
Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright
Niên Khóa 2007 - 2008
Các phương pháp phân tích Case study
Nguyễn Trọng Hoài 1
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Học kỳ Thu 2007
Các Phương Pháp Phân Tích
Nghiên cứu tình huống
GIÁ VÀNG: NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ DỰ BÁO
Ngày Phát: Thứ Sáu, ngày 30 tháng 11, 2007
Gần đây, giá vàng ở thị trường thế giới cũng như Việt Nam dao động bất thường làm
ngạc nhiên cả những chuyên gia kinh nghiệm nhất. Điều này làm nhiều người quan tâm
đến giá vàng nhiều hơn. Ở đó trước hết chính là cơ hội kinh doanh vàng và đồng thời là
khả năng biến động của các thị trường khác đi kèm, ví như thị trường bất động sản, thị
trường ngoại hối... Nắm bắt được chiều dao động của giá vàng là nắm bắt được khả năng
đầu tư kiếm lợi hay ít nhất có thể hạn chế một phần rủi ro do thị trường mang lại. Tuy
nhiên, rõ ràng là điều này không dễ. Tất cả còn chờ khả năng phân tích và dự báo của bạn
qua những nét chính về giá vàng mà chúng tôi điểm lại ở dưới đây:
Chỉ theo lý thuyết kinh tế vi mô đơn giản, giá của vàng, một loại hàng hóa, sẽ phụ thuộc
vào cung và cầu vàng trên thị trường. Về phía cầu, đó có thể là những yếu tố như thu
nhập, sở thích và kỳ vọng của người tiêu dùng, giá các hàng hóa có liên quan hay các yếu
tố mùa vụ. Trong đó, giá cả của các hàng hóa liên quan sẽ đặc biệt quan trọng trong
trường hợp mua vàng đầu tư. Trong trường hợp mua vàng vì tiêu dùng thì các yếu tố nhu
thu nhập, sở thích và mùa vụ lại trở nên quan trọng hơn. Về phía cung, vàng phụ thuộc
vào các yếu tố như khả năng khai thác, cấu trúc thị trường kinh doanh vàng và chính sách
dự trữ vàng của các quốc gia. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một đặc điểm quan trọng là vàng
là hàng hóa có thể sử dụng tiêu dùng đồng thời là đối tượng để đầu tư. Chính vì thế, biến
động giá vàng trong nhiều trường hợp rất khó lường, việc phân tích và dự báo chẳng qua
là thực hiện một việc “không thể không làm”.
Ở Việt Nam, lịch sử cho đến trước năm 1975 là lịch sử của chiến tranh. Chiến tranh nối
tiếp chiến tranh. Từ đó, người dân Việt Nam đã quen với việc chuẩn bị cho những tình
huống thay đổi bất ngờ. Một trong những thói quen quan trọng là cất giữ vàng, thứ tài sản
duy nhất được xem là bất biến với thời gian, trong bất kỳ chế độ nào, ngược lại với tiền.
Chính vì vậy mà thường khi đánh giá mức độ giàu nghèo, người ta chỉ đề cập đến vàng,
bên cạnh một tài sản quan trọng khác là đất đai. Khi đó, vàng được chôn giấu khắp nơi
trong nhà chứ không đem đầu tư như bây giờ. Cũng vì thế mà vàng trở thành chuẩn để đo
lượng giá trị những tài sản khác chẳng hạn như đất đai, nhà cửa. Do đó, không có gì khó
hiểu khi cho đến ngày nay nhiều giao dịch bất động sản vẫn cần có vàng thay vì tiền.
Đồng thời, việc tăng giá vàng có thể làm tăng giá các vật phẩm khác, thậm chí là rau củ

Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright
Niên Khóa 2007 - 2008
Các phương pháp phân tích Case study
Nguyễn Trọng Hoài 2
quả bán ở chợ. Tất cả như là một hiện tượng tâm lý ẩn trong tiềm thức của mỗi người
Việt.
