ga đã nằm trên cả 2 lỗ nên hỗn hợp cháy sẽ được phun qua
cả 2 lỗ này đảm bảo cho động cơ bắt đầu tăng tải trước khi đường xăng chính bắt
đầu hoạt động.
* Chế độ tải trung bình
ở chế độ này bướm ga mở vừa phải và chỉ có đường xăng chính làm việc. Đường
xăng chính bao gồm một giclơ xăng, một giclơ khí và đường dẫn xăng. Giclơ là
một ống tiết lưu có tiết diện lưu thông được tính toán chính xác để khống chế lưu
lượng chất lỏng đi qua nó. Khi động cơ hoạt động ở chế độ tải trung bình, bướm
ga mở vừa phải, xăng bị hút qua giclơ chính theo đường dẫn rồi phun vào họng
khuyếch tán.

Để có được lượng xăng cấp vào trong các xi lanh đúng theo yêu cầu thì kích thước
của giclơ chính phải được xác định chính xác, hơn nữa để tránh cho hỗn hợp
không bị quá đậm đặc, người ta bố trí thêm một gíclơ khí. Đường xăng chính phải
được thiết kế sao cho khi động cơ hoạt động ở chế độ tải trung bình thì hỗn hợp
khí cháy phải là hỗn hợp loãng (
a
> 1) để đảm bảo tính tiết kiệm.
* Chế độ toàn tải:
- Đường xăng chính được thiết kế theo chế độ tiết kiệm nhiên liệu, nó luôn luôn
cấp hỗn hợp loãng (
a
> 1) cho động cơ. Do vậy, khi cần phát huy hết công suất của động cơ thì cần phải
có đường xăng bổ xung để tạo hỗn hợp cháy đủ đậm đặc đáp ứng cho yêu cầu tải ở
chế độ này. Đường xăng bổ xung này (còn được gọi là đường xăng làm giàu hỗn
hợp cháy) bao gồm một van thường được đóng chặt bởi lò xo, một giclơ và một
đường dẫn tới hoà vào đường xăng chính.

