BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ DIỄM TRANG
CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN
TÀI CHÍNH CỦA CÁC QUỐC GIA Ở CHÂU Á –
THÁI BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Diễm Trang
CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
CỦA CÁC QUỐC GIA Ở CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã ngành: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Vũ Thị Minh Hằng
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các
số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa từng được
công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Học viên
Lê Thị Diễm Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Tóm tắt – Abstract
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1.GIỚI THIỆU ............................................................................................ 1
1.1. Đặt vấn đề ........................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 2
1.4. Đối tượng và phạm vi phân tích ......................................................................... 3
1.5. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 3
1.6. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 4
CHƯƠNG 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU TRƯỚC ĐÂY .............................................. 6
2.1. Tổng quan lý thuyết ............................................................................................ 6
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của tài chính ............................................................ 6
2.1.2. Thị trường tài chính ..................................................................................... 9
2.1.3. Phương pháp và chỉ số đo lường phát triển của thị trường tài chính ......... 12
2.1.4. Lý thuyết trung gian tài chính .................................................................... 17
2.1.5. Giả thuyết cung dẫn dắt – cầu phụ thuộc ................................................... 19
2.1.6. Lý thuyết hiệu ứng Fisher .......................................................................... 20
2.2. Nghiên cứu thực nghiệm .................................................................................. 21
CHƯƠNG 3.MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................. 35
3.1. Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 35
3.2. Giả thuyết hồi quy ............................................................................................ 36
3.2.1. Tăng trưởng kinh tế ................................................................................... 36
3.2.2. Lạm phát .................................................................................................... 37
3.2.3. Đầu tư......................................................................................................... 38
3.2.4. Tiết kiệm .................................................................................................... 39
3.2.5. Chi tiêu chính phủ ...................................................................................... 40
3.2.6. Độ mở thương mại ..................................................................................... 41
3.2.7. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................................... 42
3.2.8. Chất lượng thể chế ..................................................................................... 44
3.3. Dữ liệu phân tích .............................................................................................. 46
3.4. Phương pháp phân tích ..................................................................................... 48
CHƯƠNG 4.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 50
4.1. Thống kê mô tả ................................................................................................. 50
4.2. Phân tích vấn đề tự tương quan và phương sai thay đổi .................................. 58
4.3. Kết quả ước lượng ............................................................................................ 59
4.3.1. Biến phụ thuộc CAP .................................................................................. 60
4.3.2. Biến phụ thuộcTURN ................................................................................ 67
CHƯƠNG 5.KẾT LUẬN ............................................................................................. 74
5.1. Kết luận ............................................................................................................. 74
5.2. Hàm ý chính sách ............................................................................................. 75
5.3. Hạn chế đề tài ................................................................................................... 79
5.4. Hướng nghiên cứu sau này ............................................................................... 80
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ
Thị trường tài chính TTTC
Thị trường chứng khoán TTCK
Tổng sản lượng quốc gia GDP
Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá APT
Mô hình định giá tài sản vốn quốc tế ICAPM
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát FGLS khả thi
Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất OLS
Trung Đông và Bắc Phi MENA
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ......................................... 30
Bảng 3.1. Tóm tắt đo lường và kỳ vọng dấu của các biến ............................................. 45
Bảng 3.2. Chi tiết các quốc gia được phân tích ............................................................. 47
Bảng 4.1. Giá trị thống kê của các biến trong mô hình phân tích .................................. 51
Bảng 4.2. Mức độ phát triển thị trường chứng khoán giữa các quốc gia ....................... 53
Bảng 4.3. Mối tương quan đơn biến giữa các biến ........................................................ 56
Bảng 4.4. Phân tích hệ số VIF ....................................................................................... 57
Bảng 4.5. Kết quả phân tích tự tương quan và phương sai thay đổi .............................. 59
Bảng 4.6. Kết quả hồi quy phát triển tài chính đại diện bởi phát triển thị trường chứng
khoán CAP ..................................................................................................................... 61
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy phát triển tài chính đại diện bởi phát triển thị trường chứng
khoán TURN .................................................................................................................. 68
TÓM TẮT
Xuất phát từ mục tiêu phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát triển tài
chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017, luận văn sử dụng số liệu của 26 quốc gia
đã và đang phát triển trong giai đoạn 2000 – 2017. Hơn thế nữa, sau khi sử dụng
phương pháp ước lượng FGLS, luận văn tìm thấy rằng các yếu tố đưa vào mô hình
nghiên cứu dường như đều có tác động đáng kể đến mức độ phát triển thị trường chứng
khoán của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017.
Cụ thể, tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm, đầu tư nội địa, chi tiêu chính phủ, độ mở
thương mại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng bộ máy tổ chức quốc gia,
mức độ tham nhũng đều có tác động cùng chiều và đáng kể đến mức độ phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái
Bình Dương ở mức ý nghĩa 10%. Ngược lại, lạm phát lại được tìm thấy có tác động
ngược chiều và đáng kể đến mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc
gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương ở mức ý nghĩa 10%.
Từ khóa: phát triển tài chính, thị trường chứng khoán, Châu Á, Thái Bình
Dương, FGLS.
ABSTRACT
From the purpose of analyzing the influence of factors on the financial
development of developed and developing countries in Asia and the Pacific during the
period from 2000 to 2017, thesis uses dataset including 26 developed and developing
countries in the period 2000 - 2017. Moreover, using the FGLS method, dissertation
finds that the factors included in the research model have a significant effect on the
level of stock market development of developed and developing countries in Asia and
the Pacific in the period 2000 - 2017.
Specifically, economic growth, savings, domestic investment, government
spending, trade openness, foreign direct investment flows, Bureaucracy Quality, and
corruption have significant effects on the level of stock market development of
developed and developing countries in Asia and the Pacific at 10% significance level.
In contrast, inflation have a negative and significant impact on the level of stock
market development of developed and developing countries in Asia-Pacific at a 10%
significance level.
Key words: financial development, stock market development, Asia, Pacific,
FGLS
1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Sự phát triển tài chính được xem như là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của
các quốc gia trên thế giới (Ben Naceur và các cộng sự, 2014).Thật vậy, mức phát triển
và độ sâu (depth) của ngành tài chính là yếu tố quan trọng được dùng để phân biệt giữa
các quốc gia phát triển và đang phát triển. Hệ thống tài chính bao gồm các tổ chức
trung gian tài chính đóng vai trò then chốt trong việc điều chuyển vốn giữa các đối
tượng có nhu cầu về vốn và các đối tượng có vốn nhàn rỗi và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, việc thiếu các biện pháp quản trị rủi ro có thể làm gia tăng rủi ro
phá sản đối với các tổ chức trung gian tài chính và sau đó là sự suy giảm trong giá trị
của các tài sản tài chính, kết quả là xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cho nên có
thể thấy rằng hệ thống tài chính là cần thiết đối với nền kinh tế bởi vì hệ thống tài
chính có trách nhiệm phân bổ nguồn vốn của nền kinh tế. Chẳng hạn như Levine
(2005) đã cho rằng tổ chức trung gian tài chính hoạt động tốt thì có thể có tác động tích
cực đến sự phát triển kinh tế bởi việc làm giảm chi phí giao dịch thông qua bốn kênh
chính: (i) nâng cao hiệu quả của việc điều chuyển vốn giữa các đối tượng có nhu cầu
về vốn và các đối tượng có vốn nhàn rỗi, (ii) cải thiện việc phân bổ các nguồn lực
(thông qua đa dạng hóa rủi ro, quản trị thanh khoản, theo dõi và giám sát), (iii) tăng tỷ
lệ tiết kiệm và (iv) thúc đẩy phát triển thị trường và các công cụ cho phép chia sẻ rủi ro
và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây về khủng hoảng tài chính đã chỉ ra ảnh
hưởng tiêu cực của việc tự do hóa tài chính vì nó dẫn đến việc cho vay quá mức và rủi
ro tiềm tàng sẽ gia tăng bởi vì khả năng giám sát của các cơ quan quản lý sẽ bị hạn chế.
Trong suốt giai đoạn bùng nổ đầu tư (investment booms), các ngân hàng thường không
2
thể xác định tốt chất lượng tín dụng mà ngân hàng đang cấp cho các khách hàng, và sẽ
làm cho các ngân hàng phải đối mặt với rủi ro phá sản khi các khách hàng không đủ
khả năng chi trả các khoản lãi và nợ vay (Ben Naceur và các cộng sự, 2014). Mặc dù
một vài nghiên cứu đã chỉ ra các rủi ro tiềm tàng trong hệ thống tài chính, nhưng một
số nhà nghiên cứu (Schumpeter, 1911; Gurley và Shaw, 1967; Goldsmith, 1969;
Mckinnon, 1973) cho rằng cần phải thiết lập một hệ thống tài chính hoạt động tốt để
dẫn dắt nền kinh tế phát triển và tăng trưởng ở một số quốc gia, bao gồm cả các quốc
gia đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương. Từ đây có thể thấy rằng sự phát triển
tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển. Do đó, đây chính là lý do lựa chọn đề tài “Các yếu tố quyết định sự phát triển tài
chính của các quốc gia ở Châu Á – Thái Bình Dương” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến sự
phát triển tài chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình
Dương trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu này, đề tài tiến hành trả lời các câu hỏi
nghiên cứu sau:
Các yếu tố trong mô hình nghiên cứu có tác động đáng kể đến sự phát triển tài
chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương hay
không? Nếu có thì các tác động này là tích cực (+) hay tiêu cực (-)?
3
Trong số các yếu tố này, yếu tố nào là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy sự
phát triển tài chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình
Dương?
1.4. Đối tượng và phạm vi phân tích
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm (1) các quốc gia phát triển và đang phát
triển ở Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2000 – 2017, cụ thể, luận văn sử
dụng số liệu của 26 quốc gia và (2) thị trường tài chính được phân tích theo hướng thị
trường chứng khoán.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm sự phát triển tài chính được đại diện
bởi 02 chỉ tiêu: (1) tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP và (2) tỷ lệ
giá trị giao dịch chứng khoán trên GDP. Ngoài ra các yếu tố vĩ mô bao gồm tăng
trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ lệ tiết kiệm nội địa, tỷ lệ đầu tư nội địa, quy mô chính phủ,
độ mở cửa thương mại, dòng vốn chảy vào và chất lượng thể chế cũng là các đối tượng
nghiên cứu của đề tài này.
1.5. Mô hình nghiên cứu
Từ mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu được đề cập, luận văn thực hiện hồi quy
phương trình nghiên cứu sau dựa vào mô hình nghiên cứu mà Ben Naceur và các cộng
sự (2014) đã sử dụng khi nghiên cứu sự phát triển tài chính ở khu vực Trung Đông –
Bắc Phi (MENA).
𝑆𝐷𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 ∗ 𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑖𝑡 + 𝛽2 ∗ 𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡 + 𝛽3 ∗ 𝑆𝐴𝑉𝑖𝑡 + 𝛽4 ∗ 𝐼𝑁𝑉𝑖𝑡 + 𝛽5 ∗
𝐺𝑂𝑉𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡 + 𝛽6 ∗ 𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖𝑡 + 𝛽7 ∗ 𝐶𝐴𝑃𝐹𝐿𝑂𝑊𝑖𝑡 + 𝛽8 ∗ 𝐿𝐴𝑊𝑖𝑡 + 𝛽9 ∗ 𝐵𝑈𝑅𝑄𝑈𝐴𝐿𝑖𝑡 +
(1) 𝛽10 ∗ 𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖𝑡 + 𝛽11 ∗ 𝐶𝑂𝑅𝑅𝑈𝑃𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
Trong đó:
4
𝑆𝐷𝑖𝑡 là sự phát triển thị trường chứng khoán được đại diện bởi (1) giá trị vốn
hóa thị trường chứng khoán trên GDP (CAP) và (2) giá trị giao dịch chứng khoán trên
GDP (TURN)
𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑖𝑡 là tăng trưởng kinh tế được tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị
GDP của quốc gia ở năm t so với năm t – 1.
𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡 là lạm phát được tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị chỉ số giá tiêu
dùng của quốc gia ở năm t so với năm t – 1.
𝑆𝐴𝑉𝑖𝑡 là tiết kiệm nội địa được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP.
𝐼𝑁𝑉𝑖𝑡 là đầu tư nội địa được tính bởi tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP.
𝐺𝑂𝑉𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡là quy mô chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP.
𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖𝑡 là độ mở thương mại được tính bởi tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu
trên GDP.
𝐶𝐴𝑃𝐹𝐿𝑂𝑊𝑖𝑡 là dòng vốn chảy vào được tính bởi tỷ lệ dòng vốn chảy vào trên
GDP.
𝐿𝐴𝑊𝑖𝑡 đo lường mức độ luật pháp của quốc gia
𝐵𝑈𝑅𝑄𝑈𝐴𝐿𝑖𝑡 đo lường mức độ chất lượng bộ máy tổ chức của quốc gia
𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖𝑡 đo lường mức độ trách nhiệm dân chủ của quốc gia
𝐶𝑂𝑅𝑅𝑈𝑃𝑖𝑡 đo lường mức độ tham nhũng của quốc gia
1.6. Nội dung nghiên cứu
5
Luận văn thạc sỹ bao gồm 05 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương 2.Tổng quan tài liệu trước đây
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương 5. Kết luận
6
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Tổng quan lý thuyết
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của tài chính
Tài chính ra đời trên cơ sở sự tồn tại nền kinh tế hàng hoá và sự xuất hiện của
tiền tệ. Trong nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, sản phẩm sản xuất ra để bán. Hoạt động
bán hàng hoá hình thành nên thu nhập cho người sản xuất hàng hoá. Khoản thu nhập
này chính là giá trị của hàng hoá đem bán tồn tại dưới dạng tiền tệ. Các khoản thu nhập
này lại trở thành nguồn hình thành nên những quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế tham
gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất hàng hoá. Có thể mô tả khái quát quá
trình hình thành các quỹ tiền tệ như sau:
Khoản thu nhập từ việc tiêu thụ hàng hoá sẽ được phân chia cho các chủ thể
tham gia vào quá trình sản xuất:
⎯ Phần bù đắp những chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất hàng hóa
hoặc tiến hành dịch vụ như chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí khấu hao tài sản cố
định, chi phí cho các dịch vụ mua ngoài... Phần thu nhập này sẽ hình thành nên quỹ
tiền tệ của các chủ thể cung cấp các yếu tố sản xuất đầu vào.
⎯ Phần trả cho hao phí sức lao động của những người lao động hình thành
nên các quỹ tiền tệ của những chủ thể bán sức lao động.
⎯ Phần còn lại sau khi đã trang trải cho các chi phí trên là thu nhập của
những chủ thể đóng góp vốn ban đầu cho quá trình sản xuất.
Cần lưu ý là không phải mọi sản phẩm sản xuất ra đều là nguồn hình thành nên
các quỹ tiền tệ. Chỉ những sản phẩm nào được thị trường chấp nhận, tức là có thể tiêu
7
thụ trên thị trường, thì giá trị của chúng mới được chuyển sang hình thái tiền tệ để hình
thành nên các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Quá trình phân phối giá trị các hàng hoá sản xuất ra không dừng lại ở đây. Các
chủ thể kinh tế sau khi nhận được phần thu nhập của mình có thể tiếp tục phân chia để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và tích lũy của mình. Những người có nhu cầu tiêu dùng
nhiều hơn so với thu nhập nhận được sẽ có nhu cầu vay mượn thu nhập của người khác
để tiêu dùng và hy vọng có thể hoàn trả lại phần thu nhập đi vay đó từ khoản thu nhập
trong tương lai của mình. Những người cho vay ở đây chính là những chủ thể kinh tế
có nhu cầu tiêu dùng ít hơn thu nhập hiện tại và do đó dôi ra một phần để cho vay. Như
vậy là các chủ thể kinh tế này đã phân chia quỹ tiền tệ của mình thành một phần để tiêu
dùng và một phần để tích lũy. Phần tích lũy đó được dùng để cho vay kiếm lời. Còn
các chủ thể kinh tế đi vay để phục vụ nhu cầu tiêu dùng hiện tại thì trong tương lai sẽ
phải dành bớt một phần thu nhập để trả nợ, dẫn đến việc phân chia quỹ tiền tệ sẽ nhận
được trong tương lai thành một phần để tiêu dùng và một phần để trả nợ. Những hoạt
động phân phối này còn được gọi là phân phối lại nhằm phân biệt với hoạt động phân
phối lần đầu diễn ra trong quá trình tái sản xuất hàng hoá.
Hoạt động phân phối lần đầu và phân phối lại giá trị của các hàng hoá dưới hình
thái tiền tệ dẫn đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong
nền kinh tế chính là các hoạt động tài chính.
Trước khi xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế hoạt động theo mô hình
kinh tế tự cung tự cấp, do vậy hoạt động phân phối các sản phẩm tạo ra chỉ diễn ra
trong phạm vi hẹp, kém phát triển. Chỉ khi xuất hiện chuyên môn hóa trong sản xuất,
dẫn đến sự hình thành nền kinh tế hàng hoá, làm cho hoạt động sản xuất phát triển thì
nhu cầu phân phối sản phẩm tạo ra mới trở nên cấp thiết. Khi mà nền kinh tế hàng hoá
không chỉ dừng ở chuyên môn hóa trong việc sản xuất từng hàng hoá mà còn chuyên
8
môn hóa trong cả việc cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất thì hoạt động phân
phối mới thực sự phát triển. Hoạt động sản xuất với quy mô lớn khiến cho không một
chủ thể kinh tế nào có thể tự mình tạo ra đầy đủ các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá
trình sản xuất. Để sản xuất ra hàng hoá, anh ta phải cần đến nguyên nhiên vật liệu, máy
móc thiết bị, các dịch vụ liên quan, cần đến sức lao động để tiến hành sản xuất. Và do
vậy, khi hàng hoá được tạo ra, sẽ xuất hiện nhu cầu phân phối giá trị các hàng hoá đó
cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất.
Quá trình phân phối sẽ rất khó khăn nếu thiếu sự xuất hiện của tiền tệ. Trong
nền kinh tế hàng hoá phát triển, hoạt động phân phối phải được tiến hành chủ yếu dưới
hình thức giá trị chứ không thể chỉ dưới hình thức hiện vật như trước kia. Tiền tệ với
chức năng phương tiện trao đổi và phương tiện cất trữ giá trị đã làm cho quá trình phân
phối diễn ra được dễ dàng. Thay vì phân phối các sản phẩm sản xuất ra để rồi các chủ
thể thực hiện việc trao đổi để có được những hàng hoá mình cần tiêu dùng, các sản
phẩm sản xuất ra trước tiên được chuyển hóa thành tiền tệ thông qua hoạt động bán
hàng hoá trên thị trường để thu về một lượng giá trị tương đương dưới dạng tiền rồi
mới phân phối cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất. Với tiền tệ đóng vai trò
là các phương tiện trao đổi trong tay, các chủ thể kinh tế có thể dễ dàng đổi lấy được
những hàng hoá mình cần. Hơn nữa, chức năng phương tiện cất trữ giá trị của tiền tệ
làm cho quá trình phân phối lại giá trị các sản phẩm sản xuất ra cho các nhu cầu tiêu
dùng và tích lũy của các chủ thể kinh tế cũng dễ dàng hơn nhiều. Thay vì tích lũy hàng
hoá, các chủ thể kinh tế chỉ phải tích lũy tiền tệ, thay vì đi vay hàng hoá mình cần, các
chủ thể kinh tế chỉ cần đi vay tiền rồi mua lấy hàng hoá mình cần. Chính vì vậy, có thể
nói sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ là điều kiện tiên quyết cho
sự ra đời của tài chính.
Cùng với nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, một tác nhân hết sức quan trọng cho sự
phát triển của tài chính là sự ra đời của nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị
9
của mình đã buộc các chủ thể trong nền kinh tế phải đóng góp một phần thu nhập, của
cải của mình để hình thành một quỹ tiền tệ tập trung được gọi là quỹ Ngân sách nhà
nước nhằm phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, bao gồm chi tiêu để duy trì
sự hoạt động của bộ máy nhà nước và chi tiêu để phục vụ việc thực hiện các chức năng
quản lý vĩ mô của nhà nước. Quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung này
làm hình thành nên các hoạt động phân phối diễn ra giữa nhà nước và các chủ thể kinh
tế khác trong xã hội. Ví dụ hoạt động nộp thuế của các doanh nghiệp, dân cư cho nhà
nước, hoặc hoạt động tài trợ, trợ cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp, dân cư...
