Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI
lượt xem 5
download
Luận văn hướng tới mục đích khảo sát, tìm hiểu những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ ca mười năm đầu thế kỷ XXI, từ đó góp phần nhận diện nền thơ ca Việt Nam đương đại. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ––––––––––––––––––––––––– TRẦN THỊ MINH TÂM c¶m høng thÕ sù ®êi t- trong th¬ viÖt nam m-êi n¨m ®Çu thÕ kû xxi LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM Hà Nội - 2012
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ––––––––––––––––––––––––– TRẦN THỊ MINH TÂM c¶m høng thÕ sù ®êi t- trong th¬ viÖt nam m-êi n¨m ®Çu thÕ kû xxi Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Văn Lân Hà Nội - 2012
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .............................................. 6 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 7 5. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 7 NỘI DUNG........................................................................................................ 8 Chƣơng 1. TÌNH HÌNH XÃ HỘI VÀ THƠ CA VIỆT NAM MƢỜI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI .......................................................................................... 8 1.1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI ......................................................... 8 1.2. Đời sống thơ ca mƣời năm đầu thế kỷ XXI......................................... 9 1.2.1. Cách tân là vấn đề cấp thiết của thơ ca .......................................... 9 1.2.2. Phong trào cách tân và cuộc cách mạng thơ chưa thành ........... 13 1.3. Những cảm hứng chính của thơ mƣời năm đầu thế kỷ XXI ........... 24 1.3.1. Cảm hứng sử thi ............................................................................. 25 1.3.2. Cảm hứng thế sự ............................................................................ 27 1.3.3. Cảm hứng đời tư ............................................................................ 29 Chƣơng 2. NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ........................................................................................ 31 2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ Việt Nam mƣời năm đầu thế kỷ XXI . 31 2.1.1. Ký ức chiến tranh vẫn còn ám ảnh ............................................... 31 2.1.2. Thơ mở rộng phản ánh các hiện trạng xã hội trên bình diện đạo đức .......................................................................................................... 33 2.1.3. Niềm tin vào những điều tốt đẹp .................................................. 39 2.1.4. Trở về với các giá trị truyền thống ................................................ 39 2.1.5. Hà Nội - kinh đô văn hiến nghìn năm .......................................... 44
- 2.1.6. Những suy ngẫm về thơ ca ............................................................ 48 2.2. Cảm hứng đời tƣ trong thơ Việt Nam mƣời năm đầu thế kỷ XXI . 50 2.2.1. Nhu cầu thể hiện cái tôi ................................................................. 50 2.2.2. Tình yêu là đề tài vĩnh cửu ............................................................ 55 2.2.3. Tình cảm gia đình .......................................................................... 60 2.2.4. Thế giới tâm linh ............................................................................ 62 Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG THƠ VIỆT NAM MƢỜI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ................................................................. 67 3.1. Thể loại.................................................................................................. 67 3.1.1. Duy trì các thể thơ truyền thống .................................................... 