Gần đây, tâm lý đối với vàng ít nhiều thay đổi. Các vật dụng đắt tiền khác như ôtô, điện
thoại, nhà, đất đai... thay thế vàng thể hiện sự giàu có. Trong thanh toán và tiết kiệm, đôla
(USD) và tiền đồng dần được sử dụng ngày càng phổ biến hơn. Đặc biệt là tiền USD
được xem như một phương tiện có thể thay thế vàng một cách trọn vẹn. Nhiều cơ hội đầu
tư mới hấp dẫn như mua nhà, mua đất, mua trái phiếu, gửi tiết kiệm tiền đồng (VND) với
lãi suất cao hay đầu tư vào cổ phiếu đã làm giảm giá trị của vàng trong tiềm thức của
người Việt. Tuy nhiên, vàng vẫn được sử dụng trong các giao dịch như bất động sản và
được xem như thứ nữ trang không thể thiếu trong những ngày trọng đại của người Việt,
chẳng hạn như cưới hỏi.
Kể từ sau giai đoạn Đổi Mới và mở cửa thương mại quốc tế, đồng USD dần có vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế ở Việt Nam. Ban đầu đồng tiền này chỉ dùng trong
thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, dần dần thì đồng USD đã trở thành một đồng tiền được
chấp nhận thanh toán cả ở trong nước, đặc biệt với các món hàng có xuất xứ từ nước
ngoài, nhà đất và ôtô. Đồng USD cuối cùng cũng được xem là như một đối tượng đầu tư
và cất trữ bên cạnh vàng. Đây có thể xem là một xu hướng chịu ảnh hưởng từ quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra. Lúc này, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đồng USD có thể
được xem là một lựa chọn có thể thay thế cho vàng hay các tích sản tài chính khác.
Vai trò của đồng USD phụ thuộc vào nền kinh tế của nước Mỹ, vốn chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ các chủ trương chính sách về kinh tế và chính trị của tổng thống Mỹ. Trong
những năm thuộc nhiệm kỳ của Bill Clinton (1992-11/2000), kinh tế Mỹ phát triển khá
ổn định cùng với chính sách đối ngoại ôn hòa khiến đồng USD rất mạnh. Nhu cầu đồng
USD tăng mạnh, trái hẳn với tình trạng trầm lắng của vàng. Ngược lại, kể từ khi Bush lên
nắm quyền (11/2000-nay), thâm hụt ngoại thương và chi phí khổng lồ cho chiến tranh ở
Afganistan va Iraq đã khiến kinh tế Mỹ lao đao. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục
đưa ra những điều chỉnh về lãi suất đồng USD khiến thị trường đồng tiền nay luôn trong
tình hồi hộp, tăng giảm thất thường. Đồng thời với sự ra đời và lớn mạnh dần của đồng
EURO, thị trường kim loại quý mà đặc biệt là vàng đã dần chiếm lấy sự quan tâm của
giới đầu tư và công chúng, những người ưa thích sự ổn định lâu dài.

Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright
Niên Khóa 2007 - 2008
Các phương pháp phân tích Case study
Nguyễn Trọng Hoài 3
Nguồn: http://www.galmarley.com/framesets/fs_period_charts.htm
Có thể thấy trên biểu đồ, đường biểu diễn giá vàng từ tháng 11/1996 là thời điểm chiến
thắng nhiệm kỳ II của ông Clinton với cam kết cân bằng ngân sách thâm thủng có từ thời
ông Bush “bố” để lại. Năm 1998, lần đầu tiên tổng thống Clinton thông báo việc ngân
sách bắt đầu thặng dư. Hai năm sau, ngày 27/09/2000, Clinton lập kỷ lục với thông báo
về khoản thặng dư ít nhất 230 tỷ USD, vượt kỷ lục thặng dư 122,7 tỷ USD vào năm 1998.
Trên biểu đồ, giá vàng ở mức thấp nhất dưới 270 USD/oz vào tháng 11/1999. Trong giai
đoạn từ 1988 đến 2006, giá vàng từ 1998-2000 là ở mức thấp nhất. Sau đó, bắt đầu từ
việc thắng cử của Bush vào tháng 11/2000, giá vàng thật sự lên giá không ngừng, trước
khi tăng với tốc độ chóng mặt cùng với việc chi tiêu ngân sách Mỹ từ thặng dư nay sang
bội chi đến gần 500 tỉ USD. Và từ sau vụ 11/9/2001 giá vàng cứ liên tục tăng, vượt qua
ngưỡng 300 USD/oz sau đó ít lâu, rồi 400 USD/oz tháng 11/2003.
