
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
LƯƠNG THỊ NGỌC HÀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP DOANH NGHIỆP
CHẾ BIẾN CHẾ TẠO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 9.31.01.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội - Năm 2024

Công trình được hoàn thành tại: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Thu Hoài
TS. Vũ Thanh Liêm
Phản biện 1: ………………………………………………
…………………………………………………………….
Phản biện 2 ………………………………………………
…………………………………………………………..
Phản biện 3: ………………………………………………
……………………………………………………………..
(Ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, học vị)
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Viện họp tại Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 202..
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Thư viện Quốc Gia, Hà Nội

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Đổi mới sáng tạo (ĐMST) ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và là yếu tố nền tảng
trong các lý thuyết tăng trưởng hiện đại. Nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy ĐMST là yếu
tố then chốt đem lại sự phát triển thịnh vượng cho các quốc gia trên thế giới (Cirera, Xavier, and William F.
Maloney, 2017). Gần đây nhất, năm 2018, đại diện tiêu biểu nhất của trường phái tăng trưởng nội sinh, Paul
Romer, cùng với William D. Nordhaus, đã được vinh danh bằng giải thưởng Nobel kinh tế vì cống hiến của
ông trong việc “tích hợp đổi mới sáng tạo công nghệ vào phân tích kinh tế vĩ mô dài hạn” (Prize Committee,
2018). Giải thưởng này một lần nữa cho thấy vai trò của ĐMST đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và
là cơ sở để khuyến nghị chính sách cho những mô hình tăng trưởng bền vững lấy vai trò của doanh nhân và
nhà nghiên cứu là trọng tâm trong việc khám phá những ý tưởng mới nhờ vào động lực lợi nhuận.
Mô hình tăng trưởng nội sinh cũng cho thấy vai trò trọng tâm của doanh nghiệp (DN) trong hệ thống
ĐMST của các quốc gia và được dẫn dắt bởi động lực là lợi nhuận. Đầu tư của khu vực tư nhân vào R&D và
ĐMST trong khu vực tư nhân, DN là một nguồn quan trọng của tiến bộ công nghệ (Romer, 1986). Ngoài ra,
mô hình tăng trưởng nội sinh còn cho thấy vai trò hỗ trợ chính sách của chính phủ cũng được chứng minh
không chỉ đơn giản dừng lại ở việc đảm bảo quyền tài sản cho các DN và cá nhân. Tại Việt Nam, ĐMST nói
chung và ĐMST DN nói riêng ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ.
Đi đôi với tầm quan trọng của ĐMST DN, chính sách hỗ trợ ĐSMT trực tiếp hoặc gián tiếp được coi
là trọng tâm của chiến lược tăng trưởng tại các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển
(Cirera, Xavier và đồng sự (2020)). Để đưa ra những chính sách ĐMST nhằm hỗ trợ và thúc đẩy ĐMST của
DN, việc xác định bối cảnh và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMST của DN đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bên
cạnh đó, khái niệm ĐMST trong nghiên cứu cũng ngày càng được tiếp cận một cách toàn diện và hoàn chỉnh,
đòi hỏi hướng nghiên cứu đa chiều hơn so với trước đây.
Do đó, việc tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMST của DN Việt Nam trong
thời gian gần nhất là thực sự cần thiết về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Luận án này sẽ góp phần bổ sung
những khoảng trống nghiên cứu về các yếu tố đó trong trường hợp nghiên cứu ngành chế biến chế tạo (CBCT).
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần đưa ra những khuyến nghị chính sách phù hợp đối với DN và
chính phủ nhằm tháo gỡ các yếu tố ảnh hưởng để thúc đẩy ĐMST của DN.