69 3.1.2. Tự do hoá hình thức thơ ................................................................ 74 3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................... 80 3.2.1. Ngôn ngữ đời thường, trần tục...................................................... 81 3.2.2. Ngôn ngữ trong sáng, giản dị ........................................................ 83 3.2.3. Ngôn ngữ hàm súc ......................................................................... 85 3.3. Hình ảnh ............................................................................................... 87 3.3.1. Những hình ảnh mang tính dân gian ........................................... 87 3.3.2. Những hình ảnh đời thường, trần tục hóa ................................... 88 3.3.3. Những hình ảnh lạ hóa mang màu sắc siêu thực ........................ 93 3.4. Giọng điệu............................................................................................. 95 3.4.1. Giọng giãi bày, tâm sự ................................................................... 96 3.4.2. Giọng chiêm nghiệm, triết lý.......................................................... 97 3.4.3. Giọng tự sự khách quan ............................................................... 99 3.4.4. Giọng cảm thương ........................................................................ 100 KẾT LUẬN ................................................................................................... 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 106 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong những năm gần đây thơ không đạt được nhiều thành tựu như là tiểu thuyết. Điều này không lạ bởi lẽ quy luật sáng tạo thẩm mĩ cho thấy các thể loại không bao giờ phát triển song hành cùng nhau. Tuy vậy, thơ vẫn là thể loại văn học giàu truyền thống nhất trong các thể loại văn học. Xét về mặt lịch sử, thơ là một “thể loại già”, còn tiểu thuyết là một “sinh ngữ trẻ”. Thơ ra đời bắt đầu từ lúc loài người có nhu cầu bộc lộ đời sống tâm hồn, tình cảm và nó đã song hành cùng loài người với bao thăng trầm từ đó đến nay. Cho dù ở thời điểm này, thơ đang ở trong cơn “bĩ cực” nhưng nó vẫn xứng đáng được quan tâm, nghiên cứu. 1.2. Về thơ Việt Nam đương đại, hiện có nhiều đánh giá khác nhau. Người bảo “nền rộng nhưng thiếu đỉnh”. Người bảo “thơ đi ngang”. Người lại quả quyết, thơ hiện nay “ngang ngửa” thậm chí “chất lượng và bề thế hơn” thơ các giai đoạn trước… Những đánh giá ấy, dĩ nhiên, xuất phát từ những góc nhìn và tâm thế khác nhau. Nhưng sự tản mạn, không thống nhất về thơ hiện nay là điều có thể hiểu được, vì, thứ nhất, độ lùi đánh giá chưa xa; và, thứ hai, so với thơ ca trước đây, thơ Việt kể từ sau 1975 phức tạp hơn, tính ly tâm cao hơn. Phức tạp bởi các nhà thơ không còn bó mình trong một kiểu nghĩ, một trường thẩm mỹ chung. Ly tâm bởi muôn nẻo kiếm tìm và phương cách biểu đạt bản thể. Thêm nữa, mỹ cảm nghệ thuật hiện đại/ hậu hiện đại đã khai mở và kích thích những cuộc phiêu lưu bất tận của nhà thơ, cái toàn trị đã dần nhường chỗ cho cái phân mảnh, tiếng nói cộng đồng đã nhường chỗ cho tiếng nói cá nhân,… Giờ đây, người ta đang chứng kiến sự hiện diện cùng lúc nhiều loại hình giá trị: trung tâm và ngoại vi, chính thống và phi chính thống, cao sang và suồng sã, cổ điển và phi cổ điển,… Ấy là chưa nói đến sự 1