Như vậy, quá trình tạo lập và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước đã làm nảy sinh các
hoạt động tài chính giữa các chủ thể kinh tế với Nhà nước, làm cho các hoạt động tài
chính thêm phát triển đa dạng.
Tóm lại, sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước được coi là
những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính.
2.1.2. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi, mua
bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và
công cụ tài chính nhất định, hay theo cách hiểu khái quát nhất thì đó là nơi diễn ra quá
trình trao đổi mua bán các công cụ tài chính và công cụ thanh toán. Bản chất của thị
trường tài chính là sự luân chuyển vốn, giao lưu vốn trong xã hội.
Cấu trúc thị trường tài chính có thể được hình thành từ nhiều thành phần khác
nhau, tuy nhiên có thể căn cứ vào 3 thành phần chính là thời gian sử dụng nguồn tài
chính huy động; sự luân chuyển các nguồn tài chính và tính chất pháp lý của thị trường
tài chính.
10
Thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động hay chính là thời gian luân chuyển
vốn bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là thị trường được
hình thành trước do ban đầu kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết
kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là ngắn hạn. Do đó đặc thù của thị trường tiền tệ là thị
trường chỉ có các công cụ ngắn hạn (có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm).
Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm thời thiếu
hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì
lại là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi (có thể là do chưa dùng tới vốn hoặc
đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do vậy họ tranh thủ chuyển nhượng quyền sử dụng các
khoản vốn nhàn rỗi của họ trong thời gian ngắn để hưởng lợi từ những giao dịch đó.
Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ an toàn tương đối
cao, nhưng lại đồng nghĩa với mức lợi tức thấp.
Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô lớn nên
bên cho vay thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính; còn bên vay
vốn thường là Chính phủ, các công ty và ngân hàng.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu
tư xuất hiện, đặt viên gạch nền tảng cho thị trường vốn ra đời. Nếu như thị trường tiền
tệ là thị trường chỉ có các công cụ ngắn hạn thì thị trường vốn là thị trường hữu hiệu
diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn (có thời gian luân chuyển vốn trên một
năm) như cổ phiếu hay trái phiếu. Thị trường này cung cấp vốn cho các khoản đầu tư
dài hạn các doanh nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình. Đặc thù của thị trường
này là thời gian luân chuyển vốn trên thị trường dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ
nên song hành cùng với mức lợi tức kỳ vọng cao thì độ rủi ro cũng cao hơn.
Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, bên cạnh việc huy động vốn dài hạn thông
qua các định chế tài chính trung gian thì chính phủ và các doanh nghiệp còn tự huy
11
động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Động thái này kéo theo hệ quả tất yếu là
nhu cầu mua bán chứng khoán dần xuất hiện trên thị trường. Chính vì thế mà thị
trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp
ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán.
Bên cạnh thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được thì sự luân chuyển
các nguồn tài chính cũng là một trong những thành phần quan trọng cấu thành nên thị
trường tài chính bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Có thể hiểu một cách
đơn giản thì thị trường sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Sau
đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không
làm ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trường này mà lượng vốn
đầu tư cho nền kinh tế. Hoạt động giao dịch ở thị trường này thường được thực hiện
theo hình thức bán buôn giữa nhà phát hành là bên cần huy động vốn (công ty, các tổ
chức tài chính, Chính phủ,..) và các nhà đầu tư lớn (các công ty chứng khoán, ngân
hàng đầu tư, công ty bảo hiểm,…). Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp
thường được tiến hành thông qua trung gian là các ngân hàng.
Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành
trên thị trường sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Khi diễn ra hoạt động
mua bán chứng khoán trên thị trường này thì chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng
khoán chứ không gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Có thể thấy rằng thị trường sơ
cấp là thị trường cơ sở, là nền tảng cho thị trường thứ cấp hoạt động, nó tạo hàng hoá
để mua bán trên thị trường thứ cấp.
Bên cạnh thời gian sử dụng và sự luân chuyển các nguồn tài chính thì căn cứ
pháp lý cũng là một mảnh ghép trong bức tranh về thị trường tài chính. Căn cứ vào tính
chất pháp lý thì có thể dễ dàng nhận thấy rằng thị trường bao gồm thị trường tài chính
chính thức và không chính thức. Sự khác biệt rõ rệt của hai thị trường đó là việc áp
12
dụng và tuân thủ theo các nguyên tắc của các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu như thị
trường tài chính chính thức là một nhánh của thị trường tài chính, các chủ thể tham gia
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ trên cơ sở mọi hoạt động, giao dịch được thực hiện
theo những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định rõ ràng trong các văn bản pháp
luật. Bên cạnh đó, bản thân của thị trường tài chính không chính thức đã là thị trường
tài chính riêng biệt, các hoạt động giao dịch và các chủ thể không bị bó hẹp trong
những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định.
Thị trường tài chính (TTTC) có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của
mỗi quốc gia. Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, cần phải có một TTTC ổn định,
hiệu quả, có thể thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,
vấn đề quan trọng hơn là đánh giá được mức độ phát triển của TTTC, xác định được
khoảng cách so với các nước trong khu vực và nhận diện những rủi ro thách thức để có
giải pháp phát triển phù hợp.
2.1.3. Phương pháp và chỉ số đo lường phát triển của thị trường tài chính
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sự phát triển tài chính, từ đó hình thành các
cách tiếp cận khác nhau khi đánh giá hiện trạng, sự phát triển của hệ thống tài chính
nói chung và của TTTC nói riêng. Levine (2005) định nghĩa, sự phát triển tài chính là
sự cải thiện của hệ thống tài chính trong việc thực hiện các chức năng bao gồm: (i)
Tích lũy tiết kiệm; (ii) Phân bổ vốn cho đầu tư sản xuất; (iii) Giám sát các khoản đầu
tư; (iv) Phân tán rủi ro; (v) Trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Về mặt lý thuyết, tồn tại mối
quan hệ tích cực giữa mức độ phát triển và hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính
(Greenwoord và Jovanovic, 1990).Các nghiên cứu thực nghiệm dựa trên lý thuyết này
thường sử dụng chỉ tiêu quy mô thị trường là yếu tố quyết định trọng yếu tới sự phát
triển tài chính.
13
Theo cách tiếp cận thứ hai, phát triển tài chính được coi là sự kết hợp của nhiều
nhân tố khác nhau. Hartmann và các cộng sự (2007) đã định nghĩa sự phát triển tài
chính là một quá trình đổi mới tài chính và cải thiện thể chế cũng như tổ chức trong hệ
thống tài chính, làm giảm thông tin bất đối xứng, hoàn thiện các chức năng của các thị
trường và tăng khả năng ký kết hợp đồng, giảm chi phí giao dịch và tăng cạnh tranh.
Theo cách tiếp cận thứ ba, Svirydzenka (2016) đã định nghĩa sự phát triển tài
chính là sự kết hợp chiều sâu của thị trường (bao gồm quy mô và tính thanh khoản),
khả năng tiếp cận thị trường (bao gồm khả năng mà các cá nhân và tổ chức tiếp cận các
dịch vụ tài chính) và hiệu suất (bao gồm khả năng các tổ chức cung cấp dịch vụ tài
chính với chi phí thấp nhưng thu nhập bền vững và mức độ hoạt động của các thị
trường vốn). Cách tiếp cận đa phần này dựa trên ma trận đặc điểm của hệ thống tài
chính được đưa ra bởi Čihák và các cộng sự (2012). Theo đó cần phải xây dựng một bộ
chỉ số có tính đến các mặt tác động khác nhau tới sự phát triển của TTTC để phản ánh
đầy đủ bản chất và đánh giá được sự phát triển của thị trường. Các nhà nghiên cứu sử
dụng các nhóm chỉ số định lượng sau.
2.1.3.1. Bộ chỉ số của Levine và các cộng sự
Nghiên cứu của Levine và Zervos (1998) đưa ra bộ chỉ số cơ bản đánh giá sự
phát triển của TTTC thông qua quy mô, tính thanh khoản, mức độ biến động cũng như
mức độ hội nhập của TTTC trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên
cứu của Korajczyk (1995), Ash Demirguc-Khung và Ross Levine (1995), Levine và
Zervos (1998) đã thiết lập chỉ số tổng hợp xác định mức độ phát triển của thị trường
chứng khoán (TTCK) dựa trên 06 chỉ số sau:
(1) Chỉ số quy mô thị trường bao gồm tỷ lệ vốn hóa thị trường so với GDP và số
lượng các công ty niêm yết. Vốn hóa thị trường được định nghĩa là giá trị thị trường
14
bình quân tại hai thời điểm cuối năm và đầu năm của tất cả chứng khoán niêm yết trên
thị trường trên tổng GDP năm đó.
Cách đo lường này được sử dụng trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm về phát
triển tài chính và tỷ lệ vốn hóa được sử dụng làm yếu tố đại diện cho sự phát triển thị
trường.
(2) Chỉ số về tính thanh khoản của thị trường bao gồm tỷ lệ tổng giá trị giao
dịch trên GDP và hệ số vòng quay (tỷ lệ tổng giá trị giao dịch trên vốn hóa thị trường).
Trong đó, hệ số vòng quay được xác định bằng tổng giá trị cổ phiếu giao dịch trong
kỳ/giá trị vốn hóa bình quân của cả thị trường trong kỳ.
(3) Chỉ số về mức biến động của thị trường là độ lệch chuẩn của chỉ số thị
trường tính trong 12 tháng gần nhất.
(4) Chỉ số về mức độ tập trung hóa của thị trường được xác định bằng tỷ lệ giữa
tổng giá trị vốn hóa của 10 loại cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất trên tổng giá trị vốn
hóa toàn TTCK.
(5) Chỉ số về mức độ hội nhập được xác định dựa trên mức chênh lệch giữa giá
trị thực tế và giá trị lý thuyết của tài sản theo hai mô hình định giá: Mô hình định giá
trong điều kiện không có chênh lệch giá (mô hình APT) và mô hình định giá tài sản
vốn trong điều kiện hội nhập (mô hình ICAPM).
(6) Nhóm các chỉ số về mức độ quản lý và thể chế thị trường được xây dựng bởi
Tập đoàn Tài chính quốc tế IFC của Ngân hàng Thế giới (WB), bao gồm 07 chỉ tiêu
đánh giá, cụ thể: (i) Về mức độ đầy đủ đối với nội dung thông tin về doanh thu và lợi
nhuận phải công bố theo quy định của pháp luật (thang điểm là 0 hoặc 1); (ii) Về sự
phù hợp chuẩn mực kế toán trong nước đối với chuẩn mực kế toán quốc tế (thang điểm
15
là 0, 1 hoặc 2); (iii) Về mức độ bảo vệ nhà đầu tư của các quy định pháp lý (thang điểm
là 0, 1 hoặc 2); (iv) Về việc thị trường có được quản lý hay có cơ quan quản lý chuyên
ngành không; (v) Ba chỉ tiêu tiếp theo liên quan tới việc đánh giá cơ chế kiểm soát tài
khoản vốn; chuyển lợi nhuận, vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và việc đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài (thang điểm là 0, 1 hoặc 2).
Tương tự, Garcia và Liu (1999) đánh giá sự phát triển của TTCK thông qua các
chỉ tiêu về quy mô thị trường, tính thanh khoản, mức độ biến động, mức độ tập trung,
mức độ hội nhập với thị trường vốn quốc tế và các quy định pháp luật trên thị trường;
đồng thời sử dụng vốn hóa thị trường để đo lường sự phát triển của TTCK dựa trên
quan điểm cho rằng chỉ số này phù hợp và ít bị áp đặt hơn so với các chỉ số đơn lẻ
khác.
2.1.3.2. Bộ chỉ số của Hartmann và các cộng sự năm 2007
Hartmann và các cộng sự (2007) xây dựng nhóm 08 chỉ tiêu được sử dụng để
đánh giá sự phát triển tài chính của một số nước châu Âu, bao gồm: (1) Quy mô thị
trường vốn và hệ thống tài chính; (2) Đổi mới tài chính và hoàn thiện thị trường; (3)
Tính minh bạch và thông tin; (4) Quản trị doanh nghiệp; (5) Hệ thống pháp luật; (6)
Quy định tài chính, giám sát và ổn định tài chính; (7) Cạnh tranh, sự cởi mở và hội
nhập tài chính; (8) Tự do kinh tế và các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị.
Trong các chỉ tiêu tổng quát trên, chỉ tiêu về quy mô thị trường, tính minh bạch
và thông tin có liên quan trực tiếp tới sự phát triển và hiệu quả hoạt động của TTTC.
Chỉ tiêu đo lường tính minh bạch và thông tin bao gồm độ phân tán của các dự báo và
định giá thông tin doanh nghiệp. Định giá thông tin doanh nghiệp là giá trị R2 của kết
quả hồi quy giá cổ phiếu trên các biến số là các yếu tố thị trường. Các quốc gia có
16
TTTC kém phát triển và các công ty hoạt động kém hiệu quả hơn thường có hệ số R2
cao hơn (Durnev và các cộng sự, 2003; Morck và các cộng sự, 2000).
Ưu điểm của bộ chỉ số tổng hợp của Hartmann và các cộng sự (2007) là cung
cấp thông tin tổng quan về hệ thống tài chính, có thể tham khảo được các đánh giá chỉ
tiêu từ các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên có những thông tin khó thu thập đầy đủ và
đưa ra đo lường, đánh giá như đổi mới tài chính, hoặc có những luật không chính thức
khó định giá mà chỉ có thể nhận xét về tác động. Sự không đồng đều về chất lượng và
khung thời gian của các dữ liệu liên quan giữa các chỉ tiêu cũng là một nhược điểm khi
đánh giá theo bộ chỉ tiêu tổng hợp.
2.1.3.3. Bộ chỉ số phát triển tài chính của IMF năm 2015
Các nghiên cứu thực nghiệm thường sử dụng một trong hai chỉ số đo lường độ
sâu tài chính (tỷ lệ tín dụng tư nhân/GDP; tỷ lệ vốn hóa thị trường/GDP) để phản ánh
tình trạng phát triển tài chính, tuy nhiên, hai chỉ số này không tính đến bản chất đa diện
phức tạp của sự phát triển tài chính. Vì vậy, nhóm chuyên gia của IMF (2015) đã xây
dựng một bộ chỉ số tổng quát (FD Index) cho phát triển tài chính gồm 09 chỉ số khái
quát về ba khía cạnh của các trung gian tài chính (FI) và thị trường tài chính (FM) là độ
sâu (FID), khả năng tiếp cận (FIA) và tính hiệu quả (FIE). Bộ chỉ số được áp dụng cho
183 quốc gia trong gian đoạn 1980 - 2013, cung cấp công cụ phân tích hữu ích cho các
nhà nghiên cứu và các nhà làm chính sách.
Các chỉ số phát triển TTTC của IMF (2015) tập trung vào sự phát triển của thị
trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu.
(1) Độ sâu của thị trường bao gồm chỉ tiêu về quy mô thị trường cổ phiếu (giá
trị vốn hóa thị trường cổ phiếu) và hoạt động của thị trường thể hiện qua: Giá trị vốn
hóa thị trường cổ phiếu/GDP; giá trị cổ phiếu giao dịch/GDP; trái phiếu chính phủ phát
17
hành trên thị trường quốc tế/GDP; trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong nước và
quốc tế.
(2) Khả năng tiếp cận TTTC được xác định thông qua tỷ trọng vốn hóa thị
trường của 10 công ty lớn nhất trên thị trường cổ phiếu. Mức độ tập trung thị trường cổ
phiếu cao phản ánh việc khó gia nhập thị trường đối với các tổ chức phát hành mới.
Đối với thị trường trái phiếu, tỷ lệ số lượng tổ chức phát hành trái phiếu trong nước và
quốc tế trong năm/100.000 người trưởng thành được sử dụng để đo lường mức độ tiếp
cận thị trường. Biến số này phản ánh số lượng các tổ chức phát hành khác nhau, do đó
những tổ chức phát hành nhiều lần trong năm cũng chỉ tính một lần.
(3) Hiệu quả của TTTC được phản ánh thông qua hệ số vòng quay TTCK (giá
trị cổ phiếu giao dịch/giá trị vốn hóa thị trường). Tỷ lệ doanh thu cao biểu hiện mức độ
thanh khoản cao và hiệu suất hoạt động tốt hơn của thị trường. Đối với thị trường trái
phiếu, biến số thường được sử dụng là mức chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Nhìn chung, bộ chỉ số này chỉ tập trung vào các yếu tố chính của TTTC bao
gồm độ sâu, khả năng tiếp cận và hiệu quả, do đó đã bỏ qua một số biến số khác, ví dụ
như những biến số mang tính định hướng thị trường như môi trường pháp lý, quy định
và điều luật, mức độ ổn định của hệ thống tài chính.
2.1.4. Lý thuyết trung gian tài chính
Lý thuyết trung gian tài chính được xây dựng dựa trên lý thuyết thông tin bất
cân xứng với những đóng góp hữu ích của Akerlof (197)0, Spence (1973) và
Rothschild và Stiglitz (1976). Lý thuyết này các trung gian tài chính tồn tại bởi vì các
trung gian tài chính này có thể làm giảm chi phí thông tin và chi phí giao dịch phát sinh
từ vấn đề bất cân xứng thông tin giữa người đi vay và người cho vay. Do đó, trung gian
tài chính sẽ cải thiện hiệu quả hoạt động của thị trường và cho nên sẽ có thể ảnh hưởng
18
đến môi trường kinh tế vĩ mô. Theo các nghiên cứu trước đây thì tồn tại hai quan điểm
giải thích cho sự tồn tại của các trung gian tài chính. Quan điểm đầu tiên nhấn mạnh
vào việc cung cấp thanh khoản của các trung gian tài chính. Trong khi đó, quan điểm
thứ hai thì phân tích vào việc chuyển đổi đặc tính rủi ro của tài sản. Cả hai quan điểm
này đều cho rằng các trung gian tài chính đều có thể làm giảm chi phí phân bổ vốn
giữa người cho vay và người đi vay, điều này sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực hiệu
quả hơn.
Trung gian tài chính tồn tại nhằm mục đích giải quyết vấn đề bất cân xứng
thông tin và vấn đề đại diện (Gurley và Shaw, 1960). Các trung gian tài chính có thể
giảm thiểu chi phí giao dịch và cung cấp các thông tin tốt hơn. Nếu không có các trung
gian tài chính, vấn đề bất cân xứng thông tin sẽ tạo ra sự bất hoàn hảo của thị trường và
điều này sẽ làm cho thị trường bị sai lệch so với đặc điểm của thị trường hoàn hảo
được đề xuất bởi Arrow và Debreu (1954). Sự không hoàn hảo có thể được tạo ra bởi
vấn đề bất cân xứng thông tin và dẫn đến sự xuất hiện của một số loại chi phí giao dịch
có liên quan. Mà sự xuất hiện của các trung gian tài chính sẽ có thể loại bỏ các loại chi
phí này, hoặc tối thiểu cũng giảm một phần các chi phí này.
Thị trường tài chính, bao gồm thị trường chứng khoán và trái phiếu, thì dường
như rất quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả kinh tế bằng cách chuyển tiền từ những
đối tượng không sử dụng vốn hiệu quả đến các đối tượng có thể sử dụng hiệu quả
(Mishkin và Eakins, 2012). Thị trường tài chính hoạt động tốt là yếu tố then chốt trong
việc kích thích tăng trưởng của quốc gia. Các hoạt động trong thị trường tài chính sẽ có
tác động trực tiếp đến thu nhập của từng cá nhân, hành vi của các doanh nghiệp và
người tiêu dùng cũng như chu kỳ kinh tế của quốc gia. Các trung gian tài chính sẽ có
thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn bằng cách quản lý rủi ro tốt hơn, giảm thiểu vấn
đề bất cân xứng thông tin, và giảm chi phí giao dịch. Cuối cùng, lý thuyết này đã cho
19
rằng tăng trưởng kinh tế và mức thu nhập của quốc gia sẽ là các yếu tố quan trọng đối
với sự phát triển tài chính.