Nguồn: http://www.galmarley.com/framesets/fs_period_charts.htm
Tin thế giới về sự đắc cử lần hai của ông Bush làm lòng tin vào đồng USD càng sụt giảm,
nhu cầu vàng gia tăng áp lực. Giá vàng thế giới tăng mạnh ở mức 440USD/oz, mức giá
cao nhất kế từ tháng 7/1988. Chính sách kinh tế của Tổng thống Bush là “hy sinh mục
tiêu chống lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng”, khác hẳn với chính sách “hy sinh mục
tiêu tăng trưởng cho mục tiêu chống lạm phát” của các đời tổng thống trước. Đồng thời là
việc giảm mạnh thuế (chủ yếu đối với người giàu có) với số tiền lên đến hàng chục tỉ
USD. Ngân sách của Mỹ từ chỗ thặng dư lớn thời Tổng thống Clinton đã chuyển sang
thâm hụt ngày càng tăng và đạt mức khổng lồ. Tổng nợ của nước Mỹ theo thông tin của
Cơ quan Thống kê Liên Hiệp Quốc đã lớn hơn cả GDP của nước Mỹ, trên 10 nghìn tỉ
USD. Nhập siêu của Mỹ lớn nhất thế giới với mức khổng lồ, lên đến 400 - 500 tỉ USD...
Chính sách của tổng thống Bush đang làm cho USD ngày càng giảm giá so với các đồng
tiền chủ yếu trên thế giới. 1 USD đã từng đổi được trên 1,2 euro, thì vào thời điểm sau tái
đắc cử chỉ đổi được dưới 0,78 euro; đã từng đổi được 120 yen Nhật (có lúc đổi được tới
300 yen), nhưng lúc đó cũng chỉ đổi được dưới 107 yen...
Edmund L.Andrews trên tờ NewYork Times ngày 16/11/2004 viết: “Có vẻ như đây đang
là cơn ác mộng kinh tế tồi tệ nhất vào đầu nhiệm kỳ II của Tổng thống Bush. Sa lầy trong
một cuộc chiến tranh không có dấu hiệu kết thúc nào, Mỹ đang đối diện với một sự thâm

Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright
Niên Khóa 2007 - 2008
Các phương pháp phân tích Case study
Nguyễn Trọng Hoài 4
thủng ngân sách ngày càng sâu sắc và các món nợ nước ngoài ngày càng phình tăng.
Đồng USD bổ nhào so với các tiền tệ mạnh khác. Mảng cuối thập niên này sẽ bị đe dọa
bởi nạn lạm phát, nạn thất nghiệp và nạn lãi suất ngày càng tăng. Với tỉ giá đồng USD
tuột những 40% so với tỉ giá đồng euro kể từ năm 2002, và vẫn đang tuột kể từ sau khi
ông Bush tái đắc cử, các nhà kinh tế học đang bàn về khả năng Mỹ phá sản vì nợ nước
ngoài sẽ dẫn đến sự sụp đổ của đồng USD và một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu”.
Alex Wallenwein viết trên Kitco.com ngày 12/11/2004, một website hàng đầu về thị
trường vàng: “Thế là chúng ta (tức Mỹ) nay đang trong một tình thế phải hạ giá đồng
USD để có thể sống còn. Một đồng USD hạ giá đem lại mối lợi kép: làm nhẹ đi sự thâm
thủng mậu dịch khủng khiếp và tăng tính cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Mỹ, từ đó hi
vọng sẽ tăng đầu tư vào các xí nghiệp xuất khẩu và tăng tỉ lệ lao động. Chính quyền Bush
và FED thừa rõ rằng mục đích của khối euro là lần hồi thu hút đầu tư nước ngoài và các
ngân hàng trung ương các nước chuyển sang đồng euro, từ bỏ đồng USD. Song chính
quyền Bush và FED còn hiểu rằng một sự thăng tiến như tên lửa của đồng euro sẽ làm
các nền kinh tế châu Âu chủ chốt “chìm tàu” trong chớp nhoáng. Và cứ thế đồng USD
được phép xuống giá thật nhanh sao cho các nền kinh tế trong khối sử dụng đồng euro
không tài nào chịu xiết”. Thực tế là vào ngày 16/11/2004 bộ trưởng tài chính 12 nước
châu Âu sử dụng đồng euro đã họp với nhau để bàn cách kềm giữ tỉ giá đồng euro so với
USD, đồng thời tố cáo Mỹ tiếp tục duy trì chính sách đồng USD yếu để sinh lợi.