- hòa trộn thể loại, sự xóa nhòa phong cách, sự tương tác giữa các loại hình nghệ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, khiến cho lý luận về thể loại và lý thuyết về văn học phải nhanh chóng điều chỉnh, thay đổi nếu muốn bắt kịp những chuyển động cũng như những kết hợp nghệ thuật mới... Trong bối cảnh một nền thơ đang vận động và phong phú, đa dạng như vậy cần có những cái nhìn khách quan và nghiêm túc để nhận diện một nền thơ mới. 1.3. Nhìn một cách khái quát, thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI là tiếp nối mạch thơ đổi mới cuối thế kỷ XX với cảm hứng thế sự và đời tư giữ vai trò là cảm hứng chủ đạo. Hai dòng cảm hứng này đã chiếm lĩnh thơ ca Việt Nam từ sau năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới sau 1986. Nhưng trong những năm gần đây, với việc toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, với bao biến cố lớn mà nhân loại nói chung và đất nước nói riêng đang phải đối mặt, nội dung thế sự, đời tư trong thơ ca cũng có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước. Nghiên cứu cảm hứng thế sự đời tư trong thơ ca mười năm đầu thế kỷ XXI chính là một cách nhận diện thời kỳ văn học mới. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu về thơ ca mười năm đầu thế kỷ XXI. Mười năm đầu thế kỷ vừa mới đi qua, khoảng cách thời gian từ đó đến nay chưa đủ để các nhà phê bình, nghiên cứu đưa ra một công trình bàn về thơ Việt Nam giai đoạn này. Tuy vậy, trên các báo viết, báo mạng và trong các cuộc hội thảo văn học có một vài ý kiến bàn về thơ hiện nay, chủ yếu xung quanh hai vấn đề chính: đánh giá về thực trạng của thơ và vấn đề thơ hiện đại, hậu hiện đại. Đánh giá về thực trạng thơ hiện nay, trong hội thảo Thơ Việt hiện đại nhìn từ miền Trung, nhiều ý kiến tỏ ra bi quan “thơ đang có vấn đề và cần đổi mới nó” (Hữu Thỉnh), “tình trạng vè hóa thơ” (Nguyễn Trọng Tạo), “thơ của chúng ta èo uột, làng nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa” (Nguyễn Hoàng Đức), “Cái khó mà thơ lâm phải hiện nay là thời kỳ giáp hạt tư tưởng, sự 2
- khủng hoảng của nó cũng do đó mà ra.” (Vũ Quần Phương), “thơ đang mất chỗ đứng trong ồ ạt của cạnh tranh thị trường… Nhiều bài thơ nhợt nhạt, quanh quẩn, ngô nghê, được viết với một trạng thái vô cảm… thơ Việt đang trong cơn bĩ cực trên cả hai phương diện chủ quan và khách quan” (Lê Thành Nghị), “Sự kiện thơ ca mất giá như thế diễn tiến qua nhiều năm” (Nguyễn Chí Hoan) [59]. Nhưng cũng nhiều ý kiến nhận định lạc quan về thơ đương đại “Quan sát trên thi đàn Việt những năm gần đây có thể thấy các tác giả trẻ đang khao khát thể hiện tiếng nói của thế hệ mình như một giá trị. Giá trị ấy được đảm bảo bằng cái mới, cái hiện đại trong quan niệm về thơ, trong giọng điệu, bút pháp, hình thức thể hiện... Dù có thể những tìm tòi, cách tân chưa trở thành xu hướng chủ đạo, chưa dễ tìm được sự đồng thuận trong đánh giá và tiếp nhận của người đọc nhưng vẫn có thể cảm nhận được một nguồn sinh lực mới đang tiềm ẩn trong thơ hiện nay” [78], “còn về giá trị, về định tính, chắc chắn rằng nhiều tác giả và tác phẩm thi ca của ta tuy đến chậm nhưng ít nhiều đã có chỗ đứng trong lòng độc giả bè bạn (nhiều hội thơ, nhiều tuyển thơ các nước đã có tác giả Việt xuất hiện, một vài thi phẩm đã được dịch, độc giả các nước đánh giá cao). Dẫu vậy thì cũng cần công nhận một điều là bằng cái nhìn khách quan thì thơ ta chưa tạo được một vệt đậm, một địa vị khả quan trên nền thơ thế giới như công chúng mong đợi, mặc dù, thơ Việt Nam không ít thành tựu và hứa hẹn nhiều tiềm năng…” [63]. Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Inrasara còn cho rằng thơ đương đại đang vận động và phát triển không ngừng, nhưng phê bình hiện đại thì không theo kịp sự phát triển của thơ để làm nhiệm vụ cầu nối giữa thơ và công chúng: “Các nhà thơ đương đại không viết khi đã xác định con đường, hay nói theo giọng thời thượng - khi đã "tìm thấy mình", mà vừa viết vừa tự khám phá chính mình… Họ viết - thế thôi. Liên tục chuyển động và thay đổi. Không nhiều nhà phê bình nhận ra điều đó. Rất ít nhà phê bình theo kịp sự chuyển 3