2.1.5. Giả thuyết cung dẫn dắt – cầu phụ thuộc
Patrick (1966) trong một hội thảo, tác giả đã đưa ra một mối quan hệ nhân quả
hai chiều giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Theo đó, sự
phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có tác động qua lại lẫn nhau. Tác giả đặt tên
cho hai mối quan hệ này lần lượt là giả thuyết hiện tượng cầu phụ thuộc và cung dẫn
dắt. Tuy nhiên, giả thuyết cầu phụ thuộc đặt ra mối quan hệ nhân quả từ tăng trưởng
kinh tế đến tăng trưởng tài chính thông qua các bằng chứng thực nghiệm được tìm
thấy. Khi nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu về dịch vụ tài chính tăng lên sẽ thúc đẩy sự
phát triển tài chính. Giả thiết cầu phụ thuộc cho rằng thị trường tài chính phát triển và
dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các dịch vụ tài chính xuất phát từ sự tăng trưởng
trong nền kinh tế thực. Sự phát triển thị trường tài chính được xem là một yếu tố phụ
thuộc đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do khi khu vực sản xuất vật chất
(real sector) mở rộng và phát triển, nền kinh tế càng phát triển thì có thể sẽ tạo ra các
nhu cầu mới cho các dịch vụ tài chính và sẽ gia tăng áp lực để thành lập các tổ chức tài
chính lớn hơn và tinh vi hơn để đáp ứng nhu cầu tài chính càng gia tăng như là một kết
quả của sự tăng trưởng trong khu vực sản xuất của nền kinh tế (real sector of the
economy).
Mặt khác, giả thuyết cung dẫn dắt cho rằng phát triển tài chính sẽ có tác động
đến tăng trưởng kinh tế thay vì tăng trưởng kinh tế tác động đến phát triển tài chính
như giả thuyết cầu phụ thuộc đề ra. Khu vực tài chính có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thông qua ba kênh sau. Thứ nhất, khu vực tài chính có thể làm tăng năng suất biên
của vốn để đánh giá các dự án thay thế và chia sẻ rủi ro. Thứ hai, khu vực tài chính có
thể làm tăng tỷ lệ tiết kiệm được chuyển vào đầu tư trong nền kinh tế và điều này sẽ
20
làm tăng hiệu quả của các trung gian tài chính. Cuối cùng, khu vực tài chính có thể làm
tăng tỷ lệ tiết kiệm cá nhân.
Qua đây, luận văn nhận thấy rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển tài chính có thể được ghi nhận là mối quan hệ nhân quả hai chiều như giả thuyết
cầu phụ thuộc – cung dẫn dắt đã đề xuất. Tuy nhiên, với mục tiêu nghiên cứu của luận
văn trong chương 01 thì luận văn sẽ áp dụng giả thuyết cầu phụ thuộc để giải thích tác
động của tăng trưởng kinh tế đến phát triển tài chính của các quốc gia đang phát triển
và đã phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2.1.6. Lý thuyết hiệu ứng Fisher
Lý thuyết hiệu ứng Fisher được xây dựng bởi Fisher (1930), và lý thuyết này giả
định rằng lãi suất danh nghĩa phản ánh đầy đủ thông tin có sẵn liên quan đến lạm phát
kỳ vọng. Lý thuyết này là cơ sở cho ý tưởng rằng chính sách tiền tệ nên chủ yếu tập
trung vào việc quản lý lạm phát kỳ vọng nhằm cố gắng giữ lãi suất thực ổn định. Điều
này nhằm mục đích thúc đẩy mức độ tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế (Laichena và
Obwogi, 2015). Lý thuyết hiệu ứng Fisher cũng lập luận rằng suất sinh lời dự kiến của
các cổ phiếu phổ thông bao gồm lợi nhuận thực tế và mức lạm phát kỳ vọng. Lợi nhuận
thực tế của các cổ phiếu phổ thông được giả định là không đổi theo thời gian. Giả định
lợi nhuận âm sẽ chính xác hơn lợi nhuận thực dương, do đó suất sinh lời của các cổ
phiếu thông thường được dự kiến sẽ thay đổi theo sự biến động trong lạm phát
(Mahonye và Mandishara, 2014).
Hiệu ứng Fisher giả định rằng lãi suất danh nghĩa đối với tài sản tài chính sẽ
thay đổi tương ứng với sự thay đổi trong lạm phát kỳ vọng. Hơn nữa, những thay đổi
trong lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn được kỳ vọng sẽ ảnh hưởng đến lãi suất chiết
khấu theo cùng một hướng thông qua ảnh hưởng của chúng đến lãi suất phi rủi ro danh
21
nghĩa (Kuwornu, 2012). Giả thuyết của Fisher giả định rằng không có mối quan hệ nào
giữa lãi suất thực và chính sách tiền tệ của quốc gia (Floros, 2004). Tuy nhiên, các
nghiên cứu thực nghiệm sử dụng suất sinh lời thực thay vì suất sinh lời danh nghĩa thì
lại tìm thấy suất sinh lời thực của chứng khoán không phụ thuộc vào lạm phát
(Shanmugam và Misra, 2008). Nhìn chung, lý thuyết Fisher cho rằng suất sinh lời danh
nghĩa của tài sản tài chính sẽ tăng theo tỷ lệ lạm phát, trong khi suất sinh lời thực
không phụ thuộc vào lạm phát. Do đó, lý thuyết hiệu ứng Fisher cho rằng tồn tại mối
quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và suất sinh lời chứng khoán. Từ đây có thể thấy
rằng, lạm phát sẽ được sử dụng như là một yếu tố quan trọng giải thích sự phát triển
của thị trường chứng khoán của các quốc gia.
2.2. Nghiên cứu thực nghiệm
Garcia và Liu (1999) đã giải thích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến
mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của 15 quốc gia trong giai đoạn 1980 –
1995. Mẫu nghiên cứu của các tác giả bao gồm Argentina, Brazil, Chile, Colombia,
Mexico, Peru, Venezuela, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Thái
Lan, Nhật Bản và Mỹ. Bên cạnh đó, trong mô hình nghiên cứu phân tích tác động của
các yếu tố kinh tế vĩ mô đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán, các tác giả
sử dụng các biến thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư, tín dụng ngân hàng,
thanh khoản thị trường chứng khoán, lạm phát đóng vai trò đại diện cho các yếu tố
kinh tế vĩ mô. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS, cụ thể mô
hình hồi quy OLS gộp, để ước lượng phương trình nghiên cứu tác động của các yếu tố
kinh tế vĩ mô đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia. Qua
đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư, tín
dụng ngân hàng, thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối
quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý
nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng có
22
thu nhập càng cao, mức độ đầu tư và mức độ tiết kiệm càng cao, tín dụng ngân hàng
được mở rộng, thanh khoản thị trường chứng khoán tốt thì sẽ giúp cho thị trường
chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển. Lạm phát không có tác động đáng
kể đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán.
Claesses và các cộng sự (2001) đã giải thích tác động của dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của 77 quốc gia trên
thế giới trong giai đoạn 1975 – 2000, với mức độ phát triển thị trường chứng khoán
được đo lường bởi (1) giá trị vốn hóa thị trường trên GDP, (2) giá trị giao dịch trên
GDP. Trong mô hình nghiên cứu này, các tác giả sử dụng các biến thu nhập GDP trên
đầu người, lạm phát, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng thể chế như là
các yếu tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của
các quốc gia trong mẫu. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS,
cụ thể mô hình hồi quy OLS gộp, để ước lượng phương trình nghiên cứu này. Qua đó,
bài nghiên cứu này tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và chất lượng thể chế nhìn chung đều thể hiện mối quan hệ đồng biến với sự phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý
rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng có thu nhập càng cao, càng thu hút
nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào và chất lượng thể chế được cải
thiện thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển.
Ngược lại, lạm phát thể hiện tác động ngược chiều đến mức độ phát triển thị trường
chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này có nghĩa là lạm phát của
quốc gia càng gia tăng sẽ làm cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán.
El – Wassal (2005) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển của thị
trường chứng khoán của 40 quốc gia mới nổi trên thế giới trong giai đoạn 1980 - 2000.
Để thực hiện điều này tác giả đã sử dụng các biến độc lập bao gồm tăng trưởng kinh tế,
mức độ hội nhập tài chính toàn cầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các yếu tố
23
đại diện cho chất lượng thể chế (rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính) như là
các yếu tố xác định phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Đồng thời, tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy hai bước (2SLS) kết
hợp với mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) để ước lượng phương trình nghiên cứu các
yếu tố tác động phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia. Qua đó, bài
nghiên cứu này tìm thấy rằng rủi ro chính trị có tác động ngược chiều đến sự phát triển
thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này hàm ý rằng các
quốc gia càng bất ổn chính trị (chất lượng thể chế kém) thì sẽ làm cản trở sự phát triển
thị trường chứng khoán. Ngược lại, các yếu tố còn lại trong mô hình nghiên cứu như
tăng trưởng kinh tế, mức độ hội nhập tài chính toàn cầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài có mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng các quốc gia càng tăng trưởng
kinh tế, càng mở cửa hội nhập, càng có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào
nhiều thì sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán.
Yartey (2007) đã tiến hành phân tích tác động của các yếu tố thúc đẩy thị trường
chứng khoán của 13 quốc gia ở Châu Phi trong giai đoạn 1991 – 2001. Để thực hiện
điều này tác giả đã sử dụng các biến độc lập bao gồm GDP trên đầu người, tỷ lệ tiết
kiệm, tỷ lệ đầu tư nội địa, lạm phát, thanh khoản thị trường chứng khoán và các yếu tố
đại diện cho chất lượng thể chế được tổng hợp từ Nhóm Dịch vụ rủi ro chính trị (PRS
GROUP) như là các yếu tố quyết định sự phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Đồng thời, tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy
OLS, cụ thể mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên, để ước lượng phương trình nghiên cứu
các yếu tố tác động đến sự phát triển tài chính của các quốc gia. Qua đó, bài nghiên
cứu này tìm thấy rằng thu nhập GDP trên đầu người, đầu tư nội địa, tỷ lệ tiết kiệm,
thanh khoản thị trường chứng khoán và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế đều
có mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở
24
mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở Châu Phi càng tăng thu
nhập trên đầu người, đầu tư nội địa càng tăng, tỷ lệ tiết kiệm gia tăng, thanh khoản của
thị trường chứng khoán tốt hơn và chất lượng thể chế của các quốc gia được cải thiện
thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển.
Billmeier và Massa (2009) đã đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố quyết định thị
trường chứng khoán của 17 quốc gia mới nổi thuộc khu vực Trung Đông và Trung Á
(MENA) trong giai đoạn 1995 – 2005 với tổng quan sát 187. Để thực hiện điều này các
tác giả đã sử dụng các biến độc lập bao gồm thu nhập quốc gia, đầu tư nội địa, lạm
phát, tín dụng nội địa, thanh khoản thị trường, ngoại hối và các yếu tố đại diện cho chất
lượng thể chế được tổng hợp từ Chỉ số tự do kinh tế của Heritage Foundation như là
các yếu tố quyết định sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS để ước lượng
phương trình nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự phát triển tài chính của các quốc
gia. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, đầu tư nội địa, lạm
phát, tín dụng nội địa, thanh khoản thị trường, ngoại hối và các yếu tố đại diện cho chất
lượng thể chế đều có mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán
của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở khu
vực Trung Đông và Trung Á càng tăng thu nhập quốc gia, đầu tư nội địa càng tăng, tín
dụng ngân hàng càng được mở rộng, thanh khoản của thị trường chứng khoán tốt hơn
và chất lượng thể chế của các quốc gia này được cải thiện thì sẽ giúp cho thị trường
chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển.
Law và Habibullah (2009) đã giải thích các yếu tố quyết định mức độ phát triển
của thị trường chứng khoán của 27 quốc gia thuộc nhóm G7, Châu Âu, Đông Á, và Mỹ
La Tinh trong giai đoạn 1980 – 2001. Trong mô hình nghiên cứu này, các tác giả sử
dụng các biến thu nhập GDP trên đầu người, chất lượng thể chế, độ mở thương mại, độ
mở tài chính như là các yếu tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường
25
chứng khoán của các quốc gia trong mẫu. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng phương
pháp hồi quy GMM và gộp trung bình nhóm (pooled mean group) để ước lượng
phương trình nghiên cứu này. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng thu nhập quốc
gia, chất lượng thể chế, độ mở thương mại và độ mở tài chính nhìn chung đều thể hiện
mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở
mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu
càng có thu nhập càng cao, càng mở cửa thương mại với thế giới, càng hội nhập tài
chính và chất lượng thể chế được cải thiện thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của
các quốc gia này càng phát triển. Kết quả được tìm thấy tương đối vững chắc sau khi
tách mẫu nghiên cứu thành nhóm các quốc gia phát triển và mới nổi.
Cherif và Gazdar (2010) đã giải thích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và
chất lượng thể chế đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của 14 quốc gia
thuộc khu vực MENA trong giai đoạn 1990 – 2007. Trong mô hình nghiên cứu này, tác
giả sử dụng các biến thu nhập GDP trên đầu người, lạm phát, tỷ lệ tiết kiệm, mức độ
thanh khoản thị trường, tỷ lệ đầu tư nội địa, và chất lượng thể chế được tổng hợp từ
Nhóm Dịch vụ rủi ro chính trị như Yartey (2007) đã sử dụng đóng vai trò làm các yếu
tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc
gia trong mẫu. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết
kiệm, lạm phát và thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối
quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý
nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng có
thu nhập càng cao, tỷ lệ tiết kiệm càng cao, chỉ số giá càng gia tăng và thị trường
chứng khoán có thanh khoản cao thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc
gia này càng phát triển. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như tỷ lệ đầu tư nội địa, chất
lượng thể chế không tìm thấy tác động đáng kể đến mức độ phát triển của thị trường
chứng khoán của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu.
26
Kurach (2010) đã giải thích các yếu tố tác động đến mức độ phát triển của thị
trường chứng khoán của 13 quốc gia thuộc nhóm Cộng đồng Kinh tế Châu Âu trong
giai đoạn 1996 – 2007. Trong mô hình nghiên cứu này, tác giả sử dụng các biến mức
độ phát triển thị trường chứng khoán ở năm trước, thu nhập GDP trên đầu người, lạm
phát, cán cân ngân sách, tỷ lệ tiết kiệm, mức độ thanh khoản thị trường như là các yếu
tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc
gia trong mẫu. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS, cụ thể mô
hình ảnh hưởng cố định và ngẫu nhiên, để ước lượng phương trình nghiên cứu này.
Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở
năm trước, thu nhập quốc gia, và thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều
thể hiện mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc
gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên
cứu càng có mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở năm trước càng cao, có thu
nhập càng cao, và thị trường chứng khoán có thanh khoản cao thì sẽ giúp cho thị
trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển. Các yếu tố còn lại không tìm
thấy tác động đáng kể đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu.
Yartey (2010) đã nghiên cứu thực nghiệm tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô
và chất lượng thể chế đến sự phát triển của thị trường chứng khoán của 42 quốc gia
mới nổi trên thế giới trong giai đoạn 1990 – 2004. Để thực hiện điều này tác giả đã sử
dụng các biến độc lập bao gồm GDP trên đầu người, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư nội
địa, lạm phát, thanh khoản thị trường chứng khoán, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế được tổng hợp từ Nhóm Dịch vụ
rủi ro chính trị (PRS GROUP) như là các yếu tố quyết định sự phát triển thị trường
chứng khoán của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Đồng thời, tác giả đã sử dụng
phương pháp hồi quy GMM để ước lượng phương trình nghiên cứu các yếu tố tác động
27
đến sự phát triển tài chính của các quốc gia. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng
thu nhập GDP trên đầu người, đầu tư nội địa, lạm phát, thanh khoản thị trường chứng
khoán và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế đều có mối quan hệ đồng biến với
sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này
ngụ ý rằng khi các quốc gia trong mẫu nghiên cứu càng tăng thu nhập trên đầu người,
đầu tư nội địa càng tăng, lạm phát gia tăng, thanh khoản của thị trường chứng khoán
tốt hơn và chất lượng thể chế của các quốc gia được cải thiện thì sẽ giúp cho thị trường
chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển.
Agbloyor và các cộng sự (2013) đã giải thích mối quan hệ nhân quả giữa dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của
16 quốc gia ở Châu Phi trong giai đoạn 1990 – 2007. Trong mô hình nghiên cứu phân
tích mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này, các tác giả có đưa thêm các biến kiểm
soát bao gồm thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư, cơ sở hạ tầng, độ mở
thương mại, độ mở tài chính, lạm phát, và chất lượng thể chế như là các yếu tố giải
thích sự phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia này. Đồng thời, các tác
giả đã sử dụng phương pháp hồi quy hai bước (2SLS) để ước lượng phương trình
nghiên cứu tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các yếu tố khác đến
sự phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia. Qua đó, bài nghiên cứu này
tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở tài chính, thể hiện mối quan
hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa
10%. Kết quả này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở khu vực Châu Phi càng thu hút nhiều
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như mở cửa hội nhập tài chính càng nhiều
thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển. Ngược lại,
lạm phát được tìm thấy có tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị trường chứng
khoán ở mức ý nghĩa 10%. Nói cách khác, các quốc gia trải qua thời kỳ lạm phát càng
gia tăng thì thị trường chứng khoán sẽ kém phát triển hoặc sự phát triển sẽ bị suy giảm.
28
Ben Naceur và các cộng sự (2014) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự
phát triển tài chính của các quốc gia ở khu vực MENA trong giai đoạn 1960 – 2006.
Để thực hiện điều này các tác giả đã sử dụng các biến độc lập bao gồm tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư, chi tiêu chính phủ, độ mở thương mại,
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế như
là các yếu tố xác định sự phát triển tài chính của các quốc gia trong khu vực. Đồng
thời, các tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS để ước lượng phương trình
nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự phát triển tài chính của các quốc gia. Qua đó,
bài nghiên cứu này tìm thấy rằng tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ tiết kiệm có tác động
ngược chiều đến sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa
10%. Điều này hàm ý rằng các quốc gia càng tăng trưởng và càng có mức tiết kiệm
nhiều thì sẽ làm cản trở sự phát triển thị trường chứng khoán. Ngược lại, các yếu tố
như độ mở thương mại, chi tiêu chính phủ và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có
mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở
mức ý nghĩa 10%. Kết quả này ngụ ý rằng các quốc gia càng mở cửa hội nhập, càng có
mức chi tiêu chính phủ càng cao và càng có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy
vào nhiều thì sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán.
Sukruoglu và Nalin (2014) đã giải thích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô
đến mức độ phát triển của thị trường chứng khoán của 19 quốc gia ở Châu Âu trong
giai đoạn 1995 – 2011. Trong mô hình nghiên cứu này, các tác giả sử dụng các biến
mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở năm trước, thu nhập GDP trên đầu người,
lạm phát, cán cân ngân sách, tỷ lệ tiết kiệm, mức độ thanh khoản thị trường như là các
yếu tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia trong mẫu. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng mức độ phát triển thị
trường chứng khoán ở năm trước, thu nhập quốc gia, cán cân ngân sách, tỷ lệ tiết kiệm
và thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối quan hệ đồng biến
29
với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả
này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng có mức độ phát triển thị
trường chứng khoán ở năm trước càng cao, có thu nhập càng cao, cán cân ngân sách
càng thặng dư, tỷ lệ tiết kiệm càng cao và thị trường chứng khoán có thanh khoản cao
thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển. Ngược lại,
lạm phát được tìm thấy sẽ làm cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán
của các quốc gia.