Dù việc giảm giá USD là bị động hay chủ động, vàng vẫn tiếp tục đà tăng giá. Như tiến sĩ
Richard S. Appel viết trên www.financialinsights.org (8/4/2004): “Cuộc chiến tranh
chống khủng bố đã làm tăng thâm thủng ngân sách dự kiến hằng năm sẽ từ khoảng 500 tỉ
USD trở lên. Kế hoạch hiện nay là cứ việc thoải mái in tiền. Song dân chúng bắt đầu
nhận ra rằng chính phủ không thể cứ vô tư in tiền mà không phải trả giá. Hậu quả của bội
chi là lạm phát ở Mỹ và hậu quả không chỉ ở Mỹ. Người dân các nước sẽ từ bỏ đồng
USD trong khi dân Mỹ sẽ đổ xô đi mua vàng, điều đó sẽ càng nhận chìm thị trường thế
giới. Bất chấp những gì mà đa số người dân Mỹ đã được dạy dỗ, nhiều người trong số họ
vẫn rút tỉa từ lịch sử rằng mua vàng chính là để bảo vệ sức mua của mình như là một cái
phao cứu sinh trong trường hợp xảy ra một cơn bão tố tài chính và kinh tế”.
Tuy nhiên, cũng có thời điểm giá vàng vẫn cao bất chấp sự lên giá của đồng USD. Việc
Fred nâng lãi suất đồng USD cũng không hề làm giảm giá vàng. Chẳng hạn như vào ngày
12/05/2006, giá USD trên thị trường tự do vẫn ở mức cao, bán ra 16.400 đồng/USD, giá
bán của Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM là 15.976 đồng/USD. Mãi lực mua bán USD
trên thị trường tự do không lớn, một số người bán USD với số lượng lớn nhưng giới buôn
USD chỉ mua “nhỏ giọt” vì sợ bị lỗ. Nguyên nhân là do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED)
đã tăng lãi suất USD từ 4,75% lên 5%, lần tăng lãi suất thứ 16 liên tiếp của FED nhằm
kiểm soát lạm phát. Tuy vậy giá vàng vẫn tăng mạnh so với thời điểm trước đó. Nguyên
nhân là các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư trên thế giới tăng cường mua vàng vào do lo ngại
căng thẳng chính trị ở Trung Đông và do các loại nguyên liệu chính đều tăng giá.
Rõ ràng tin tức về những bất ổn chính trị ở các nền kinh tế lớn là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà đầu tư. Ngày 12/06/2006, tin thủ lĩnh Al Zarqawi của Al Qaeda bị tiêu diệt ở
Iraq đã giúp giá vàng thế giới giảm mạnh, chỉ còn 608,2 USD/ounce (tương đương 1,17

Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright
Niên Khóa 2007 - 2008
Các phương pháp phân tích Case study
Nguyễn Trọng Hoài 5
triệu đồng/chỉ), mức thấp nhất kể trong vòng 40 ngày. Trước đó, tin tức về việc sự kiện
hạt nhân Iran có thể giải quyết bằng đường ngoại giao cũng được xem là nhân tố hỗ trợ
trực tiếp đưa giá vàng xuống thấp. Ngược lại, vào ngày 05/07/2006, tin Bắc Triều Tiên
bắn tên lửa vào vùng biển Nhật Bản khiến giá vàng vượt mức 630 USD/oz. Trước đó,
hôm 8/3, tin Bắc Triều Tiên thử 2 tên lửa tầm ngắn cạnh biên giới Trung Quốc cũng đã
khiến vàng tăng giá thêm 1,5%.