- động của họ. Không theo kịp, nhà phê bình mãi ở lại căn chòi mĩ học cũ để nhìn về thơ đương đại, nhận định và phán xét nó. Tiếc thay!” [35] Cuộc trao đổi - đối thoại về chủ nghĩa hậu hiện đại trên phương diện lý thuyết và biểu hiện thực tế của nó trong văn học Việt Nam tạo thành một sự kiện đáng chú ý trên một số diễn đàn, gồm cả báo mạng internet và báo viết. Báo điện tử Tổ quốc có chuyên đề: “Câu chuyện về một kiểu cắt nghĩa xã hội” (Lã Nguyên), “Văn chương Hậu hiện đại, nhìn từ góc độ sáng tác” (Lê Anh Hoài), “Đối thoại về con đường đi vào văn chương hậu hiện đại Việt Nam” (Inrasara), “Một cái nhìn về thực tiễn văn chương hậu hiện đại” (Phùng Gia Thế). Tạp chí Hồng Lĩnh cũng đăng loạt bài: “Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại” (Hoàng Ngọc Hiến), “Về lối viết hậu hiện đại trong văn học ta” (Hà Quảng). Bản tin LLPB văn học nghệ thuật số 10/2009: “Nhận biết về chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật” (Hồ Sĩ Vịnh)... Đến cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, nhận diện phê bình văn học hậu hiện đại (trong đó có nhận diện, phê bình thơ hậu hiện đại) ở nước ta tạo thành một vệt đậm và gây chú ý cả các tác giả ở hải ngoại. Nhìn chung các ý kiến đánh giá về thơ hậu hiện đại có thể quy về ba nhóm. Nhóm thứ nhất kịch liệt phản đối loại thơ này. Nhà thơ Đỗ Hoàng coi đây là thơ “vô lối” như đã từng đánh giá thơ hiện đại. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoà thì cho rằng: “hậu hiện đại là một cái áo quá rộng cho một cơ thể còm” và đề xuất “hãy đi hết hiện đại đã rồi hãy nghĩ đến hậu hiện đại” [28]. Nhà văn Đỗ Ngọc Yên thì cho thơ cách tân (hiện đại, hậu hiện đại) chỉ là một mớ hỗn độn “nhân danh cách tân nhiều người đã cho ra đời một thứ chẳng biết gọi là gì: văn nói, ghi chép, nhật ký,... chỉ biết rằng nó giống như món “óc sống” khiến công chúng không thể nào tiêu hóa nổi” [82]. Ở phía bên kia, Inrasara là người nhiệt thành ca ngợi thơ hậu hiện đại: “Thơ hậu hiện đại là trò chơi địa phương của những kẻ tự nguyện sáng tác ngoài lề trong 4
- thời đại toàn cầu hóa. Với tinh thần phá chấp triệt để qua tầm nhìn rộng mở và thái độ dân chủ tuyệt đối, thế hệ nhà thơ hậu hiện đại hôm nay là kẻ sáng tạo tiền vệ đang đổi mới thơ Việt, đổi mới cách viết và cách đọc, qua đó thúc đẩy công cuộc giải lãnh thổ hoá deterritorialize, giải quốc gia hoá denationalize và giải địa phương hóa delocalize văn học. Họ đang có đó, như một hiện tượng” [35]. Thậm chí Inrasara còn kỳ vọng thơ hậu hiện đại có thể “làm một cuộc cách mạng cho thơ Việt” [35]. Một số nhà nghiên cứu thì có cái nhìn toàn diện hơn, một mặt họ thừa nhận những sáng tạo thơ theo lối hiện đại và hậu hiện đại là những nỗ lực đáng được trân trọng trong hành trình cách tân thơ Việt, có những tác phẩm thực sự giá trị; mặt khác họ phê phán những sáng tạo cực đoan đang phá hoại giá trị thẩm mĩ của thơ ca. Tiêu biểu cho khuynh hướng đánh giá này là các tác giả Nguyễn Đăng Điệp, Lưu Khánh Thơ, Trần Quang Đạo, Nguyễn Thanh Tâm... 2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài Cảm hứng thế sự, đời tư là một trong cảm hứng chính của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay; tuỳ vào từng thời kỳ mà hai dòng cảm hứng này hoặc nổi trội hoặc mờ nhạt so với cảm hứng sử thi. Cảm hứng chủ đạo của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng giai đoạn 1945 - 1975 là cảm hứng sử thi, nhưng sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới 1986, cảm hứng thế sự đời tư chiếm vị trí chủ đạo. Điều này đã được khẳng định trong nhiều công trình nghiên cứu về thơ sau 1975. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - cái nhìn toàn cảnh [15] đã khẳng định trong thơ sau 1975 thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng tự thú và chất giọng giễu nhại. Từ đó tác giả nêu lên bốn xu hướng nổi bật về nội dung của thơ sau 1975 là: xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc; xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật; xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực; xu 5