Thanh và các cộng sự (2017) đã phân tích các yếu tố có thể giải thích mức độ
phát triển của thị trường chứng khoán của 36 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn
2003 – 2014. Trong mô hình nghiên cứu này, các tác giả sử dụng các biến mức độ phát
triển thị trường chứng khoán ở năm trước, thu nhập GDP thực trên đầu người, lạm
phát, đầu tư nội địa, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tín dụng khu vực tư nhân,
cung tiền M2, thanh khoản thị trường chứng khoán và các thành phần của chất lượng
thể chế được tổng hợp từ Chỉ tiêu Quản trị Thế giới của Ngân hàng Thế giới như là các
yếu tố giải thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia trong mẫu. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng mức độ phát triển thị
trường chứng khoán ở năm trước, thu nhập quốc gia, tín dụng khu vực tư nhân và
thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối quan hệ đồng biến
với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả
này ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng có mức độ phát triển thị
trường chứng khoán ở năm trước càng cao, có thu nhập càng cao, tín dụng khu vực tư
nhân càng nhiều và thị trường chứng khoán có thanh khoản cao thì sẽ giúp cho thị
trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát triển. Ngược lại, lạm phát, cung
tiền M2 được tìm thấy sẽ làm cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán
của các quốc gia. Hơn thế nữa, trong số các thành phần của chất lượng thể chế được
tổng hợp từ Chỉ tiêu Quản trị Thế giới của Ngân hàng Thế giới thì chỉ có hiệu quả
30
chính phủ và luật pháp được cải thiện thì mới thúc đẩy thị trường chứng khoán. Trong
khi đó, nghiên cứu tiết lộ rằng kiểm soát tham nhũng càng tốt và ổn định chính trị càng
cao thì sẽ cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia.
Tsaurai (2018) đã giải thích tác động của các yếu tố đến mức độ phát triển của
thị trường chứng khoán của 21 quốc gia mới nổi trong giai đoạn 1994 – 2014. Trong
mô hình nghiên cứu này, tác giả sử dụng các biến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ lệ tiết kiệm, cơ sở hạ tầng, độ mở thương mại,
tỷ giá hối đoái, thanh khoản thị trường chứng khoán đóng vai trò làm các yếu tố giải
thích sự thay đổi trong mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia
trong mẫu. Qua đó, bài nghiên cứu này tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ tiết kiệm, độ mở thương mại, tỷ giá hối đoái và thanh
khoản thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối quan hệ đồng biến với sự
phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này
ngụ ý rằng khi các quốc gia ở trong mẫu nghiên cứu càng thu hút dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ tiết kiệm càng cao, càng mở
cửa giao thương với nước ngoài, đồng nội tệ càng có giá và thị trường chứng khoán có
thanh khoản cao thì sẽ giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc gia này càng phát
triển. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như cơ sở hạ tầng, lạm phát lại được tìm thấy tác
động ngược chiều đến mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia.Nói
cách khác, các quốc gia càng đầu tư vào cơ sở hạ tầng càng cao và chỉ số giá tăng liên
tục thì sẽ cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán.
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Tác giả Mẫu nghiên cứu Kết quả
Garcia và Liu Argentina, Brazil, Chile, Thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu
(1999) Colombia, Mexico, tư, tín dụng ngân hàng, thanh khoản thị trường
31
Peru, Venezuela, chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối
Indonesia, Hàn Quốc, quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường
Malaysia, Philippines, chứng khoán của các quốc gia.
Đài Loan, Thái Lan, Lạm phát không có tác động đáng kể đến mức
Nhật Bản và Mỹ độ phát triển của thị trường chứng khoán
Thu nhập quốc gia, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chất lượng thể chế nhìn chung
đều thể hiện mối quan hệ đồng biến với sự
Claesses và các phát triển thị trường chứng khoán của các 77 quốc gia trên thế giới cộng sự (2001) quốc gia
lạm phát thể hiện tác động ngược chiều đến
mức độ phát triển thị trường chứng khoán của
các quốc gia
Rủi ro chính trị có tác động ngược chiều đến
sự phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia
El – Wassal 40 quốc gia mới nổi trên Tăng trưởng kinh tế, mức độ hội nhập tài
(2005) thế giới chính toàn cầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài có mối quan hệ đồng biến với sự
phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia
Thu nhập GDP trên đầu người, đầu tư nội địa,
tỷ lệ tiết kiệm, thanh khoản thị trường chứng
Yartey (2007) 13 quốc gia ở Châu Phi khoán và các yếu tố đại diện cho chất lượng
thể chế đều có mối quan hệ đồng biến với sự
phát triển thị trường chứng khoán của các
32
quốc gia
Thu nhập quốc gia, đầu tư nội địa, lạm phát,
17 quốc gia mới nổi tín dụng nội địa, thanh khoản thị trường, ngoại Billmeier và thuộc khu vực Trung hối và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể Massa (2009) Đông và Trung Á chế đều có mối quan hệ đồng biến với sự phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia
Thu nhập quốc gia, chất lượng thể chế, độ mở
27 quốc gia thuộc nhóm thương mại và độ mở tài chính nhìn chung Law và G7, Châu Âu, Đông Á, đều thể hiện mối quan hệ đồng biến với sự Habibullah (2009) và Mỹ La Tinh phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia
Thu nhập quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm, lạm phát và
thanh khoản thị trường chứng khoán nhìn
chung đều thể hiện mối quan hệ đồng biến với
sự phát triển thị trường chứng khoán của các Cherif và Gazdar 14 quốc gia thuộc khu quốc gia (2010) vực MENA Tỷ lệ đầu tư nội địa, chất lượng thể chế không
tìm thấy tác động đáng kể đến mức độ phát
triển của thị trường chứng khoán của các quốc
gia
Mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở
13 quốc gia thuộc nhóm năm trước, thu nhập quốc gia, và thanh khoản
Kurach (2010) Cộng đồng Kinh tế thị trường chứng khoán nhìn chung đều thể
Châu Âu hiện mối quan hệ đồng biến với sự phát triển
thị trường chứng khoán của các quốc gia
Yartey (2010) 42 quốc gia mới nổi trên Thu nhập GDP trên đầu người, đầu tư nội địa,
33
thế giới lạm phát, thanh khoản thị trường chứng khoán
và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế
đều có mối quan hệ đồng biến với sự phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở
tài chính, thể hiện mối quan hệ đồng biến với
Agbloyor và các sự phát triển thị trường chứng khoán của các 16 quốc gia ở Châu Phi cộng sự (2013) quốc gia
Lạm phát được tìm thấy có tác động tiêu cực
đến sự phát triển của thị trường chứng khoán
Tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ tiết kiệm có tác
động ngược chiều đến sự phát triển thị trường
Ben Naceur và chứng khoán của các quốc gia các quốc gia ở khu vực các cộng sự Độ mở thương mại, chi tiêu chính phủ và MENA (2014) dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối
quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường
chứng khoán của các quốc gia
Mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở
năm trước, thu nhập quốc gia, cán cân ngân
sách, tỷ lệ tiết kiệm và thanh khoản thị trường
chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối Sukruoglu và 19 quốc gia ở Châu Âu quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường Nalin (2014) chứng khoán của các quốc gia
Lạm phát được tìm thấy sẽ làm cản trở quá
trình phát triển của thị trường chứng khoán
của các quốc gia
34
Mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở
năm trước càng cao, có thu nhập càng cao, tín
dụng khu vực tư nhân càng nhiều và thị
trường chứng khoán có thanh khoản cao thì sẽ
giúp cho thị trường chứng khoán của các quốc
gia này càng phát triển
Lạm phát, cung tiền M2 được tìm thấy sẽ làm
Thanh và các 36 quốc gia đang phát cản trở quá trình phát triển của thị trường
cộng sự (2017) triển chứng khoán của các quốc gia
Hiệu quả chính phủ và luật pháp được cải
thiện thì mới thúc đẩy thị trường chứng
khoán.
Kiểm soát tham nhũng càng tốt và ổn định
chính trị càng cao thì sẽ cản trở quá trình phát
triển của thị trường chứng khoán của các quốc
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng
trưởng kinh tế, tỷ lệ tiết kiệm, độ mở thương
mại, tỷ giá hối đoái và thanh khoản thị trường
chứng khoán nhìn chung đều thể hiện mối quan
hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng
gia
khoán của các quốc gia
cơ sở hạ tầng, lạm phát lại được tìm thấy tác
động ngược chiều đến mức độ phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia
Tsaurai (2018) 21 quốc gia mới nổi
Nguồn: Tác giả tổng hợp
35
CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
Từ mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu được đề cập, luận văn thực hiện hồi quy
phương trình nghiên cứu sau dựa vào mô hình nghiên cứu mà Ben Naceur và các cộng
sự (2014) đã sử dụng khi nghiên cứu sự phát triển tài chính ở khu vực Trung Đông –
Bắc Phi (MENA).
𝑆𝐷𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 ∗ 𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑖𝑡 + 𝛽2 ∗ 𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡 + 𝛽3 ∗ 𝑆𝐴𝑉𝑖𝑡 + 𝛽4 ∗ 𝐼𝑁𝑉𝑖𝑡 + 𝛽5 ∗
𝐺𝑂𝑉𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡 + 𝛽6 ∗ 𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖𝑡 + 𝛽7 ∗ 𝐶𝐴𝑃𝐹𝐿𝑂𝑊𝑖𝑡 + 𝛽8 ∗ 𝐿𝐴𝑊𝑖𝑡 + 𝛽9 ∗ 𝐵𝑈𝑅𝑄𝑈𝐴𝐿𝑖𝑡 +
(1) 𝛽10 ∗ 𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖𝑡 + 𝛽11 ∗ 𝐶𝑂𝑅𝑅𝑈𝑃𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
Trong đó:
𝑆𝐷𝑖𝑡 là sự phát triển thị trường chứng khoán được đại diện bởi (1) tỷ lệ giá trị
vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP (CAP) và (2) tỷ lệ giá trị giao dịch chứng
khoán trên GDP(TURN)
𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑖𝑡là tăng trưởng kinh tế được tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị
GDP của quốc gia ở năm t so với năm t – 1.
𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡là lạm phát được tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị chỉ số giá tiêu
dùng của quốc gia ở năm t so với năm t – 1.
𝑆𝐴𝑉𝑖𝑡là tiết kiệm nội địa được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP.
𝐼𝑁𝑉𝑖𝑡là đầu tư nội địa được tính bởi tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP.
𝐺𝑂𝑉𝑆𝐼𝑍𝐸𝑖𝑡là quy mô chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP.
36
𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖𝑡là độ mở thương mại được tính bởi tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu
trên GDP.
𝐶𝐴𝑃𝐹𝐿𝑂𝑊𝑖𝑡là dòng vốn chảy vào được tính bởi tỷ lệ dòng vốn chảy vào trên
GDP.
𝐿𝐴𝑊𝑖𝑡đo lường mức độ luật pháp của quốc gia
𝐵𝑈𝑅𝑄𝑈𝐴𝐿𝑖𝑡đo lường mức độ chất lượng bộ máy tổ chức của quốc gia
𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖𝑡đo lường mức độ trách nhiệm dân chủ của quốc gia
𝐶𝑂𝑅𝑅𝑈𝑃𝑖𝑡đo lường mức độ tham nhũng của quốc gia
𝜀𝑖𝑡là sai số mô hình nghiên cứu
3.2. Giả thuyết hồi quy
3.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế nhận được nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và các nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ
ra rằng phát triển tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đồng thời
giả thuyết cung dẫn dắt (supply – leading hypothesis) cũng lập luận cho thấy mối quan
hệ nhân quả từ phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế. Ngược lại với giả thuyết
này, quan điểm cầu phụ thuộc (demand – side view) cho rằng phát triển kinh tế sẽ làm
gia tăng nhu cầu về các nguồn lực tài chính và ngành tài chính sẽ phát triển theo xu
hướng của sự phát triển kinh tế.
Caldeon và Liu (2003) phân tích tác động nhân quả giữa phát triển tài chính và
tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu này dựa vào số liệu của 109 quốc gia đang phát triển
37
và các quốc gia phát triển và qua đó các tác giả đã tìm thấy rằng phát triển tài chính
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cũng chỉ ra mối
quan hệ nhân quả từ phát triển kinh tế đến tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ nhân quả
từ tăng trưởng kinh tế đến phát triển tài chính luôn tồn tại song song và hai mối quan
hệ này không loại trừ lẫn nhau. Hơn thế nữa, Greendwood và Jovanovic (1990) cho
rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm giảm chi phí giao dịch của các trung gian tài
chính vì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao sẽ làm gia tăng lượng vốn khả dụng dùng
để đầu tư trong nền kinh tế. Kết quả là sẽ làm gia tăng môi trường cạnh tranh trong
ngành tài chính và đẩy mạnh sự phát triển tài chính. Levine (2005) cũng đã giải quyết
chủ đề tương tự, khi tìm thấy thu nhập bình quân trên đầu người là yếu tố quan trọng
có tác động đến phát triển tài chính. Bằng chứng thực nghiệm của tác giả đến từ 23
quốc gia đang phát triển và chỉ ra một tác động tích cực của thu nhập thực đến phát
triển tài chính. Thật vậy, các nghiên cứu thực nghiệm của Levine (1997), Demirguc –
Kunt và Levine (1999), Garcia và Liu (1999), El-Wassal (2005), Yartey (2008), Beck
và các cộng sự (2009), Law và Habibullah (2009), Andrianavio và Yartey (2010),
Falahaty và Law (2013), Allen và các cộng sự (2014), Ben Naceur và các cộng sự
(2014), David và các cộng sự (2014), Ozkok (2015), Le và các cộng sự (2016) đã tìm
thấy kết quả thực nghiệm ủng hộ mối quan hệ cùng chiều giữa hai biến số này.
Do đó, có thể thấy rằng tăng trưởng kinh tế được cho rằng sẽ có tác động tích
cực đến phát triển tài chính theo các kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi các nghiên
cứu trước đây. Vì thế, luận văn kỳ vọng hệ số hồi quy của biến tăng trưởng kinh tế
trong phương trình hồi quy là dương và có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, luận văn cũng
đo lường tăng trưởng kinh tế bởi sự gia tăng trong GDP của các quốc gia.
3.2.2. Lạm phát
38
Lạm phát được xem như là một tiêu chí đại diện cho sự bất ổn định của kinh tế
vĩ mô của quốc gia như các nghiên cứu trước đây Nacuer và các cộng sự (2007),
Garcia và Liu (2009) đã đề nghị. Mà sự bất ổn định của kinh tế vĩ mô lại được xem
như là một yếu tố quan trọng trong việc xác định sự phát triển tài chính của các quốc
gia. Có thể thấy rằng lạm phát là yếu tố trực tiếp làm giảm giá trị thực của các tài sản
tài chính (Ben Nacuer và các cộng sự, 2014), khi đó lạm phát sẽ làm giảm sự phát triển
tài chính của các quốc gia. Cụ thể, Nacuer và các cộng sự (2007) đã tìm thấy bằng
chứng thực nghiệm cho thấy rằng lạm phát có tác động ngược chiều đến sự phát triển
tài chính của các quốc gia, và đặc biệt là sự phát triển thị trường chứng khoán. Boyd và
các cộng sự (2001) thì lại tìm thấy mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và sự phát
triển tài chính của các quốc gia, qua đó các tác giả cho rằng khi lạm phát vượt qua mức
ngưỡng tối ưu thì sự gia tăng trong lạm phát sẽ làm giảm sự phát triển tài chính của các
quốc gia.
Do đó, có thể thấy rằng lạm phát được cho rằng sẽ có tác động đáng kể đến phát
triển tài chính theo các kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước
đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số hồi quy của biến lạm phát trong phương trình hồi
quy có thể là dương hoặc âm nhưng phải có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, luận văn cũng
đo lường lạm phát bằng sự thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng của các quốc gia.
3.2.3. Đầu tư
Quyết định đầu tư của mỗi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế sẽ có thể tác động
đến các yếu tố kinh tế vĩ mô khác, không ngoại lệ thị trường chứng khoán và ngân
hàng đại diện cho sự phát triển tài chính cũng sẽ bị tác động (Kalim và Shahbaz, 2009).
Thật vậy, tỷ lệ đầu tư nội địa ngày càng gia tăng càng hàm ý rằng các nhà đầu tư bao
gồm các cá nhân và doanh nghiệp đang kỳ vọng nền kinh tế càng tăng trưởng và đang
tìm kiếm các cơ hội đầu tư với các suất sinh lời cao hơn (Kibuthu, 2005). Cho nên,
39
trong trường hợp này sẽ có hai tình huống xảy ra, khi các doanh nghiệp thực hiện các
quyết định đầu tư thông qua gia tăng tài sản cố định, mở rộng cơ sở hạ tầng thì sẽ có
thể giúp các doanh nghiệp cải thiện năng suất lao động và kết quả là thu được lợi
nhuận cao hơn. Khi lợi nhuận cao hơn thì cổ phiếu của các doanh nghiệp có thể sẽ
được thu hút bởi các nhà đầu tư và sẽ làm gia tăng giá trị thị trường của cổ phiếu công
truyền thống tại các ngân hàng thương mại, thì kênh đầu tư thông qua thị trường chứng
ty, nói cách khác giá trị vốn hóa thị trường gia tăng. Mặt khác, so với việc gửi tiết kiệm
khoán có thể giúp các nhà đầu tư cá nhân đạt được suất sinh lời cao hơn và do đó sẽ
tăng động cơ để các nhà đầu tư cá nhân thực hiện đầu tư vào thị trường chứng khoán
(Levine, 1991). Điều này sẽ làm tăng giá trị giao dịch của các cổ phiếu trên thị trường
và tăng giá trị vốn hóa thị trường (llmolelian, 2005). Nói cách khác, khi đó thị trường
chứng khoán đang có xu hướng phát triển. Các nghiên cứu thực nghiệm của Garcia và
Liu (1999), Yartey (2007), Billmeier và Massa (2009), Yartey (2010), cũng tìm thấy
rằng đầu tư nội địa sẽ giúp các quốc gia thúc đẩy quá trình phát triển thị trường chứng
khoán của các quốc gia này.
Do đó, có thể thấy rằng đầu tư nội địa được cho rằng sẽ có tác động cùng chiều
đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi
các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số hồi quy của đầu tư nội địa
trong phương trình hồi quy có thể là dương. Ngoài ra, luận văn cũng đo lường đầu tư
nội địa bằng tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP.
3.2.4. Tiết kiệm
Theo các nghiên cứu trước đây, tỷ lệ tiết kiệm được xem như là một yếu tố quan
trọng trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia (Laurencesen,
2001; Osinubi, 1998; Yartey và Adjasi, 2007; Ben Naceur và các cộng sự, 2007; Cherif
and Gazdar, 2010). Thật vậy, có thể thấy rằng lượng tiền tiết kiệm trong nền kinh tế
40
bởi các hộ gia đình sẽ có thể được xem như là lượng vốn khả dụng dùng để đầu tư và
tăng trưởng cho nền kinh tế trong tương lai (Nsofor, 2016). Thật vậy, Saksouk và Pires
(2007) đã cho rằng một phần của các khoản tiết kiệm của các hộ gia đình sẽ được cung
cấp cho các khoản đầu tư. Hơn thế nữa, Ojo và Adeusi (2012) cũng quan sát thấy rằng
giá trị vốn hóa thị trường tăng lên như là kết quả của sự gia tăng trong mức độ tiết
kiệm được chuyển sang kênh đầu tư. Nói cách khác, thị trường chứng khoán đang
trong quá trình phát triển cao hơn. Các nghiên cứu thực nghiệm của Garcia và Liu
(1999), Yartey (2007), Cherif và Gazdar (2010), Sukruoglu và Nalin (2014), Tsaurai
(2018) cũng tìm thấy rằng tiết kiệm nội địa sẽ giúp các quốc gia thúc đẩy quá trình phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia này.
Do đó, có thể thấy rằng tiết kiệm nội địa được cho rằng sẽ có tác động cùng
chiều đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực nghiệm được tìm
thấy bởi các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số hồi quy của tiết
kiệm nội địa trong phương trình hồi quy có thể là dương. Ngoài ra, luận văn cũng đo
lường tiết kiệm nội địa bằng tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP.