2. Những điểm mới của luận án
2.1. Về lý luận
Luận án đã áp dụng cách tiếp cận đa chiều đến yếu tố ĐMST của DN, với bốn khía cạnh khác nhau:
ĐMST sản phẩm, ĐMST quy trình, ĐMST quản lý và ĐMST tiếp thị. Đây là cách tiếp cận phổ biến trên thế
giới tới ĐMST của DN tuy nhiên chưa được áp dụng nhiều ở Việt Nam.
Luận án đã xây dựng và áp dụng khung phân tích tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng, trong đó có một số
yếu tố mới như: thể chế, cạnh tranh và độc quyền. Những yếu tố này được nhiều nghiên cứu, đặc biệt là tại các
quốc gia đang phát triển, đánh giá có ảnh hưởng tới ĐMST của DN tuy nhiên chưa được nghiên cứu nhiều ở
Việt Nam.
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp, bao gồm phân tích định lượng và phân tích định
tính sử dụng số liệu sơ cấp và thứ cấp. Hai phương pháp nghiên cứu này bổ trợ lẫn nhau, giúp mang lại cái
nhìn đa chiều về các yếu tố ảnh hưởng đến ĐMST của DN.
2.2. Về thực tiễn
Luận án đã sử dụng thông tin và số liệu cập nhật đến năm 2023, bao gồm cả số liệu sơ cấp và số liệu
thứ cấp. Thông tin và số liệu được cập nhật từ các công bố mới nhất như Niên giám thông kê, Sách trắng doanh
nghiệp Việt Nam, Sách trắng công nghệ thông tin…
Đối với mô hình hồi quy, luận án là một trong số ít nghiên cứu tại Việt Nam sử dụng số liệu doanh
nghiệp dạng mảng không cân đối, trong đó một số doanh nghiệp không có đầy đủ dữ liệu qua tất cả các thời
điểm trong khoảng thời gian nghiên cứu. Dữ liệu này cho phép tăng số quan sát trong mô hình và tăng tính tin

2
cậy của kết quả hồi quy. Cụ thể, nghiên cúu sử dụng bộ số liệu Điều tra DN, đặc biệt là hợp phần “Sử dụng
công nghệ trong sản xuất đối với doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được
chọn mẫu” năm 2015-2018 với tổng số gần 16 nghìn quan sát.
Luận án cũng sử dụng kết quả khảo sát năm 2023 với 65 DN CNCBCT ở 11 tỉnh thành trên cả nước
so NCS thực hiện. Số liệu sơ cấp này là nguồn thông tin rất quan trọng để bổ sung cho kết quả từ mô hình hồi
quy.
Luận án đã cung cấp cơ sở đáng tin cậy để đề xuất khuyến nghị chính sách cho Nhà nước và DN nhằm
thúc đẩy ĐMST của DN tới năm 2030.
3. Cấu trúc của luận án
Luận án có bốn chương, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan các công trình và hướng nghiên cứu của luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về những yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo của
doanh nghiệp
Chương 3: Đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp ở Việt
Nam
Chương 4: Định hướng và giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp ở Việt Nam
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
1.1.1.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Một trong những nghiên cứu tiên phong về ĐMST nói chung và ĐMST của DN nói riêng là những
tác phẩm của nhà kinh tế học người Áo Joseph A. Schumpeter. Schumpeter được biết đến với những đóng góp
to lớn của ông cho lý thuyết kinh tế trong lĩnh vực đổi mới và khởi nghiệp. Nghiên cứu của Schumpeter về đổi
mới sáng tạo (ĐMST) nhấn mạnh vai trò của tín dụng trong phát triển kinh tế, phân phối thu nhập, hình thành
vốn và thúc đẩy ĐMST. Schumpeter nhận định rằng phát triển là quá trình đưa sáng kiến vào sản xuất, tuy
nhiên có thể trải qua giai đoạn hấp thụ, điều chỉnh hoặc suy thoái. Lợi nhuận từ bùng nổ và thua lỗ từ suy thoái
đều là một phần của quá trình phát triển (Schumpeter, 1934).