- hướng hiện đại (và hậu hiện đại). Cũng trong bài viết này, tác giả còn đề cập đến sự vận động thể loại và đặc điểm ngôn ngữ thơ sau 1975. Tác giả Mã Giang Lân trong công trình Văn học hiện đại Việt Nam: Vấn đề - tác giả [46] đã tổng quan về thơ sau 1975 và chỉ ra những đặc điểm nổi bật của thơ giai đoạn này đó là: khẳng định con người cá tính; trở về quá khứ, khai thác truyền thống để tìm kiếm những giá trị tinh thần; chiêm nghiệm về lịch sử, dân tộc, thế sự nhân sinh; xuất hiện những bài thơ theo xu hướng hiện đại chủ nghĩa. Tác giả Bích Thu qua bài viết Nhận diện thơ qua hệ thống thể tài [58] đã chỉ ra các chủ đề chính của thơ Việt Nam sau chiến tranh, là: “Cảm hứng về sự thật và con người”, “Đi tìm bản thân, trở về cái tôi, khẳng định cá tính”, “Tình yêu trong thơ”, “Cảm nhận thời gian, cái chết”, “Thế giới tâm linh”... Sự dịch chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư đã dẫn đến sự thay đổi dần dần về giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, thể loại của thơ sau chiến tranh. Điều này được phân tích trong các công trình Những cấu trúc của thơ của tác giả Mã Giang Lân [45]; Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000 của tác giả Phạm Quốc Ca [5]... Tác giả Trịnh Thị Hằng trong luận văn Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975 - 2000 [25] đã lần lượt phân tích các biểu hiện của nội dung thế sự đời tư cùng với những đăc điểm về hình thức thể hiện thơ giai đoạn này. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, cho đến thời điểm này vẫn chưa có ý kiến nào bàn về cảm hứng chủ đạo nói chung và cảm hứng thế sự, đời tư nói riêng trong thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI. Việc nghiên cứu cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI là một việc làm cần thiết để góp phần làm rõ hơn sự vận động của thơ Việt Nam hiện đại. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích 6
- Luận văn hướng tới mục đích khảo sát, tìm hiểu những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ ca mười năm đầu thế kỷ XXI, từ đó góp phần nhận diện nền thơ ca Việt Nam đương đại. 3.2. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm, tác giả tiêu biểu của thơ ca Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Do số lượng tác phẩm thơ được in ấn và xuất bản trong mười năm đầu thế kỷ XXI là rất nhiều nên luận văn chú trọng tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu đã được tuyển chọn trong tuyển thơ Thơ mười năm đầu thế kỷ XXI (2 tập) do Nxb Hội nhà văn phát hành tháng 10 năm 2010 [65]. Khi cần thiết chúng tôi mở rộng tới một số bài thơ khác (nằm ngoài tuyển thơ trên) nhằm làm rõ hơn những nhận định của luận văn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp chủ đạo là: - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh - Phương pháp xã hội học lịch sử - Phương pháp hệ thống Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số thao tác bổ trợ của thi pháp học. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai qua ba chương: - Chương 1: Tình hình xã hội và thơ ca Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI - Chương 2: Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI - Chương 3. Phương thức thể hiện trong thơ mười năm đầu thế kỷ XXI. 7