3.2.5. Chi tiêu chính phủ
Theo lý thuyết của Ken trong mô hình tổng chi tiêu, chi tiêu chính phủ được giả
định rằng sẽ mở rộng sản lượng kinh doanh và cung cấp các gói kích cầu kinh tế ngắn
hạn nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế. Mô hình này được ủng hộ bởi mô hình tăng
trưởng kinh tế của Ram (1986), trong đó mô hình này cho rằng chi tiêu chính phủ thật
sự có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế (Wu, 2014). Cho nên chi tiêu chính phủ
sẽ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường chứng khoán thông qua tác động
của chi tiêu chính phủ đến các quyết định và các hoat động của các công ty tư nhân và
các hộ gia đình trong nền kinh tế (Razin, 1987). Trong trường hợp các yếu tố khác
không đổi, doanh thu của công ty có thể gia tăng nhờ vào sự bảo hộ cao của chính phủ
41
và do đó sẽ có thể làm gia tăng lợi nhuận cũng như mức chi trả cổ tức dành cho các cổ
đông của công ty (điều này phụ thuộc vào chi phí và chính sách chi trả cổ tức của các
công ty). Khi lợi nhuận của các công ty được cải thiện cũng như mức chi trả cổ tức của
các công ty gây ấn tượng cho các cổ đông thì sẽ có thể giúp các công ty tăng tính hấp
dẫn của cổ phiếu công ty trên thị trường chứng khoán, và kết quả là thúc đẩy nhu cầu
giao dịch của các nhà đầu tư đối với các cổ phiếu này. Điều này sẽ làm tăng giá cổ
phiếu cũng như giá trị vốn hóa thị trường của các công ty, và cho nên tổng giá trị vốn
hóa của toàn bộ thị trường chứng khoán sẽ gia tăng tương ứng. Nói cách khác, khi đó
thị trường chứng khoán đã phát triển hơn. Hơn thế nữa, chi tiêu chính phủ có thể tác
động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán thông qua ảnh hưởng của chi tiêu
chính phủ đến thu nhập (tiền lương, thưởng…) của các nhân viên chính phủ. Các nhân
viên chính phủ có thể đầu tư một phần thu nhập của họ vào thị trường chứng khoán,
mặc dù điều này phụ thuộc đáng kể vào nhận thức của các nhân viên này về thị trường.
Tiền lương và thưởng là một phân chi tiêu thường xuyên của chính phủ, khi đó nếu
nhận thức của các nhân viên chính phủ về thị trường là tốt và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
của các nhân viên này cao hơn so với việc đầu tư thông thường, kết quả là các nhân
viên này sẽ tham gia vào thị trường chứng khoán, dẫn đến việc gia tăng khối lượng
giao dịch thị trường chứng khoán.
Do đó, có thể thấy rằng chi tiêu chính phủ được cho rằng sẽ có tác động cùng
chiều đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực nghiệm được tìm
thấy bởi các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số hồi quy của chi tiêu
chính phủ trong phương trình hồi quy có thể là dương. Ngoài ra, luận văn cũng đo
lường chi tiêu chính phủ bằng tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP.
3.2.6. Độ mở thương mại
42
Độ mở thương mại được xem như là một yếu tố phản ánh mức độ hội nhập
thương mại toàn cầu của các quốc gia. Do đó, độ mở cửa có thể tác động đến sự phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai yếu tố
này vẫn chưa thật sự rõ ràng, một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng độ mở
thương mại có tác động cùng chiều đến sự phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia, trong đó một số nghiên cứu lại cho rằng độ mở thương mại sẽ làm cản trở sự
phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia. Đối với mối quan hệ cùng chiều
giữa hai biến số này, các lý thuyết đã cho rằng độ mở thương mại sẽ mang đến hữu ích
cho sự phát triển tài chính của các quốc gia, bao gồm thị trường chứng khoán, theo hai
cách khác nhau. Trong đó hai cách này lần lượt là “cung dẫn dắt” và “cầu phụ thuộc”
(Niroomand và các cộng sự, 2014). Trong đó ở góc độ “cung dẫn dắt” thì độ mở
thương mại được xem là sẽ phát triển thị trường tài chính thông qua cung của thị
trường tài chính (Braun và Raddatz, 2005; Rajan và Zingales, 2003). Ở góc độ “cầu
phụ thuộc”, độ mở thương mại sẽ thúc đẩy mức độ phát triển của thị trường tài chính
bằng cách gia tăng nhu cầu của các sản phẩm và dịch vụ tài chính (Newbery và
Stiglitz, 1984; Svaleryd và Vlachos, 2002). Trong khi đó, đối với mối quan hệ ngược
chiều, một số nghiên cứu thực nghiệm như của Jin (2006), Baltagi và các cộng sự
(2009), Kim và các cộng sự (2011), và Ho (2017) tìm thấy độ mở thương mại sẽ cản
trở sự phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia.
Do đó, có thể thấy rằng độ mở thương mại được cho rằng sẽ có tác động đáng
kể đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực nghiệm được tìm thấy
bởi các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số hồi quy của độ mở
thương mại trong phương trình hồi quy có thể là dương hoặc âm nhưng phải có ý nghĩa
thống kê. Ngoài ra, luận văn cũng đo lường độ mở thương mại bằng tổng xuất khẩu và
nhập khẩu trên GDP.
3.2.7. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
43
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là một trong các đại diện
cho vấn đề hội nhập tài chính toàn cầu của các quốc gia trên thế giới. Do đó, dòng vốn
đầu tư trực tiếp cũng tương tự như độ mở thương mại và có tác động đáng kể đến phát
triển tài chính của các quốc gia, đặc biệt sự phát triển thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên, đối với mối quan hệ giữa hai yếu tố này thì các nghiên cứu thực nghiệm đưa ra
hai quan điểm trái chiều nhau. Chẳng hạn như Hausmann và Fernandez-Arias (2000)
đã tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng chảy vào các quốc
gia ít phát triển tài chính và đi kèm với chất lượng thể chế yếu kém. Cho nên, dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ trở thành một nguồn lực thay thế cho sự phát triển của
thị trường tài chính kém phát triển. Trong trường hợp này, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài sẽ có tác động ngược chiều đến sự phát triển tài chính của các quốc gia
nhận đầu tư. Quan điểm này cũng được ủng hộ bởi Rhee và Wang (2009) khi tìm thấy
mối quan hệ ngược chiều giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự phát triển thị
trường chứng khoán. Trái ngược với quan điểm này, Claessens và các cộng sự (2001)
lập luận rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia có đặc điểm
kinh tế vĩ mô cơ bản tốt, và chất lượng thể chế tương đối tốt, do đó, sẽ đẩy mạnh sự
phát triển hệ thống tài chính của các quốc gia này, bao gồm cả thị trường chứng khoán.
Cụ thể, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng
khoán bằng cách kích kích sự tham gia của các công ty vào thị trường vốn do thực tế
có thể thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tài trợ cho các dự án đầu tư với các
nguồn vốn bên ngoài. Hơn thế nữa, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể nâng
cao tính thanh khoản của thị trường chứng khoán nội địa thông qua việc mua và bán
các chứng khoán hiện hữu bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, quan điểm này
cũng được tìm thấy bởi nhiều nghiên cứu thực nghiệm của Jeffus (2004), Malik và
Amjad (2013).
44
Do đó, có thể thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cho rằng sẽ
có tác động đáng kể đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực
nghiệm được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn cho rằng hệ số
hồi quy của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phương trình hồi quy có thể là
dương hoặc âm nhưng phải có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, luận văn cũng đo lường
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chảy vào ròng trên GDP.
3.2.8. Chất lượng thể chế
Chất lượng thể chế được xem như là một trong các yếu tố quan trọng đối với sự
phát triển tài chính, đặc biệt là đối với sự phát triển thị trường chứng khoán bởi vì thể
chế hiệu quả và có trách nhiệm thì có xu hướng thu hút sự quan tâm và củng cố niềm
tin cho các nhà đầu tư. Do đó thị trường chứng khoán của các quốc gia có rủi ro chính
trị thấp sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Vì thế, sự phát triển của chất lượng thể chế tốt có thể
tác động đến sự hấp dẫn của quyết định đầu tư thị trường vốn và điều này sẽ làm gia
tăng phát triển thị trường chứng khoán. Thật vậy, các nghiên cứu lý thuyết đã cho rằng
các quốc gia có hệ thống luật chung (hệ thống luật Anh – Mỹ), mức độ bảo vệ lợi ích
của các cổ đông và các chủ nợ tốt hơn, hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả, thì có
thể thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia này (Pagano,
1993; La Porta và các cộng sự, 1997; Shleifer và Vishny, 1997; Levine và Zervos,
1998; Bekaert và Harvey, 2000; Henry, 2000; Mishkin, 2001; Svaleryd và Vlachos,
2002). Yartey (2007) tìm thấy rằng chất lượng thể chế tốt chẳng hạn như luật lệ, trách
nhiệm giải trình, chất lượng bộ máy nhà nước là một trong các yếu tố quan trọng xác
định sự phát triển của thị trường chứng khoán ở Châu phi bởi vì các yếu tố này có thể
làm giảm rủi ro chính trị và làm nâng cao tính khả thi của các khoản tài trợ bên ngoài.
Bekaert (1995) cung cấp bằng chứng cho thấy rằng mức độ rủi ro chính trị càng cao thì
sẽ có tương quan với mức độ phân khúc thị trường càng cao và kết quả là mức độ phát
45
triển thị trường chứng khoán sẽ thấp. Erb và các cộng sự (1996) cho thấy rằng tỷ suất
sinh lợi dự kiến thì có tương quan với mức độ rủi ro chính trị. Các tác giả tìm thấy rằng
ở các quốc gia đang phát triển lẫn đã phát triển, mức độ rủi ro chính trị thấp thì tỷ suất
sinh lợi cũng sẽ thấp. Bằng chứng này cho thấy rằng rủi ro chính trị là một yếu tố được
dùng để định giá, trong đó các nhà đầu tư sẽ yêu cầu thêm một phần bù rủi ro cho
quyết định đầu tư vào thị trường có rủi ro chính trị cao.
Do đó, có thể thấy rằng chất lượng thể chế được cho rằng sẽ có tác động tích
cực đến phát triển thị trường chứng khoán theo các kết quả thực nghiệm được tìm thấy
bởi các nghiên cứu trước đây. Vì thế, luận văn kỳ vọng hệ số hồi quy của biến chất
lượng thể chế trong phương trình hồi quy là dương và có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra,
luận văn cũng đo lường chất lượng thể chế bởi các yếu tố đại diện cho chất lượng thể
chế được tính toán bởi Nhóm Dịch vụ rủi ro chính trị.
Bảng 3.1. Tóm tắt đo lường và kỳ vọng dấu của các biến
Biến Ký hiệu Cách tính Dấu
Biến phụ thuộc: Phát triển thị trường chứng khoán
Giá trị vốn hóa Cap Tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường trên
GDP
Thanh khoản Turn Tỷ lệ giá trị giao dịch trên GDP
Biến độc lập
Nhóm biến vĩ mô
Tăng trưởng kinh tế GDPGR sự gia tăng trong GDP của các quốc +
gia
Lạm phát INFL sự thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng +/-
của các quốc gia
Đầu tư INV Tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP
46
Tiết kiệm SAV Tỷ lệ tiết kiệm trên GDP
Chi tiêu chính phủ GOVSIZE Tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP +
Nhóm biến hội nhập
Độ mở thương mại Tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu trên +/- TRADE GDP
Dòng vốn đầu tư trực Tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước +/- CAPFLOW tiếp nước ngoài ngoài chảy vào ròng trên GDP
Nhóm biến chất lượng thể chế
Luật pháp và an ninh LAW Chỉ số Luật pháp và an ninh của ICRG +
Chất lượng bộ máy tổ Chỉ số Chất lượng bộ máy tổ chức của + BURQUAL chức ICRG
Trách nhiệm giải trình Chỉ số Trách nhiệm giải trình dân chủ + DEMO dân chủ của ICRG
Tham nhũng CORRUPT Chỉ số Tham nhũng của ICRG +
Nguồn: Tác giả tổng hợp
3.3. Dữ liệu phân tích
Luận văn sử dụng dữ liệu của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2000 – 2017. Các số liệu mà luận văn
có được đến từ Bộ Chỉ tiêu Phát triển Thế giới, Bộ dữ liệu Phát triển tài chính toàn cầu
của Ngân hàng Thế giới (WorldBank) cũng như Nhóm Dịch vụ rủi ro chính trị. Để thu
được mẫu nghiên cứu phân tích thì luận văn thực hiện các bước như sau:
Đầu tiên các quốc gia được sử dụng để phân tích trong luận văn phải đảm bảo
rằng tại năm 2017, các số liệu có liên quan đến các biến số trong mô hình nghiên cứu
đều có đầy đủ.
47
Sau đó, luận văn cũng sẽ đảm bảo rằng dữ liệu của các quốc gia sẽ liên tục từ
năm bắt đầu có thị trường chứng khoán hoạt động đối với các quốc gia sau năm 2000
mới có thị trường chứng khoán hoạt động và từ năm 2000 đối với các quốc gia đã
thành lập thị trường chứng khoán trước đó.
Thông qua hai bước lọc mẫu này, luận văn có được mẫu nghiên cứu bao gồm 26
quốc gia phát triển và đang phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương từ
năm 2000 đến năm 2017. Cụ thể các quốc gia này được thể hiện trong bảng 3.2 sau.
Bảng 3.2. Chi tiết các quốc gia được phân tích
Stt Quốc gia Phân theo thu nhập Giai đoạn
1 Australia Thu nhập cao 2000 - 2017
2 Bahrain Thu nhập cao 2000 - 2017
3 Bangladesh Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017
4 China Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
5 India Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017
6 Indonesia Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017
7 Iran, Islamic Rep. Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
Thu nhập cao 2000 - 2017 8 Israel
Thu nhập cao 2000 - 2017 9 Japan
Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017 10 Jordan
11 Kazakhstan Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
12 Korea, Rep. Thu nhập cao 2000 - 2017
Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017 13 Lebanon
Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017 14 Malaysia
Thu nhập cao 2000 - 2017 15 Oman
Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017 16 Pakistan
48
17 Philippines Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017
18 Qatar Thu nhập cao 2005 - 2017
19 Russian Federation Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
20 Saudi Arabia Thu nhập cao 2000 - 2017
21 Singapore Thu nhập cao 2000 - 2017
22 Sri Lanka Thu nhập trung bình thấp hơn 2000 - 2017
23 Thailand Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
24 Turkey Thu nhập trung bình cao hơn 2000 - 2017
25 United Arab Emirates Thu nhập cao 2003 - 2017
26 Vietnam Thu nhập trung bình thấp hơn 2004 - 2017
Nguồn: Tác giả tổng hợp
3.4. Phương pháp phân tích
Luận văn thực hiện phương pháp hồi quy OLS tương tự như cách mà Ben
Naceur và các cộng sự (2014) cũng như nhiều nghiên cứu khác đã sử dụng khi phân
tích các yếu tố tác động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán của các quốc gia
trên thế giới. Phương pháp hồi quy OLS được biết đến là phương pháp hồi quy đơn
giản và cơ bản nhất, bởi vì đặc tính này, phương pháp hồi quy này yêu cầu các giả định
tương đối chặt chẽ. Theo đó, một kết quả hồi quy hiệu quả và đáng tin cậy khi nó thỏa
được các giả định sau:
Giả định đầu tiên: Mối tương quan giữa biến giải thích và biến phụ thuộc là mối
tương quan tuyến tính.
Giả định thứ hai: Không có đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình
phân tích
49
Giả định thứ ba: Không có tự tương quan trong phần dư của mô hình
Giả định thứ tư: Không có phương sai thay đổi trong phần dư của mô hình
Theo đó, một trong các giả định này bị vi phạm thì kết quả sau khi dùng OLS để
ước lượng sẽ không hiệu quả cũng như không đáng tin cậy.
Mặt khác, giả định thứ ba và thứ tư có thể được kiểm tra bằng việc áp dụng
kiểm định Wooldridge và Modified Wald. Theo đó, hai kiểm định này sẽ phân tích vấn
đề tự tương quan và phương sai thay đổi của phần dư mô hình nghiên cứu, với giả
thuyết H0: không có tự tương quan/phương sai thay đổi trong phần dư mô hình phân
tích. Nếu giả định thứ ba và thứ tư bị vi phạm thì sẽ phải dùng phương pháp hồi quy
FGLS. Phương pháp này được xem như là phương pháp có thể giải quyết vấn đề tự
tương quan và phương sai thay đổi hiệu quả nhất.
50
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê mô tả
Trước khi đến với phần phân tích tác động của các yếu tố đến sự phát triển của
thị trường chứng khoán của các quốc gia phát triển và đang phát triển khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương trong giai đoạn 2000 – 2017, luận văn thực hiện việc trình bày các
giá trị thống kê của các biến có trong mô hình phân tích nhằm mục đích tạo cái nhìn sơ
bộ cho người đọc. Các giá trị này, bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ
nhất, phân vị và giá trị lớn nhất, được luận văn thể hiện trong bảng 4.1.
Dựa vào các giá trị thống kê trong bảng 4.1, có thể nhận thấy rằng, nhìn chung
giá trị vốn hóa thị trường được thể hiện bởi biến CAP có giá trị bình quân đạt
61.0213% so với GDP của các quốc gia đạt được. Trong đó, Việt Nam năm 2004 là
quốc gia có giá trị vốn hóa thị trường thấp nhất trong mẫu nghiên cứu (biến CAP đạt
0.4086), điều này có nghĩa là Việt Nam vào năm 2004 là quốc gia có mức độ phát triển
thị trường chứng khoán kém nhất so với các quốc gia khác. Đồng thời, Úc năm 2017 là
quốc gia có giá trị vốn hóa thị trường cao nhất trong mẫu nghiên cứu (biến CAP đạt
333.8850), điều này có nghĩa là Úc vào năm 2017 là quốc gia có mức độ phát triển thị
trường chứng khoán cao nhất so với các quốc gia khác.
Hơn thế nữa giá trị giao dịch được đại diện bởi biến TURN có giá trị bình quân
đạt 37.3019% so với GDP của các quốc gia đạt được. Trong đó, Bangladesh năm 2015
là quốc gia có giá trị giao dịch thấp nhất trong mẫu nghiên cứu (biến TURN đạt
0.0004), điều này có nghĩa là Bangladesh vào năm 2015 là quốc gia có mức độ phát
triển thị trường chứng khoán kém nhất so với các quốc gia khác. Đồng thời, Saudi
Arabia năm 2006 là quốc gia có giá trị giao dịch cao nhất trong mẫu nghiên cứu (biến
51
TURN đạt 331.2710), điều này có nghĩa là Saudi Arabia năm 2006 là quốc gia có mức
độ phát triển thị trường chứng khoán cao nhất so với các quốc gia khác.
Bảng 4.1. Giá trị thống kê của các biến trong mô hình phân tích
Giá trị Độ lệch Giá trị Phân vị Giá trị Biến trung bình chuẩn nhỏ nhất 50 lớn nhất
CAP 61.0213 49.9051 0.4086 47.5007 333.8850
TURN 37.3019 46.0085 0.0004 17.1387 331.2710
GDPGR 4.9313 3.4956 -7.8209 4.9100 26.1703
INF 6.1901 8.4325 -25.1281 4.4695 52.9237
SAV 30.7903 15.5168 -7.3514 31.0639 75.5496
INV 27.2918 6.8565 14.1206 26.3155 47.6859
GOVSIZE 14.0338 5.1442 4.8457 13.1662 30.2563
TRADE 91.4170 71.4509 19.7981 70.9201 441.6038
CAPFLOW 3.6774 4.5206 -3.6228 2.2932 26.5212
LAW 4.0636 1.1485 1.0000 4.0000 11.5000
BURQUAL 2.4693 0.8032 1.0000 2.0000 4.0000
DEMO 3.5318 1.7080 0.0000 3.7500 6.0000
CORRUPT 2.5548 0.9283 1.0000 2.5000 5.0000
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
Trong đó, CAP đại diện phát triển thị trường chứng khoán được tính bởi tỷ lệ
vốn hóa thị trường trên GDP, TURN đại diện phát triển thị trường chứng khoán được
tính bởi tỷ lệ giá trị giao dịch trên GDP, GDPGR thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế
được tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị của GDP của mỗi quốc gia, INF thể
hiện lạm phát được tính bởi mức độ thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng, SAV thể hiện
52
mức độ tiết kiệm nội địa được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP, INV thể hiện
mức độ đầu tư nội địa được tính bởi tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP, GOVSIZE thể hiện
chi tiêu chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP, TRADE thể hiện
mức độ mở cửa thương mại được tính bởi tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP,
CAPFLOW thể hiện mức độ mở cửa tài chính được tính bởi tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài chảy vào trên GDP, LAW thể hiện mức độ luật pháp của quốc gia,
BURQUAL thể hiện mức độ chất lượng bộ máy tổ chức của quốc gia, DEMO thể hiện
trách nhiệm dân chủ của quốc gia, CORRUP thể hiện mức độ tham nhũng của quốc
gia.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDPGR) bình quân của các quốc gia đạt khoảng
4.9313%, điều này cho thấy rằng nhìn chung mỗi năm các quốc gia có mức độ tăng
trong GDP khoảng 4.9313% so với GDP của năm trước. Trong đó, Nga năm 2009 là
quốc gia có giá trị GDPGR thấp nhất khi đạt -7.8209%, và Quatar năm 2006 là quốc
gia có giá trị GDPGR cao nhất khi đạt 26.1705.