Bên cạnh các khía cạnh ĐMST ở trên, nhiều nghiên cứu còn quan tâm tới khía cạnh duy trì ĐMST
hay sự bền bỉ trong ĐMST của DN, điển hình như nghiên cứu của Triguero and Córcoles (2013). Theo các tác
giả, quyết định tiến hành ĐMST và duy trì ĐMST của DN phụ thuộc vào cả yếu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài. Mô hình đề xuất của tác giả cho thấy, xác suất trở thành DN thực hiện R&D hoặc/và DN duy trì cải tiến
bền bỉ được giải thích bởi các cơ hội công nghệ, điều kiện nhu cầu thị trường, khả năng thích hợp (các yếu tố
bên ngoài) và năng lực của công ty như cơ chế tổ chức, cơ chế đưa ra quuyết định… Sau khi kiểm soát sự
không đồng nhất và các điều kiện ban đầu chưa quan sát được và sử dụng mô hình probit hiệu ứng ngẫu nhiên
động do Wooldridge (2005) đề xuất, nhóm tác giả kết luận rằng một số yếu tố quyết định đến việc duy trì
ĐMST của DN tương tự như tác động tới quyết định thực hiện ĐMST. Trong số các yếu tố bên ngoài hay yếu
tố môi trường, tính năng động của thị trường ảnh hưởng đến cả quyết định ĐMST và việc duy trì đổi mới. Về
đặc điểm cụ thể của DN, quy mô và việc thuê ngoài cũng có tác động tích cực đến cả hai quá trình. Bên cạnh
đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hành vi đổi mới trong quá khứ rõ ràng mang tính quyết định đến việc
thực hiện ĐMST hoặc hoạt động R&D của DN trong hiện tại, lớn hơn tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài
khác.

3
1.1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, một số báo cáo và nghiên cứu về thực trạng ĐMST ở cấp DN được thực hiện từ những
năm 2010 đến nay với sự hỗ trợ và hợp tác của các cơ quan, tổ chức quốc tế.
Trong khuôn khổ dự án “Nghiên cứu khu vực DN” do Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch
(DANIDA) tài trợ, Báo cáo “Năng lực cạnh tranh ở cấp độ DN tại Việt Nam” được xuất bản hàng năm từ 2010
đến 2014. Bốn tập báo cáo năm 2010-2013 trình bày tóm tắt thông tin về điều tra năng lực cạnh tranh và công
nghệ ở cấp độ DN Việt Nam. Báo cáo tổng hợp được công bố vào năm 2014 đã thu thập và tổng kết kết quả
của bốn vòng khảo sát từ năm 2010 đến 2013, nhằm cung cấp sự hiểu biết chi tiết về động lực công nghệ, năng
suất và lợi nhuận trong lĩnh vực kinh doanh tư nhân đang phát triển tại Việt Nam (CIEM, GSO and UoC,
2013).
Bên cạnh nghiên cứu về năng lực cạnh tranh ở cấp độ DN ở trên, từ năm 2005 đến 2015, nghiên cứu
về đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam cũng cho thấy nhiều thông tin về thực trạng ĐMST của DN
ở Việt Nam. Báo cáo “Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam: Kết quả điều tra DN nhỏ và vừa năm
2015” được xây dựng dựa trên các thông tin về DN vừa và nhỏ được điều tra hai năm một lần từ năm 2005
đến 2015 tại 10 tỉnh thành của Việt Nam (CIEM, UoC and ILSSA, 2016). Báo cáo cung cấp tổng quan về một
số kết quả chính từ cuộc điều tra năm 2015, so sánh với kết quả của vòng điều tra 2013 và các vòng điều tra
trước đó. Một số nghiên cứu khác về hiện trạng ĐMST của DN ở Việt Nam có thể kể tới nghiên cứu của Phùng
Xuân Nhạ và Lê Quân (2013) và Nghiên cứu của Cirera và cộng sự (2021).