Tin tức về khả năng tăng mức tiêu thụ ở các nước cũng là một phần quan trọng khác của
câu chuyện giá vàng. Việc tiêu thụ vàng ngày càng gia tăng trên phạm vi rộng thể hiện
tình trạng kinh tế đang khá lên ở nhiều nước, cùng với việc cải thiện thu nhập của người
dân, nhu cầu vàng trang sức cũng gia tăng. Trong đó, giới kinh doanh luôn quan tâm đến
những thị trường tiêu thụ vàng lớn như Ấn Độ, Trung Quốc và Nga. Từ lâu, Ấn Độ là
nước nhập khẩu và tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới. Hội đồng vàng thế giới (WGC) cho
biết nhu cầu vàng của đất nước hơn một tỷ dân này tăng 17,6%, lên tới 643 tấn năm 2004
so với 547 tấn năm 2003. Riêng trong quý I/2005, nhu cầu vàng của Ấn Độ tăng 72%, lên
243 tấn. Theo ước tính năm 2005 Ấn Độ đã nhập khẩu khoảng 700 tấn vàng. Trung Quốc
cũng là một trong những nước tiêu thụ nhiều vàng trên thế giới, năm 2005 nhu cầu vàng
tăng ở mức 20% so với mức tăng 13% năm 2004, khi mà Trung Quốc đã nhập khẩu
khoảng 230 tấn vàng, trong đó 90% số vàng nhập dùng cho trang sức. Những động thái
có liên quan hàng trăm tấn vàng của các nước này bao giờ cũng là yếu tố vô cùng quan
trọng với giá vàng.
Thời điểm từ đầu tháng 9 đến sau năm mới thường được xem là mùa kinh doanh vàng.
Vào khoảng thời gian này, khắp nơi trên thế giới là mùa lễ hội và khi đó nhu cầu vàng
thường gia tăng. Đối với nhiều nước phương Tây thì đó là lễ cưới, lễ Giáng Sinh, lễ
mừng năm mới. Ngoài ra, ở các nước Hồi giáo còn có nhiều lễ hội truyền thống khác.
Đặc biệt ở các nước Châu Á (trong đó có Việt Nam) đây còn là mùa mua sắm vàng và
trang sức để cất giữ sau một năm dành dụm. Gần đây nhất, liên tục trong các tháng cuối
năm 2005 và cả 2006, giá vàng tăng cao luôn có một phần nguyên nhân từ nhu cầu vàng
thành phẩm và vàng trang sức tăng cao.
Nhu cầu vàng cũng đến từ các nhà đầu tư trong khi đi tìm một phương tiện tài chính khả
dĩ để đối phó khả năng lạm phát cao ở một số nền kinh tế, đặc biệt ở nơi tiêu thụ dầu
thuộc nhóm đầu thế giới trong điều kiện giá dầu tăng. Cho đến khi chính phủ các nước
này tìm được giải pháp tốt hơn để giải quyết lạm phát thì vàng vẫn còn sức hút. John H.
Hill, chuyên gia phân tích thị trường kim loại quý của ngân hàng Citigroup tại Mỹ viết:
"Từ nhiều năm nay, các chuyên gia tư vấn tài chính luôn khuyên các nhà đầu tư nhỏ lẻ
nên dành lại một phần nhất định của cải của mình để mua thứ bảo hiểm đặc biệt này, dù
nó sinh lãi hay không". Và trong bối cảnh đồng USD giảm giá và giá dầu tăng thì để bảo
toàn vốn lâu dài, các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm tới việc mua vàng vào. Đặc biệt khi mà
những tin tức xấu về thâm thủng thương mại, thâm hụt tài khoản vãng lãi và cả những vụ
đổ bể tài chính ở Mỹ, nền kinh tế số 1 thế giới liên tục được đăng tải thì “độ nóng” của
thị trường vàng tăng nhanh. Hẳn các nhà đầu tư vẫn còn nhớ giá vàng đã từng lên đến
873 USD/oz vào tháng 1/1980 khi lạm phát ở Mỹ được công bố là 12,5%.
Bên cạnh đó, thông tin về việc tăng dự trữ của các ngân hàng trung ương các nước cũng
tác động mạnh đến nhu cầu vàng. Chẳng như khi tổng thống Putin đã khẳng định sẽ gia