Lạm phát (INF) bình quân của các quốc gia đạt khoảng 6.1901%, điều này cho
thấy rằng nhìn chung mỗi năm các quốc gia có mức độ tăng trong chỉ số giá tiêu dùng
khoảng 6.1901% so với chỉ số giá tiêu dùng của năm trước. Trong đó, Oman năm 2009
là quốc gia có giá trị INF thấp nhất khi đạt -25.1281%, và Thổ Nhĩ Kỳ năm 2001 là
quốc gia có giá trị INF cao nhất khi đạt 52.92366.
Chi tiêu chính phủ (GOVSIZE) bình quân của các quốc gia đạt khoảng
14.0388%, điều này cho thấy rằng nhìn chung các quốc gia trong mẫu nghiên cứu đang
chi tiêu chính phủ khoảng 14.0388% so với GDP mà các quốc gia đạt được. Trong đó,
Bangladesh năm 2001 là quốc gia có giá trị GOVSIZE thấp nhất khi đạt 4.8457%, và
Oman năm 2017 là quốc gia có giá trị GOVSIZE cao nhất khi đạt 30.2563.
53
Độ mở thương mại (TRADE) bình quân của các quốc gia đạt khoảng 91.4170%,
điều này cho thấy rằng nhìn chung các quốc gia trong mẫu nghiên cứu đang có tổng
xuất nhập khẩu đạt 91.4170% so với GDP mà các quốc gia đạt được. Trong đó, Nhật
Bản năm 2001 là quốc gia có giá trị TRADE thấp nhất khi đạt 19.7981%, và Singapore
năm 2008 là quốc gia có giá trị TRADE cao nhất khi đạt 441.6038%.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (CAPFLOW) bình quân của các quốc gia
đạt khoảng 3.6774%, điều này cho thấy rằng nhìn chung các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu đang thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng đạt khoảng
3.6774% so với GDP mà các quốc gia đạt được. Trong đó, Úc năm 2005 là quốc gia có
giá trị CAPFLOW thấp nhất khi đạt -3.6228%, và Singapore năm 2007 là quốc gia có
giá trị CAPFLOW cao nhất khi đạt 26.5212%.
Hơn thế nữa, dựa vào bảng 4.2 trình bày mức độ phát triển thị trường chứng
khoán giữa các quốc gia thì có thể thấy rằng xét về giá trị vốn hóa, thì Singapore là
quốc gia có tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường trên GDP cao nhất trong giai đoạn nghiên
cứu, trong khi đó, xét về giá trị giao dịch thì Singapore lại là quốc gia có tỷ lệ giá trị
giao dịch trên GDP cao nhất so với các quốc gia khác.
Bảng 4.2. Mức độ phát triển thị trường chứng khoán giữa các quốc gia
Quốc gia Thu nhập CAP TURN
Australia Thu nhập cao 117.5212 71.6892
Bahrain Thu nhập cao 79.7741 3.3090
Bangladesh Thu nhập trung bình cận dưới 15.2594 37.3013
China Thu nhập trung bình cận trên 47.7575 186.1222
India Thu nhập trung bình cận dưới 63.9797 100.5093
Indonesia Thu nhập trung bình cận dưới 32.7464 34.2694
54
Iran, Islamic Rep Thu nhập trung bình cận trên 19.0637 19.3492
Israel Thu nhập cao 69.3446 36.2372
Japan Thu nhập cao 78.0317 110.5497
Jordan Thu nhập trung bình cận dưới 114.6275 28.5754
Kazakhstan Thu nhập trung bình cận trên 15.9620 9.5963
Korea, Rep. Thu nhập cao 73.2251 168.1073
Lebanon Thu nhập trung bình cận trên 21.7304 9.9682
Malaysia Thu nhập trung bình cận trên 131.5939 31.2851
Oman Thu nhập cao 38.2789 17.7598
Pakistan Thu nhập trung bình cận dưới 22.8771 173.8338
Philippines Thu nhập trung bình cận dưới 55.2043 16.8036
Qatar Thu nhập cao 94.7129 24.6399
Russian Federation Thu nhập trung bình cận trên 45.2045 44.6499
Saudi Arabia Thu nhập cao 70.1493 115.6644
Singapore Thu nhập cao 203.9854 50.1798
Sri Lanka Thu nhập trung bình cận dưới 19.4221 16.4849
Thailand Thu nhập trung bình cận trên 67.7226 82.0611
Turkey Thu nhập trung bình cận trên 24.7724 166.0823
United Arab Emirates Thu nhập cao 42.4371 30.5815
Vietnam Thu nhập trung bình cận dưới 17.8333 49.0320
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Sau khi thực hiện trình bày các giá trị thống kê của các biến có trong mô hình
phân tích, luận văn tiến hành lập ma trận tương quan giữa các biến số này với 02 mục
đích: (1) phân tích mối tương quan tuyến tính đơn biến giữa các biến độc lập và biến
phát triển thị trường chứng khoán, (2) xem xét mức độ tương quan giữa các biến độc
55
lập từ đó đánh giá vấn đề đa cộng tuyến có trong mô hình nghiên cứu hay không. Kết
quả này được trình bày trong bảng 4.3.
56
Bảng 4.3. Mối tương quan đơn biến giữa các biến
SAV INV GOVSIZE TRADE CAPFLOW LAW BURQUAL DEMO CORRUPT
CAP TURN GDPGR INF 1.00
CAP
TURN
0.58
1.00
GDPGR
0.03
-0.02
1.00
INF
-0.25
-0.16
0.15
1.00
SAV
0.23
0.17
0.22
0.07
1.00
INV
0.01
0.15
0.32
0.01
0.43
1.00
GOVSIZE
0.22
0.21
-0.28
-0.25
-0.04
-0.15 1.00
TRADE
0.61
0.17
-0.15 0.33
-0.07
-0.12
0.07
1.00
CAPFLOW 0.52
0.16
-0.04 0.06
0.01
-0.06
0.20
0.69
1.00
LAW
0.38
0.27
-0.09
-0.15 0.32
0.06
0.50
0.21
0.21
1.00
BURQUAL 0.52
0.37
-0.16
-0.33 0.01
-0.14 0.12
0.27
0.17
0.35
1.00
1.00
DEMO
0.08
0.04
-0.15
-0.20
-0.42
-0.11 0.05
-0.26
-0.19
0.02
0.46
0.21
CORRUPT 0.56
0.34
-0.15
-0.26 0.12
0.02
0.23
0.33
0.19
0.42
0.67
1.00
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
57
Dựa vào kết quả này, đầu tiên luận văn thấy rằng ngoại trừ lạm phát thì hầu như
các biến khác đều có mối tương quan tuyến tính đơn biến dương với phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia. Cụ thể, tiết kiệm, đầu tư, chi tiêu chính phủ, độ
mở thương mại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các yếu tố đại diện cho chất
lượng thể chế đều có tương quan dương với phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia. Điều này có nghĩa là tiết kiệm, đầu tư, chi tiêu chính phủ, độ mở thương mại,
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế sẽ
có xu hướng dịch chuyển cùng hướng với sự thay đổi của phát triển thị trường chứng
khoán của các quốc gia. Trong khi đó, lạm phát có tương quan dương với phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia. Điều này có nghĩa là lạm phát sẽ có xu hướng
dịch chuyển cùng hướng với sự thay đổi của phát triển thị trường chứng khoán của các
quốc gia.
Mặt khác, dựa vào mức độ tương quan giữa các biến độc lập có trong mô hình
phân tích thì có thể thấy rằng mối tương quan giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và độ mở thương mại có hệ số cao nhất và hệ số này lớn hơn mức 0.6 mà các tài
liệu nghiên cứu trước đây đưa ra. Nói cách khác, có thể tồn tại vấn đề đa cộng tuyến
trong mô hình phân tích khi mối tương quan giữa hai biến số này tương đối đáng kể.
Tuy nhiên, để kiểm tra thật sự có đa cộng tuyến không, luận văn sẽ sử dụng hệ số VIF
để kiểm tra vấn đề đa cộng tuyến có trong mô hình nghiên cứu hay không.
Bảng 4.4. Phân tích hệ số VIF
Biến VIF VIF VIF
TRADE 2.88 3.12
CAPFLOW 2.33 2.5
SAV 1.25 1.77 2.41
INV 1.33 1.52 1.64
58
1.2 1.28 1.31 GDPGR
1.15 1.24 1.77 GOVSIZE
1.09 1.18 1.29 INF
2.19 CORRUPT
2.03 DEMO
1.96 LAW
2.82 BURQUAL
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
Dựa vào bảng kết quả của kiểm định đa cộng tuyến bằng hệ số VIF 4.4 thì có
thể thấy rằng các hệ số VIF ở các trường hợp đều nhỏ hơn giá trị 10 mà các nghiên cứu
trước đây đã đề cập khi phân tích vấn đề đa cộng tuyến. Nói cách khác, hiện tượng đa
cộng tuyến không tồn tại trong mô hình nghiên cứu của luận văn mặc dù mối tương
quan giữa độ mở thương mại và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối cao.
4.2. Phân tích vấn đề tự tương quan và phương sai thay đổi
Như đã đề cập trong phần 3.4 phương pháp phân tích, phương pháp OLS là
phương pháp hay được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây khi nghiên cứu về các
yếu tố giải thích mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia.
Tuy nhiên, phương pháp này yêu cầu phải thỏa các giả định, trong đó có giả
định phương sai không đổi và không có TTQ. Cho nên luận văn sẽ sử dụng lần lượt
kiểm định Modified Wald và Wooldridge để kiểm tra hai giả định này.
Do đó, trong trường hợp một trong hai giả định bị vi phạm thì phương pháp
FGLS sẽ được sử dụng để thay thế cho phương pháp OLS, và ngược lại nếu cả hai giả
định đều được thỏa thì phương pháp OLS sẽ được áp dụng.
59
Bảng 4.5. Kết quả phân tích tự tương quan và phương sai thay đổi
Biến phụ Phương sai Tự tương Phương trình thuộc thay đổi quan
Biến vĩ mô 0.0000 0.0000
CAP Biến vĩ mô + biến hội nhập 0.0000 0.0000
Biến vĩ mô + biến hội nhập + thể chế 0.0000 0.0000
Biến vĩ mô 0.0000 0.0000
TURN Biến vĩ mô + biến hội nhập 0.0000 0.0000
Biến vĩ mô + biến hội nhập + thể chế 0.0000 0.0000
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
Kết quả kiểm tra giả định phương sai không đổi và không có TTQ được trình
bày trong bảng 4.5, dựa vào kết quả này, có thể thấy rằng các giá trị p-value của hai
kiểm định Modified Wald và Wooldridge đều bằng 0.000, nhỏ hơn mức ý nghĩa thống
kê 10%. Kết quả này cho thấy rằng giả thuyết H0 của hai kiểm định này sẽ bị bác bỏ.
Điều này có nghĩa là hai giả định phương sai không đổi và không có TTQ đều bị vi
phạm. Cho nên luận văn sử dụng phương pháp FGLS để ước lượng phương trình
nghiên cứu tác động của các yếu tố đến mức độ phát triển thị trường chứng khoán của
các quốc gia phát triển và đang phát triển tại Châu Á – Thái Bình Dương trong giai
đoạn 2000 – 2017.
4.3. Kết quả ước lượng
Như luận văn đề cập trong chương 03 phương pháp ước lượng, khi mô hình
nghiên cứu tồn tại vấn đề tự tương quan hoặc vấn đề phương sai thay đổi thì khi đó
phương pháp hồi quy OLS với ba dạng mô hình lần lượt là mô hình OLS gộp, mô hình
ảnh hưởng ngẫu nhiên, mô hình ảnh hưởng cố định sẽ không được sử dụng để ước
60
lượng phương trình nghiên cứu bởi vì kết quả thu được sẽ không hiệu quả và bị lệch đi
so với ước lượng phù hợp. Trong trường hợp này, luận văn nhận thấy rằng kiểm định
Wooldridge và Modifed Wald cho thấy rằng phần dư của mô hình có tự tương quan và
phương sai thay đổi. Do đó, luận văn sẽ áp dụng phương pháp hồi quy FGLS để tiến
hành ước lượng phương trình nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển tài chính
của các quốc gia ở Châu Á – Thái Bình Dương.
4.3.1. Biến phụ thuộc CAP
Trong phần này, luận văn trình bày kết quả hồi quy phương trình nghiên cứu với
biến phụ thuộc phát triển tài chính được đại diện bởi biến phát triển thị trường chứng
khoán CAP. Kết quả được thể hiện trong bảng 4.6 của luận văn. Đầu tiên, nhìn vào
bảng kết quả, luận văn tìm thấy rằng tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi biến
GDPGR thể hiện mối tương quan đồng biến với biến phát triển thị trường chứng khoán
ở mức ý nghĩa thống kê 1% (với hệ số hồi quy lần lượt ở 03 cột hồi quy là 0.5328,
0.4822, 0.4193). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng có tốc độ tăng trưởng kinh
tế càng cao thì sẽ càng mở rộng quy mô thị trường chứng khoán từ đó dẫn đến sự phát
triển tài chính của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với lập luận của giả thuyết cầu
phụ thuộc cũng như các kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi Levine (1997),
Demirguc – Kunt và Levine (1999), Garcia và Liu (1999), El-Wassal (2005), Yartey
(2008), Beck và các cộng sự (2009), Law và Habibullah (2009), Andrianavio và Yartey
(2010), Falahaty và Law (2013), Allen và các cộng sự (2014), Ben Naceur và các cộng
sự (2014), David và các cộng sự (2014), Ozkok (2015), Le và các cộng sự (2016).
Điều này có thể lập luận như sau, khi khu vực sản xuất vật chất (real sector) mở rộng
và phát triển, nền kinh tế càng phát triển thì khi đó có thể sẽ tạo ra các nhu cầu mới cho
các dịch vụ tài chính và sẽ gia tăng áp lực để thành lập các tổ chức tài chính lớn hơn và
tinh vi hơn để đáp ứng nhu cầu tài chính càng gia tăng như là một kết quả của sự tăng
trưởng trong khu vực sản xuất của nền kinh tế (real sector of the economy). Điều này
61
sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị trường của các công ty đang hoạt động trong nền
kinh tế. Nói cách khác, thị trường tài chính của quốc gia đang phát triển.
Bảng 4.6. Kết quả hồi quy phát triển tài chính đại diện bởi phát triển thị trường
chứng khoán CAP
Hệ số Hệ số Hệ số CAP (1) (2) (3)
0.5328*** 0.4822*** 0.4193*** GDPGR (3.05) (3.10) (2.75)
-0.1867** -0.1975*** -0.1881*** INF (-2.57) (-2.78) (-2.74)
0.7901*** 0.4991*** 0.5149*** SAV (5.19) (3.04) (3.49)
0.2057 0.1376 0.1285 INV (1.09) (0.72) (0.71)
1.0502*** 0.7088* 0.6412* GOVSIZE (2.63) (1.84) (1.75)
0.2583*** 0.2016*** TRADE (5.80) (5.02)
0.9676*** 0.9366*** CAPFLOW (3.53) (3.66)
-0.2532 LAW (-0.22)
20.3887*** BURQUAL (6.37)
DEMO 0.9148
62
(0.99)
3.1284** CORRUPT (2.32)
1.3093 -6.2873 -58.2825*** HỆ SỐ CHẶN (0.16) (-0.75) (-5.73)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
Trong đó, CAP đại diện phát triển thị trường chứng khoán được tính bởi tỷ lệ
giá trị vốn hóa thị trường trên GDP, GDPGR thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế được
tính bởi phần trăm thay đổi trong giá trị của GDP của mỗi quốc gia, INF thể hiện lạm
phát được tính bởi mức độ thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng, SAV thể hiện mức độ tiết
kiệm nội địa được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP, INV thể hiện mức độ đầu tư
nội địa được tính bởi tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP, GOVSIZE thể hiện chi tiêu chính
phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP, TRADE thể hiện mức độ mở cửa
thương mại được tính bởi tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP, CAPFLOW thể
hiện mức độ mở cửa tài chính được tính bởi tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chảy vào trên GDP, LAW thể hiện mức độ luật pháp của quốc gia, BURQUAL thể hiện
mức độ chất lượng bộ máy tổ chức của quốc gia, DEMO thể hiện trách nhiệm dân chủ
của quốc gia, CORRUP thể hiện mức độ tham nhũng của quốc gia.
Tiếp theo, luận văn phát hiện thấy rằng lạm phát của quốc gia được đại diện bởi
biến INF thể hiện mối tương quan ngược chiều với biến phát triển thị trường chứng
khoán ở mức ý nghĩa thống kê 5% (với hệ số hồi quy lần lượt ở 03 cột hồi quy là -
0.1867, -0.1975, -0.1881). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng có sự gia tăng
trong chỉ số giá tiêu dùng càng cao (lạm phát càng cao) thì sẽ càng cản trở quá trình
phát triển của thị trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu vực tài
chính của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với các kết quả thực nghiệm được tìm
63
thấy bởiAzariadas và Smith (1996), Choi và các cộng sự (1996), Huybens và Smith
(1998, 1999), Boyd và các cộng sự (2001), Claesses và các cộng sự (2001), Agbloyor
và các cộng sự (2013), Sukruoglu và Nalin (2014), Tsaurai (2018). Điều này có thể
được giải thích như là khi lạm phát gia tăng sẽ làm gia tăng sự bất ổn của kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế, do đó, sẽ làm cho các nhà đầu tư của các quốc gia này trở nên bi quan
với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng.
Cho nên có thể sẽ làm giảm giá trị vốn hóa của thị trường nếu các nhà đầu tư rút vốn
đầu tư về. Hơn thế nữa, theo công thức chiết khấu dòng tiền, khi lạm phát gia tăng, thì
sẽ làm giảm giá trị thực của tài sản tài chính, cụ thể ở đây là các cổ phiếu của các công
ty, do đó sẽ kéo theo sự sụt giảm trong hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán.
Kết quả là lạm phát tăng sẽ là cản trở quá trình phát triển của thị trường chứng khoán
cũng như quá trình phát triển của khu vực tài chính của các quốc gia.
Tiết kiệm nội địa được đại diện bởi biến SAV thể hiện mối tương quan đồng
biến với biến phát triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 1% (với hệ số
hồi quy lần lượt ở 03 cột hồi quy là 0.7901, 0.4991, 0.5149). Kết quả này hàm ý rằng
các quốc gia càng có mức độ tiết kiệm nội địa càng cao thì sẽ càng mở rộng quy mô thị
trường chứng khoán từ đó dẫn đến sự phát triển tài chính của các quốc gia. Phát hiện
này phù hợp với các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Garcia và Liu (1999),
Yartey (2007), Cherif và Gazdar (2010), Sukruoglu và Nalin (2014), Tsaurai (2018).
Điều này có thể lập luận như sau, có thể thấy rằng lượng tiền tiết kiệm trong nền kinh
tế bởi các hộ gia đình sẽ có thể được xem như là lượng vốn khả dụng dùng để đầu tư và
tăng trưởng cho nền kinh tế trong tương lai (Nsofor, 2016). Khi lượng vốn khả dụng
dùng để đầu tư gia tăng thì có nghĩa là các nhà đầu tư bao gồm các cá nhân và doanh
nghiệp đang kỳ vọng nền kinh tế càng tăng trưởng và đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư
với các suất sinh lời cao hơn (Kibuthu, 2005). Cho nên, trong trường hợp này sẽ có hai
tình huống xảy ra, khi các doanh nghiệp thực hiện các quyết định đầu tư thông qua gia
64
tăng tài sản cố định, mở rộng cơ sở hạ tầng thì sẽ có thể giúp các doanh nghiệp cải
thiện năng suất lao động và kết quả là thu được lợi nhuận cao hơn. Khi lợi nhuận cao
hơn thì cổ phiếu của các doanh nghiệp có thể sẽ được thu hút bởi các nhà đầu tư và sẽ
làm gia tăng giá trị thị trường của cổ phiếu công ty, nói cách khác giá trị vốn hóa thị
trường gia tăng. Mặt khác, so với việc gửi tiết kiệm truyền thống tại các ngân hàng
thương mại, thì kênh đầu tư thông qua thị trường chứng khoán có thể giúp các nhà đầu
tư cá nhân đạt được suất sinh lời cao hơn và do đó sẽ tăng động cơ để các nhà đầu tư cá
nhân thực hiện đầu tư vào thị trường chứng khoán (Levine, 1991). Điều này sẽ làm
tăng giá trị giao dịch của các cổ phiếu trên thị trường và tăng giá trị vốn hóa thị trường
(llmolelian, 2005).