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
1.1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Joseph A. Schumpeter năm 1934 là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu
ảnh hưởng của các yếu tố đến ĐMST của DN. Schumpeter coi doanh nhân là người đổi mới, đóng vai trò tiên
quyết trong ĐMST. Doanh nhân thực hiện các kết hợp sản xuất mới để cải thiện kết quả, tạo ra thặng dư và
lợi nhuận. Ông cũng cho rằng độc quyền có tác động tích cực đến ĐMST, vì nó khuyến khích doanh nhân
chấp nhận rủi ro để đổi mới trong sản xuất. Mặt khác, cũng theo Schumpeter, các DN ĐMST này sẽ trở thành
hình mẫu cho các doanh nhân khác noi theo và sự xuất hiện của nhiều doanh nhân mới khiến lợi nhuận kinh
doanh do ĐMST giảm dần trong vòng xoáy của cạnh tranh và tạo ra trạng thái cân bằng mới.
Một trong những nghiên cứu đầu tiên tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến ĐMST của DN là nghiên
cứu của Mohr (1969). Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô tổ chức được chứng minh là một chỉ số hiệu quả
để phản ánh nguồn lực sẵn có để các sở y tế địa phương áp dụng các chương trình đổi mới. Ngược lại một số
nghiên cứu khác lại chưa tìm ra được mối quan hệ rõ ràng giữa quy mô của DN với mức độ ĐMST của DN
(Chandy và Tellis (1998) và Wan và cộng sự (2005)).Tương tự như yếu tố quy mô, mức độ giàu có hay sự sẵn
có của các nguồn lực được cho là có tác động tích cực tới ĐMST bởi nó cho thấy khả năng hay sự sẵn sàng về
nguồn lực cho ĐMST. Những yếu tố này được cho là đặc biệt quan trọng tại các quốc gia đang phát triển bởi
các công ty lớn hơn được hưởng lợi ích từ quy mô kinh tế và có khả năng tiếp cận nhiều hơn tới các nguồn tài
chính. Kết luận này cũng được khẳng định trong các nghiên cứu của Pamukçu (2003), Yildizoglu, Rahmouni
và Ayadi (2010) và Alleyne và cộng sự (2017).
Bên cạnh yếu tố quy mô và nguồn lực, nguồn lực dư thừa cũng được cho là có ảnh hưởng tới quyết
định tiến hành ĐMST của DN. Tuy nhiên, tác động của nguồn lực dư thừa không thống nhất giữa các nghiên
cứu. Nghiên cứu của Mishina và cộng sự (2004) cho thấy rằng tình trạng dư thừa về lao động làm tăng khả
năng mở rộng thị trường nhưng làm chậm việc mở rộng sản phẩm trong ngắn hạn. Một số học giả cho rằng
việc có quá nhiều nguồn lực dư thừa có thể dẫn tới việc các công ty khó khăn trong việc huy động các nguồn
lực cho hoạt động ĐMST bởi các nguồn lực cần thiết đã bị kìm giữ trong nguồn lực dư thừa này (Fama, 1980;
Katila and Scott, 2005). Hơn nữa, nguồn lực dư thừa cao cho thấy mức độ chấp nhận rủi ro thấp hơn của chủ
sở hữu/người quản lý, do đó, không khuyến khích họ tìm kiếm cơ hội kinh doanh để tận dụng nguồn lực
(Singh, 1986).
Một nhân tố khác cũng được cho là có tác động tới ĐMST của DN là yếu tố loại hình sở hữu. Nghiên
cứu của Megginson (2005) và Lin, Lin và Song (2010) cho thấy so với các công ty sở hữu nhà nước (SOE),
công ty sở hữu tư nhân và công ty nước ngoài đều tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động R&D cũng như có kết
quả R&D cao hơn. Nguyên nhân có thể do mục tiêu ưu tiên của DNNN cũng như nhà quản lý của DNNN là