Bên cạnh đó, luận văn phát hiện thấy rằng chi tiêu chính phủ của quốc gia được
đại diện bởi biến GOVSIZE thể hiện mối tương quan đồng biến với biến phát triển thị
trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 10% (với hệ số hồi quy lần lượt ở 03 cột
hồi quy là 1.0502, 0.7088, 0.6412). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng thực
hiện chi tiêu chính phủ càng nhiều thì sẽ càng thúc đẩy quá trình phát triển của thị
trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu vực tài chính của các quốc
gia. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng của lý thuyết của Ken trong mô hình tổng
chi tiêu cũng như mô hình tăng trưởng kinh tế của Ram (1986) và một số kết quả thực
nghiệm trước đây như La Porta và các cộng sự (1998), Lopez – de – Silandes và các
cộng sự (1997), Corray (2011), Ben Naceur và các cộng sự (2014). Cụ thể,chi tiêu
chính phủ được giả định rằng sẽ mở rộng sản lượng kinh doanh và cung cấp các gói
kích cầu kinh tế ngắn hạn nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế. Do đó, khi quốc gia gia
tăng chi tiêu chính phủ thì có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Wu, 2014). Trong
trường hợp này, lợi nhuận của các công ty càng gia tăng và nếu công ty chi trả cổ tức
càng nhiều thì sẽ thu hút các nhà đầu tư vào các công ty này, và kết quả là thúc đẩy nhu
cầu giao dịch của các nhà đầu tư đối với các cổ phiếu này. Điều này sẽ làm tăng giá cổ
65
phiếu cũng như giá trị vốn hóa thị trường của các công ty, và cho nên tổng giá trị vốn
hóa của toàn bộ thị trường chứng khoán sẽ gia tăng tương ứng.Nói cách khác, khi đó
thị trường chứng khoán đã phát triển hơn. Hơn thế nữa, chi tiêu chính phủ có thể tác
động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán thông qua ảnh hưởng của chi tiêu
chính phủ đến thu nhập (tiền lương, thưởng…) của các nhân viên chính phủ. Các nhân
viên chính phủ có thể đầu tư một phần thu nhập của họ vào thị trường chứng khoán,
mặc dù điều này phụ thuộc đáng kể vào nhận thức của các nhân viên này về thị trường.
Tiền lương và thưởng là một phân chi tiêu thường xuyên của chính phủ, khi đó nếu
nhận thức của các nhân viên chính phủ về thị trường là tốt và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
của các nhân viên này cao hơn so với việc đầu tư thông thường, kết quả là các nhân
viên này sẽ tham gia vào thị trường chứng khoán, dẫn đến việc gia tăng khối lượng
giao dịch thị trường chứng khoán.
Tương tự vậy, luận văn cũng phát hiện thấy rằng độ mở thương mại của quốc
gia được đại diện bởi biến TRADE thể hiện mối tương quan đồng biến với biến phát
triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 1% (với hệ số hồi quy lần lượt ở
02 cột là 0.2583, 0.2016). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng mở cửa giao
thương với các quốc gia trên thế giới càng nhiều thì sẽ càng thúc đẩy quá trình phát
triển của thị trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu vực tài chính
của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng của thuyết cung dẫn dắt và cầu
phụ thuộc cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Newbery và
Stiglitz (1984), Svaleryd và Vlachos (2002), Rajan và Zingales (2003), Braun và
Raddatz (2005), Law và Habibullah (2009), Ben Naceur và các cộng sự (2014),
Tsaurai (2018). Có thể giải thích phát hiện này như là các quốc gia càng hội nhập quốc
tế càng mạnh mẽ thì sẽ làm tăng các động lực để phát triển hệ thống tài chính cũng như
thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân trong công tác huy
66
động vốn để thực hiện các giao dịch quốc tế (Ben Naceur và các cộng sự, 2014). Kết
quả sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị trường của thị trường chứng khoán của quốc gia.
Hơn thế nữa, luận văn cũng phát hiện thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của quốc gia được đại diện bởi biến CAPFLOW thể hiện mối tương quan đồng
biến với biến phát triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 1% (với hệ số
hồi quy lần lượt ở 02 cột là 0.9676, 0.9366). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng
thực hiện tốt các chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sẽ càng
thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển
của khu vực tài chính của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với các bằng chứng thực
nghiệm được tìm thấy bởi Claessens và các cộng sự (2001), Jeffus (2004), El – Wassal
(2005), Law và Habibullah (2009), Agbloyor và các cộng sự (2013), Malik và Amjad
(2013), Ben Naceur và các cộng sự (2014), Tsaurai (2018). Có thể giải thích phát hiện
này như là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia có đặc điểm
kinh tế vĩ mô cơ bản tốt, và chất lượng thể chế tương đối tốt, do đó, sẽ đẩy mạnh sự
phát triển hệ thống tài chính của các quốc gia này, bao gồm cả thị trường chứng khoán.
Cụ thể, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng
khoán bằng cách kích kích sự tham gia của các công ty vào thị trường vốn do thực tế
có thể thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tài trợ cho các dự án đầu tư với các
nguồn vốn bên ngoài. Hơn thế nữa, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể nâng
cao tính thanh khoản của thị trường chứng khoán nội địa thông qua việc mua và bán
các chứng khoán hiện hữu bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Cuối cùng, trong số các yếu tố đại diện cho chất lượng thẻ chế thì chỉ có biến
đại diện cho chất lượng bộ máy tổ chức BURQUAL và tham nhũng CORRUPT cho
thấy mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia
ở mức ý nghĩa 1%. Điều này có nghĩa là các quốc gia có chất lượng thể chế càng tốt
thông qua chất lượng bộ máy tổ chức tốt và mức độ tham nhũng thấp thì sẽ có thể thúc
67
đẩy quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia này. Kết quả này
tương tự với các phát hiện của các nghiên cứu trước đây như Bekaert (1995), Erb và
các cộng sự (1996), Claesses và các cộng sự (2001), Yartey (2007), Billmeier và Massa
(2009), Law và Habibullah (2009), Yartey (2010). Có thể lập luận như là do thể chế
hiệu quả và có trách nhiệm thì có xu hướng thu hút sự quan tâm và củng cố niềm tin
cho các nhà đầu tư. Do đó thị trường chứng khoán của các quốc gia có rủi ro chính trị
thấp sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Vì thế, sự phát triển chả chất lượng thể chế tốt có thể tác
động đến sự hấp dẫn của quyết định đầu tư thị trường vốn và điều này sẽ làm gia tăng
phát triển thị trường chứng khoán.
4.3.2. Biến phụ thuộc TURN
Tiếp theo, luận văn trình bày kết quả hồi quy phương trình nghiên cứu với biến
phụ thuộc phát triển tài chính được đại diện bởi biến phát triển thị trường chứng khoán
TURN. Kết quả được thể hiện trong bảng 4.7 của luận văn. Đầu tiên, nhìn vào bảng kết
quả, luận văn tìm thấy rằng tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi biến GDPGR thể
hiện mối tương quan đồng biến với biến phát triển thị trường chứng khoán ở mức ý
nghĩa thống kê 1% (với hệ số hồi quy lần lượt ở 03 cột hồi quy là 0.5328, 0.4822,
0.4193). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng có tốc độ tăng trưởng kinh tế càng
cao thì sẽ càng mở rộng quy mô thị trường chứng khoán từ đó dẫn đến sự phát triển tài
chính của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với lập luận của giả thuyết cầu phụ
thuộc cũng như các kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi Levine (1997), Demirguc –
Kunt và Levine (1999), Garcia và Liu (1999), El-Wassal (2005), Yartey (2008), Beck
và các cộng sự (2009), Law và Habibullah (2009), Andrianavio và Yartey (2010),
Falahaty và Law (2013), Allen và các cộng sự (2014), Ben Naceur và các cộng sự
(2014), David và các cộng sự (2014), Ozkok (2015), Le và các cộng sự (2016). Điều
này có thể lập luận như sau, khi khu vực sản xuất vật chất (real sector) mở rộng và phát
triển, nền kinh tế càng phát triển thì khi đó có thể sẽ tạo ra các nhu cầu mới cho các
68
dịch vụ tài chính và sẽ gia tăng áp lực để thành lập các tổ chức tài chính lớn hơn và
tinh vi hơn để đáp ứng nhu cầu tài chínhcàng gia tăng như là một kết quả của sự tăng
trưởng trong khu vực sản xuất của nền kinh tế (real sector of the economy). Điều này
sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị trường của các công ty đang hoạt động trong nền
kinh tế. Nói cách khác, thị trường tài chính của quốc gia đang phát triển.
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy phát triển tài chính đại diện bởi phát triển thị trường
chứng khoán TURN
Hệ số Hệ số Hệ số TURN (1) (2) (3)
-0.0012 0.0286 -0.2172 GDPGR (-0.01) (0.13) (-0.86)
-0.0291 0.0962 0.1443 INF (-0.48) (0.98) (1.42)
0.2470** 0.2213* 0.2776** SAV (2.25) (1.82) (2.52)
0.1751 0.4838** 0.6747*** INV (1.19) (2.32) (3.15)
0.6196** 1.8261*** 1.6325*** GOVSIZE (2.14) (7.25) (5.46)
0.1194*** 0.0585** TRADE (4.40) (2.13)
0.2492 0.3486 CAPFLOW (0.71) (1.08)
-1.0256 LAW (-0.89)
69
14.6885*** BURQUAL (6.53)
1.2004 DEMO (1.33)
1.9791* CORRUPT (1.75)
-3.7374 -30.6781*** -69.8592*** HỆ SỐ CHẶN (-0.62) (-4.87) (-9.69)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả Stata 13
Trong đó, TURN đại diện phát triển thị trường chứng khoán được tính bởi tỷ lệ
giá trị giao dịch trên GDP, GDPGR thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bởi
phần trăm thay đổi trong giá trị của GDP của mỗi quốc gia, INF thể hiện lạm phát
được tính bởi mức độ thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng, SAV thể hiện mức độ tiết kiệm
nội địa được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP, INV thể hiện mức độ đầu tư nội
địa được tính bởi tỷ lệ đầu tư nội địa trên GDP, GOVSIZE thể hiện chi tiêu chính phủ
được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP, TRADE thể hiện mức độ mở cửa
thương mại được tính bởi tỷ lệ tổng xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP, CAPFLOW thể
hiện mức độ mở cửa tài chính được tính bởi tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chảy vào trên GDP, LAW thể hiện mức độ luật pháp của quốc gia, BURQUAL thể hiện
mức độ chất lượng bộ máy tổ chức của quốc gia, DEMO thể hiện trách nhiệm dân chủ
của quốc gia, CORRUP thể hiện mức độ tham nhũng của quốc gia.
Tiết kiệm nội địa được đại diện bởi biến SAV thể hiện mối tương quan đồng
biến với biến phát triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 1% (với hệ số
hồi quy lần lượt ở 03 cột hồi quy là 0.2470, 0.2213, 0.2776). Kết quả này hàm ý rằng
các quốc gia càng có mức độ tiết kiệm nội địa càng cao thì sẽ càng mở rộng quy mô thị
70
trường chứng khoán từ đó dẫn đến sự phát triển tài chính của các quốc gia. Phát hiện
này phù hợp với các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Garcia và Liu (1999),
Yartey (2007), Cherif và Gazdar (2010), Sukruoglu và Nalin (2014), Tsaurai (2018).
Đồng thời, biến đầu tư nội địa được đại diện bởi INV cũng cho thấy tác động tích cực
đến mức độ phát triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa 5%, ngoại trừ kết quả
trong cột (1). Điều này cho thấy rằng các quốc gia càng có mức độ đầu tư nội địa càng
cao thì sẽ càng mở rộng quy mô thị trường chứng khoán từ đó dẫn đến sự phát triển tài
chính của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với các bằng chứng thực nghiệm được
tìm thấy bởi Garcia và Liu (1999), Yartey (2007), Billmeier và Massa (2009), Yartey
(2010). Có thể giải thích hai kết quả nghiên cứu này như là, lượng tiền tiết kiệm trong
nền kinh tế bởi các hộ gia đình sẽ có thể được xem như là lượng vốn khả dụng dùng để
đầu tư và tăng trưởng cho nền kinh tế trong tương lai (Nsofor, 2016). Khi lượng vốn
khả dụng dùng để đầu tư gia tăng thì có nghĩa là các nhà đầu tư bao gồm các cá nhân
và doanh nghiệp đang kỳ vọng nền kinh tế càng tăng trưởng và đang tìm kiếm các cơ
hội đầu tư với các suất sinh lời cao hơn (Kibuthu, 2005). Cho nên, trong trường hợp
này sẽ có hai tình huống xảy ra, khi các doanh nghiệp thực hiện các quyết định đầu tư
thông qua gia tăng tài sản cố định, mở rộng cơ sở hạ tầng thì sẽ có thể giúp các doanh
nghiệp cải thiện năng suất lao động và kết quả là thu được lợi nhuận cao hơn. Khi lợi
nhuận cao hơn thì cổ phiếu của các doanh nghiệp có thể sẽ được thu hút bởi các nhà
đầu tư và sẽ làm gia tăng giá trị thị trường của cổ phiếu công ty, nói cách khác giá trị
vốn hóa thị trường gia tăng. Mặt khác, so với việc gửi tiết kiệm truyền thống tại các
ngân hàng thương mại, thì kênh đầu tư thông qua thị trường chứng khoán có thể giúp
các nhà đầu tư cá nhân đạt được suất sinh lời cao hơn và do đó sẽ tăng động cơ để các
nhà đầu tư cá nhân thực hiện đầu tư vào thị trường chứng khoán (Levine, 1991). Điều
này sẽ làm tăng giá trị giao dịch của các cổ phiếu trên thị trường và tăng giá trị vốn hóa
thị trường (llmolelian, 2005).
71
Bên cạnh đó, luận văn phát hiện thấy rằng chi tiêu chính phủ của quốc gia được
đại diện bởi biến GOVSIZE thể hiện mối tương quan đồng biến với biến phát triển thị
trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 5% (với hệ số hồi quy lần lượt ở 03 cột
hồi quy là 0.6196, 1.8261, 1.6325). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng thực
hiện chi tiêu chính phủ càng nhiều thì sẽ càng thúc đẩy quá trình phát triển của thị
trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu vực tài chính của các quốc
gia. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng của lý thuyết của Ken trong mô hình tổng
chi tiêu cũng như mô hình tăng trưởng kinh tế của Ram (1986) và một số kết quả thực
nghiệm trước đây như La Porta và các cộng sự (1998), Lopez – de – Silandes và các
cộng sự (1997), Corray (2011), Ben Naceur và các cộng sự (2014). Cụ thể, chi tiêu
chính phủ được giả định rằng sẽ mở rộng sản lượng kinh doanh và cung cấp các gói
kích cầu kinh tế ngắn hạn nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế. Do đó, khi quốc gia gia
tăng chi tiêu chính phủ thì có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Wu, 2014). Trong
trường hợp này, lợi nhuận của các công ty càng gia tăng và nếu công ty chi trả cổ tức
càng nhiều thì sẽ thu hút các nhà đầu tư vào các công ty này, và kết quả là thúc đẩy nhu
cầu giao dịch của các nhà đầu tư đối với các cổ phiếu này. Điều này sẽ làm tăng giá cổ
phiếu cũng như giá trị vốn hóa thị trường của các công ty, và cho nên tổng giá trị vốn
hóa của toàn bộ thị trường chứng khoán sẽ gia tăng tương ứng. Nói cách khác, khi đó
thị trường chứng khoán đã phát triển hơn. Hơn thế nữa, chi tiêu chính phủ có thể tác
động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán thông qua ảnh hưởng của chi tiêu
chính phủ đến thu nhập (tiền lương, thưởng…) của các nhân viên chính phủ. Các nhân
viên chính phủ có thể đầu tư một phần thu nhập của họ vào thị trường chứng khoán,
mặc dù điều này phụ thuộc đáng kể vào nhận thức của các nhân viên này về thị trường.
Tiền lương và thưởng là một phân chi tiêu thường xuyên của chính phủ, khi đó nếu
nhận thức của các nhân viên chính phủ về thị trường là tốt và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
của các nhân viên này cao hơn so với việc đầu tư thông thường, kết quả là các nhân
72
viên này sẽ tham gia vào thị trường chứng khoán, dẫn đến việc gia tăng khối lượng
giao dịch thị trường chứng khoán.
Tương tự vậy, luận văn cũng phát hiện thấy rằng độ mở thương mại của quốc
gia được đại diện bởi biến TRADE thể hiện mối tương quan đồng biến với biến phát
triển thị trường chứng khoán ở mức ý nghĩa thống kê 5% (với hệ số hồi quy lần lượt ở
02 cột là 0.1194, 0.0585). Kết quả này hàm ý rằng các quốc gia càng mở cửa giao
thương với các quốc gia trên thế giới càng nhiều thì sẽ càng thúc đẩy quá trình phát
triển của thị trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu vực tài chính
của các quốc gia. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng của thuyết cung dẫn dắt và cầu
phụ thuộc cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Newbery và
Stiglitz (1984), Svaleryd và Vlachos (2002), Rajan và Zingales (2003), Braun và
Raddatz (2005), Law và Habibullah (2009), Ben Naceur và các cộng sự (2014),
Tsaurai (2018). Có thể giải thích phát hiện này như là các quốc gia càng hội nhập quốc
tế càng mạnh mẽ thì sẽ làm tăng các động lực để phát triển hệ thống tài chính cũng như
thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân trong công tác huy
động vốn để thực hiện các giao dịch quốc tế (Ben Naceur và các cộng sự, 2014). Kết
quả sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị trường của thị trường chứng khoán của quốc gia.
Cuối cùng, trong số các yếu tố đại diện cho chất lượng thẻ chế thì chỉ có biến
đại diện cho chất lượng bộ máy tổ chức BURQUAL và tham nhũng CORRUPT cho
thấy mối quan hệ đồng biến với sự phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia
ở mức ý nghĩa 1%. Điều này có nghĩa là các quốc gia có chất lượng thể chế càng tốt
thông qua chất lượng bộ máy tổ chức tốt và mức độ tham nhũng thấp thì sẽ có thể thúc
đẩy quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia này. Kết quả này
tương tự với các phát hiện của các nghiên cứu trước đây như Bekaert (1995), Erb và
các cộng sự (1996), Claesses và các cộng sự (2001), Yartey (2007), Billmeier và Massa
(2009), Law và Habibullah (2009), Yartey (2010). Có thể lập luận như là do thể chế
73
hiệu quả và có trách nhiệm thì có xu hướng thu hút sự quan tâm và củng cố niềm tin
cho các nhà đầu tư. Do đó thị trường chứng khoán của các quốc gia có rủi ro chính trị
thấp sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Vì thế, sự phát triển chả chất lượng thể chế tốt có thể tác
động đến sự hấp dẫn của quyết định đầu tư thị trường vốn và điều này sẽ làm gia tăng
phát triển thị trường chứng khoán.
74
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN
5.1. Kết luận
Xuất phát từ mục tiêu phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát triển tài
chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017, luận văn tiến hành tổng quan các tài liệu
nghiên cứu trước đây về chủ đề phát triển tài chính và đặc biệt là phát triển thị trường
chứng khoán của các quốc gia để từ đó tìm hiểu tác động của các yếu tố đến mức độ
phát triển thị trường chứng khoán. Theo đó, luận văn đã áp dụng phương trình nghiên
cứu mà Ben Naceur và các cộng sự (2014) đã dùng khi nghiên cứu ở khu vực MENA.
Cụ thể, phương trình nghiên cứu của luận văn có sử dụng các biến số như tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, tiết kiệm, đầu tư nội địa, chi tiêu chính phủ, độ mở thương mại, dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và các thành phần chất lượng thể chế. Đồng thời, dựa
vào cơ sở dữ liệu có từ Ngân hàng Thế giới, Nhóm Dịch vụ Rủi ro Chính trị, luận văn
có được 26 quốc gia đã và đang phát triển trong giai đoạn 2000 – 2017 sau khi loại trừ
(i) các quốc gia không có số liệu ở năm 2017, và (ii) các quốc gia không có số liệu liên
tục từ 2000 – 2017. Hơn thế nữa, để hồi quy phương trình nghiên cứu này, luận văn sử
dụng phương pháp ước lượng FGLS thay vì dùng OLS như các nghiên cứu trước đây
đã dùng do qua kiểm định luận văn thấy rằng có tồn tại PSTĐ và TTQ trong mô hình
khi dùng OLS hồi quy. Kết quả luận văn tìm thấy rằng các yếu tố đưa vào mô hình
nghiên cứu dường như đều có tác động đáng kể đến mức độ phát triển thị trường chứng
khoán của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017.
Cụ thể, tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm, đầu tư nội địa, chi tiêu chính phủ, độ mở
thương mại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng bộ máy tổ chức quốc gia,
75
mức độ tham nhũng đều có tác động cùng chiều và đáng kể đến mức độ phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia phát triển và đang phát triển ở Châu Á – Thái
Bình Dương ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng các quốc gia có tăng
trưởng kinh tế càng cao, đầu tư nội địa càng nhiều, tỷ lệ tiết kiệm càng cao, chi tiêu
chính phủ càng nhiều, mở cửa giao thương với các quốc gia khác mạnh mẽ, thu hút
nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng bộ máy tổ chức quốc gia càng
cao, và kiểm soát tham nhũng càng tốt thì sẽ giúp các quốc gia thúc đẩy quá trình phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia.
Ngược lại, lạm phát lại được tìm thấy có tác động ngược chiều và đáng kể đến
mức độ phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia phát triển và đang phát
triển ở Châu Á – Thái Bình Dương ở mức ý nghĩa 10%.Nói cách khác, tỷ lệ lạm phát
càng cao thì sẽ cản trở quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia.
5.2. Hàm ý chính sách
Từ các kết quả thực nghiệm mà luận văn phát hiện đối với mẫu nghiên cứu bao
gồm các quốc gia phát triển và đang phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương từ năm 2000 – 2017 thì luận văn đưa ra một số hàm ý chính sách dành cho các
nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia này nhằm thúc đẩy quá trình phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia.
Đầu tiên, tăng trưởng kinh tế và thị trường chứng khoán được xem như là bộ đôi
hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, tăng trường kinh tế sẽ có thể thúc đẩy quá trình phát
triển thị trường chứng khoán của các quốc gia cũng như khi thị trường chứng khoán
phát triển thì cũng hỗ trợ nền kinh tế tăng trường. Điều này phù hợp với quan điểm
cung dẫn dắt và cầu phụ thuộc, nhưng do luận văn đang tập trung vào các hàm ý chính
sách thúc đẩy quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia, nên luận
76
văn chỉ đưa ra hàm ý liên quan đến tăng trường kinh tế sẽ có thể thúc đẩy quá trình
phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia. Cho nên các nhà hoạch định chính
sách của các quốc gia cần phải nghiên cứu và phân tích sử dụng các chính sách tiền tệ
và tài khóa cho phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sẽ gián tiếp kích thích sự
phát triển thị trường chứng khoán. Cụ thể trong trường hợp này, có thể thấy rằng khi
khu vực sản xuất vật chất (real sector) mở rộng và phát triển, nền kinh tế càng phát
triển thì khi đó có thể sẽ tạo ra các nhu cầu mới cho các dịch vụ tài chính và sẽ gia tăng
áp lực để thành lập các tổ chức tài chính lớn hơn và tinh vi hơn để đáp ứng nhu cầu tài
chính càng gia tăng như là một kết quả của sự tăng trưởng trong khu vực sản xuất của
nền kinh tế (real sector of the economy). Điều này sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị
trường của các công ty đang hoạt động trong nền kinh tế. Nói cách khác, thị trường tài
chính của quốc gia đang phát triển.
Tiếp theo, lạm phát được tìm thấy là yếu tố sẽ cản trở quá trình phát triển thị
trường chứng khoán của các quốc gia. Cho nên các nhà hoạch định chính sách của các
quốc gia cần phải nghiên cứu và phân tích sử dụng các chính sách tiền tệ và tài khóa
cho phù hợp để hạn chế sự gia tăng đáng kể trong lạm phát. Bởi vì khi lạm phát gia
tăng sẽ làm gia tăng sự bất ổn của kinh tế vĩ mô của nền kinh tế, do đó, sẽ làm cho các
nhà đầu tư của các quốc gia này trở nên bi quan với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng. Cho nên có thể sẽ làm giảm giá trị vốn
hóa của thị trường nếu các nhà đầu tư rút vốn đầu tư về. Hơn thế nữa, theo công thức
chiết khấu dòng tiền, khi lạm phát gia tăng, thì sẽ làm giảm giá trị thực của tài sản tài
chính, cụ thể ở đây là các cổ phiếu của các công ty, do đó sẽ kéo theo sự sụt giảm trong
hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán. Kết quả là lạm phát tăng sẽ là cản trở
quá trình phát triển của thị trường chứng khoán cũng như quá trình phát triển của khu
vực tài chính của các quốc gia. Tuy nhiên, một tỷ lệ lạm phát tương đối thấp và thậm
77
chí âm cũng có thể là một tín hiệu xấu của nền kinh tế, do đó các nhà hoạch định chính
sách cần lưu ý vấn đề này khi kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh đó, đầu tư nội địa và tiết kiệm nội địa cũng cần được các nhà hoạch
định chính sách quan tâm hơn khi có nhu cầu kích thích quá trình phát triển của thị
trường chứng khoán. Do lượng tiền tiết kiệm trong nền kinh tế bởi các hộ gia đình sẽ
có thể được xem như là lượng vốn khả dụng dùng để đầu tư và tăng trưởng cho nền
kinh tế trong tương lai (Nsofor, 2016). Khi lượng vốn khả dụng dùng để đầu tư gia
tăng thì có nghĩa là các nhà đầu tư bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp đang kỳ vọng
nền kinh tế càng tăng trưởng và đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư với các suất sinh lời
cao hơn (Kibuthu, 2005). Cho nên, trong trường hợp này sẽ có hai tình huống xảy ra,
khi các doanh nghiệp thực hiện các quyết định đầu tư thông qua gia tăng tài sản cố
định, mở rộng cơ sở hạ tầng thì sẽ có thể giúp các doanh nghiệp cải thiện năng suất lao
động và kết quả là thu được lợi nhuận cao hơn. Khi lợi nhuận cao hơn thì cổ phiếu của
các doanh nghiệp có thể sẽ được thu hút bởi các nhà đầu tư và sẽ làm gia tăng giá trị thị
trường của cổ phiếu công ty, nói cách khác giá trị vốn hóa thị trường gia tăng. Mặt
khác, so với việc gửi tiết kiệm truyền thống tại các ngân hàng thương mại, thì kênh đầu
tư thông qua thị trường chứng khoán có thể giúp các nhà đầu tư cá nhân đạt được suất
sinh lời cao hơn và do đó sẽ tăng động cơ để các nhà đầu tư cá nhân thực hiện đầu tư
vào thị trường chứng khoán (Levine, 1991). Điều này sẽ làm tăng giá trị giao dịch của
các cổ phiếu trên thị trường và tăng giá trị vốn hóa thị trường (llmolelian, 2005).
Chi tiêu chính phủ cũng cần được các nhà hoạch định chính sách đánh giá và
xem xét khi muốn đẩy mạnh quá trình phát triển thị trường chứng khoán.chi tiêu chính
phủ được giả định rằng sẽ mở rộng sản lượng kinh doanh và cung cấp các gói kích cầu
kinh tế ngắn hạn nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế. Cụ thể chính phủ của các quốc gia
có thể thực hiện việc chi tiêu chính phủ vào chi đầu tư và phát triển thông qua việc
nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
78
động cho hệ thống giao dịch cũng như cải thiện tính ổn định của hệ thống giao dịch
trên thị trường chứng khoán. Do đó, khi quốc gia gia tăng chi tiêu chính phủ thì có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Wu, 2014). Trong trường hợp này, lợi nhuận của các
công ty càng gia tăng và nếu công ty chi trả cổ tức càng nhiều thì sẽ thu hút các nhà
đầu tư vào các công ty này, và kết quả là thúc đẩy nhu cầu giao dịch của các nhà đầu tư
đối với các cổ phiếu này. Điều này sẽ làm tăng giá cổ phiếu cũng như giá trị vốn hóa
thị trường của các công ty, và cho nên tổng giá trị vốn hóa của toàn bộ thị trường
chứng khoán sẽ gia tăng tương ứng.Nói cách khác, khi đó thị trường chứng khoán đã
phát triển hơn.
Vấn đề hội nhập quốc tế cũng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đặc biệt là vấn đề
giao thương với các quốc gia trên thế giới. Cụ thể các nhà hoạch định chính sách cần
nghiên cứu các chính sách giao thương với các quốc gia khác nhằm tăng độ mở thương
mại để có thể thúc đẩy quá trình phát triển thị trường chứng khoán của các quốc gia.
Do các quốc gia càng hội nhập quốc tế càng mạnh mẽ thì sẽ làm tăng các động lực để
phát triển hệ thống tài chính cũng như thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp, cá nhân trong công tác huy động vốn để thực hiện các giao dịch quốc tế (Ben
Naceur và các cộng sự, 2014). Kết quả sẽ làm gia tăng giá trị vốn hóa thị trường của thị
trường chứng khoán của quốc gia.
Tương tự như độ mở thương mại, chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài cũng cần được phân tích kỹ lưỡng nếu các nhà hoạch định chính sách đang
muốn phát triển thị trường chứng khoán. Do dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy
vào các quốc gia có đặc điểm kinh tế vĩ mô cơ bản tốt, và chất lượng thể chế tương đối
tốt, do đó, sẽ đẩy mạnh sự phát triển hệ thống tài chính của các quốc gia này, bao gồm
cả thị trường chứng khoán. Cụ thể, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy sự
phát triển thị trường chứng khoán bằng cách kích kích sự tham gia của các công ty vào
thị trường vốn do thực tế có thể thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tài trợ cho
79
các dự án đầu tư với các nguồn vốn bên ngoài. Hơn thế nữa, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể nâng cao tính thanh khoản của thị trường chứng khoán nội địa thông
qua việc mua và bán các chứng khoán hiện hữu bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Cuối cùng, vấn đề thể chế cũng là vấn đề cần được xem xét và phân tích thận
trọng khi các nhà hoạch định chính sách đang muốn phát triển thị trường chứng khoán.
Cụ thể các nhà hoạch định chính sách cần phải cố gắng cải thiện chất lượng bộ máy tổ
chức và kiểm soát tham nhũng tốt hơn để từ tạo nên môi trường pháp lý chặt chẽ, hiệu
quả hơn và tạo tâm lý an tâm, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
cũng như có thể giảm thiểu rủi ro đầu tư cho các nhà đầu tư khi quyền sở hữu được các
quốc gia quan tâm nhiều hơn, kết quả là có thể giúp quốc gia thúc đẩy quá trình phát
triển thị trường chứng khoán. Bởi vì thể chế hiệu quả và có trách nhiệm thì có xu
hướng thu hút sự quan tâm và củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, do đó thị trường
chứng khoán của các quốc gia có rủi ro chính trị thấp sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Vì thế, sự
phát triển của chất lượng thể chế tốt có thể tác động đến sự hấp dẫn của quyết định đầu
tư thị trường vốn và điều này sẽ làm gia tăng phát triển thị trường chứng khoán.
5.3. Hạn chế đề tài
Có thể thấy rằng luận văn đã phần nào giải quyết được mục tiêu và câu hỏi
nghiên cứu đặt ra trong chương 1 của đề tài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề
tài, học viên cảm thấy vẫn còn nhiều hạn chế. Các hạn chế này bao gồm:
Đầu tiên, do số liệu phát triển tài chính và đặc biệt là phát triển thị trường chứng
khoán qua hai chỉ tiêu tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường trên GDP và tỷ lệ giá trị giao dịch
trên GDP bị hạn chế vì phụ thuộc đáng kể vào cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới
nên dữ liệu mà luận văn có được bị thiếu sót so với mong muốn của học viên. Cụ thể
80
luận văn chỉ có được số liệu của 26 quốc gia ở Châu Á – Thái Bình Dương. Do đó, hạn
chế đầu tiên có liên quan đến vấn đề số lượng quốc gia.
Hạn chế thứ hai thì có liên quan đến giai đoạn nghiên cứu. Trong đề tài này, giai
đoạn nghiên cứu trải dài từ năm 2000 đến năm 2017, mà trong giai đoạn này có xảy ra
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ở năm 2007, 2008. Do đó, có thể các số liệu có
liên quan đến mô hình nghiên cứu có thể bị ảnh hưởng đáng kể dẫn đến các kết quả
thực nghiệm có được không như mong đợi.
Hạn chế thứ ba của luận văn có liên quan đến các đo lường đại diện cho phát
triển tài chính. Cụ thể luận văn chỉ dùng sự phát triển thị trường chứng khoán đại diện
cho phát triển tài chính của các quốc gia mà vẫn chưa dùng để các chỉ số đo lường sự
phát triển ngành ngân hàng khi đại diện cho phát triển tài chính của các quốc gia. Vì
thế kết quả mà luận văn đạt được chủ yếu hướng đến thị trường chứng khoán.
Cuối cùng, mô hình nghiên cứu của luận văn được dựa vào phương trình nghiên
cứu của Ben Naceur và các cộng sự (2014), do đó có nhiều yếu tố khác có tác động đến
phát triển thị trường chứng khoán nhưng không được đưa vào mô hình nghiên cứu. Vì
thế đây là hạn chế cuối cùng của đề tài.
5.4. Hướng nghiên cứu sau này
Từ các hạn chế đề tài trong phần 5.3, luận văn đề cập đến một số hướng nghiên
cứu tiếp theo để có thể khắc phục các hạn chế này.
Đầu tiên, các nghiên cứu sau này có thể cố gắng mở rộng mẫu nghiên cứu bằng
cách gia tăng số lượng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Thứ hai, các nghiên cứu sau này có thể sử dụng biến giả đại diện khủng hoảng
tài chính hoặc phân tách giai đoạn nghiên cứu thành hai giai đoạn trước và sau khủng
81
hoảng tài chính nhằm giảm bớt/loại trừ ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến các
số liệu có liên quan đến mô hình nghiên cứu.
Thứ ba, các nghiên cứu sau này có thể sử dụng thêm các chỉ số đo lường phát
triển ngành ngân hàng để đại diện cho phát triển tài chính, đồng thời các nghiên cứu
sau này cũng có thể sử dụng thêm phương pháp PCA để có thể tính toán được chỉ số
phát triển tài chính từ thị trường chứng khoán và ngành ngân hàng.
Cuối cùng, các nghiên cứu sau này có thể phân tích thêm các yếu tố có tác động
đến mức độ phát triển thị trường chứng khoán nhằm phân tích tác động toàn diện của
các yếu tố đến quá trình phát triển này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adjasi, C. K., & Yartey, C. A. (2007). Stock market development in Sub-
Saharan Africa: Critical issues and challenges (No. 7-209). International Monetary
Fund.
Agbloyor, E. K., Abor, J., Adjasi, C. K. D., & Yawson, A. (2013).Exploring the
causality links between financial markets and foreign direct investment in
Africa. Research in International Business and Finance, 28, 118-134.
Allen, F., Carletti, E., Cull, R., Qian, J. Q., Senbet, L., & Valenzuela, P. (2014).
The African financial development and financial inclusion gaps. Journal of African
economies, 23(5), 614-642.
Beck, T., & Levine, R. (2004). Stock markets, banks, and growth: Panel
evidence. Journal of Banking & Finance, 28(3), 423-442.
Ben Naceur, S. B., Cherif, M., & Kandil, M. (2014). What drives the
development of the MENA financial sector?. Borsa Istanbul Review, 14(4), 212-223.
Billmeier, A., & Massa, I. (2009). What drives stock market development in
emerging markets—institutions, remittances, or natural resources?. Emerging Markets
Review, 10(1), 23-35.
Cherif, M., & Gazdar, K. (2010). Macroeconomic and institutional determinants
of stock market development in MENA region: new results from a panel data
analysis. International Journal of Banking and Finance, 7(1), 139-159.
Demirguc – Kunt A., & Levine, R. (1999). Bank-based and market-based
financial systems: Cross-country comparisons. The World Bank.
El-Wassal, K. A. (2005).Understanding the growth in emerging stock
markets. Journal of Emerging Market Finance, 4(3), 227-261.
Floros, C. (2014). Football and stock returns: New evidence. Procedia
Economics and Finance, 14, 201-209.
Garcia, V. F., & Liu, L. (1999). Macroeconomic determinants of stock market
development. Journal of Applied Economics, 2(1).
Ho, S. Y., & Njindan Iyke, B. (2017). Determinants of stock market
development: A review of the literature. Studies in Economics and Finance, 34(1),
143-164.
Kalim, R., & Shahbaz, M. (2009). Impact of foreign direct investment on stock
market development: the case of Pakistan. In Global Conference on Business and
Economics, ISBN (pp. 978-0).
Kibuthu, W. (2005). Capital markets in emerging economies: A case study of
the Nairobi Stock Exchange.
Kurach, R. (2010). Stock market development in CEE countries–the panel data
analysis. Ekonomika, 89.
Malik, I., & Amjad, S. (2013). Foreign direct investment and stock market
development in Pakistan. Journal of International Trade Law and Policy, 12(3), 226-
242.
Mishkin, F. S., & White, E. N. (2002). US stock market crashes and their
aftermath: implications for monetary policy (No. w8992). National bureau of economic
research.
Newbery, D. M., & Stiglitz, J. E. (1984).Pareto inferior trade. The Review of
Economic Studies, 51(1), 1-12.
Nsofor, E. S. (2016). Impact of Investment on Stock Market Development in
Nigeria. International Journal of Financial Economics, 5(1), 1-11.
Ozkok, Z. (2015). Financial openness and financial development: an analysis
using indices. International Review of Applied Economics, 29(5), 620-649.
Porta, R. L., Lakonishok, J., Shleifer, A., & Vishny, R. (1997). Good news for
value stocks: Further evidence on market efficiency. The Journal of Finance, 52(2),
859-874.
Rhee, S. G., & Wang, J. (2009). Foreign institutional ownership and stock
market liquidity: Evidence from Indonesia. Journal of Banking & Finance, 33(7),
1312-1324.
Stiglitz, J. E. (1985). Credit markets and the control of capital. Journal of
Money, credit and Banking, 17(2), 133-152.
Sukruoglu, D., & Nalin, H. T. (2014). The macroeconomic determinants of
stock market development in selected European countries: Dynamic panel data
analysis. International Journal of Economics and Finance, 6(3), 64-71.
Svaleryd, H., & Vlachos, J. (2002). Markets for risk and openness to trade: how
are they related?. Journal of International Economics, 57(2), 369-395.
Thanh, S. D., Hoai, B. T. M., & Van Bon, N. (2017). Determinants of stock
market development: The case of developing countries and Vietnam. Journal of
Economic Development, (JED, Vol. 24 (1)), 30-51.
Tsaurai, K. (2018). What Are the Determinants of Stock Market Development
in Emerging Markets?. Academy of Accounting & Financial Studies Journal, 22(2).
Yartey, C. A. (2007). Well-developed financial intermediary sector promotes
stock market development: Evidence from Africa. Journal of Emerging Market
Finance, 6(3), 269-289.
Zingales, L., & Rajan, R. G. (2003). Banks and markets: The changing
character of European finance (No. w9595). National Bureau of Economic Research.
PHỤ LỤC
Kiểm tra đa cộng tuyến
CAP + biến vĩ mô
CAP + biến vĩ mô + biến hội nhập
CAP + biến vĩ mô + biến hội nhập + thể chế
TURN + biến vĩ mô
TURN + biến vĩ mô + biến hội nhập
TURN + biến vĩ mô + biến hội nhập + thể chế