- NỘI DUNG Chƣơng 1. TÌNH HÌNH XÃ HỘI VÀ THƠ CA VIỆT NAM MƢỜI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI 1.1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI Mười năm đầu của thế kỉ XXI đã đi qua, trong khoảng thời gian đó, xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học. Những năm đầu thế kỷ XXI, mặc dù thế giới có nhiều biến động bất ổn nhưng nước ta vẫn giữ được ổn định chính trị - xã hội, kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình trên thế giới. Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1 năm 2011), trong giai đoạn từ 2001 - 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của nước ta đạt 7,26%/năm; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,26 lần so với năm 2000. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ. Vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Mười năm qua cũng đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ của nước ta tiêu biểu là sự kiện gia nhập WTO vào năm 2006. Giao lưu văn hoá phát triển, văn học nói chung và thơ ca nói riêng được tiếp cận với những trào lưu nghệ thuật hiện đại của thế giới. Với sự phát triển của các phương tiện thông tin truyền thông, đặc biệt là mạng Internet, tác phẩm văn học dễ dàng 8
- đến với công chúng, đời sống văn học trở nên phong phú, sôi nổi hơn. Internet đã thay đổi cách viết - công bố - đọc - nghĩ - cảm của người sáng tác lẫn người đọc. Qua các website, blog cá nhân, các tác giả tự do trình bày những thử nghiệm mới, từ đó ra đời những khuynh hướng, trào lưu mới trong văn học. Có một sự thật là: số lượng người in sáng tác và đọc trên mạng là rất lớn, vượt trội so với văn chương giấy và ngày càng tăng; các cuộc luận bàn sôi nổi về văn chương cũng phần lớn diễn ra ở trên Internet. Bên cạnh đó, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, bất ổn. Đầu thế kỷ XXI, thế giới lâm vào một cuộc suy thoái kinh tế có quy mô toàn cầu; ảnh hưởng bởi điều đó tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước giảm sút rõ rệt. Thảm họa thiên tai do khí hậu biến đổi diễn ra thường xuyên hơn, mức độ tàn phá khủng khiếp hơn không chỉ ở nước ta mà trên toàn thế giới khiến loài người phải thực sự suy nghĩ nghiêm túc về sự tồn vong của mình. Hội nhập quốc tế cũng làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống trước sự xâm thực của văn hóa ngoại lai. Cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, tình hình biển Đông trở nên vô cùng căng thẳng, chủ quyền biển, đảo của nước ta bị đe doạ bởi các thế lực bành trướng… Tất cả những vấn đề xã hội đó có tác động không nhỏ đến cảm hứng chủ đạo trong thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI. 1.2. Đời sống thơ ca mƣời năm đầu thế kỷ XXI 1.2.1. Cách tân là vấn đề cấp thiết của thơ ca Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, nhiều người đã nói đến sự “khủng hoảng thơ”. Có một nghịch lý là số lượng người viết thì đông lên, đông như chưa từng có, còn người đọc thì giảm đi trông thấy, trên rất nhiều chỉ số. Dường như người làm thơ và người đọc thơ hôm nay ít có tiếng nói chung. Thơ có sự bùng nổ... chỉ có điều là bùng nổ về số lượng chứ không phải về chất lượng. Thơ in tràn lan, ước tính mỗi năm có khoảng bảy trăm tập 9
- thơ ra đời, nhưng chẳng có mấy tập thơ gây được tiếng vang. Nói một cách công bằng thì hiện nay không phải là không có thơ hay. Có điều thơ hay, thơ sâu sắc thường rất hiếm. Thơ hay hôm nay vừa hiếm lại vừa bị chen lấn, bị khuất lấp, bị đánh đồng với thơ dở. Nó tựa nụ hoa tí xíu trong đám cỏ rậm rạp của những phế liệu, cần những con mắt công tâm và tinh tường của nhà phê bình, gạn ra tinh tuý từ những phế liệu ngổn ngang kia. Cũng có người cất công quyết “đãi cát tìm vàng”, đó là Nguyễn Việt Chiến với công trình Tuyển thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 - 2005 xuất bản tháng 12/2007. Đây là một hợp tuyển thơ đáng để đọc nhưng không hiểu sao cho đến nay công chúng không mấy ai quan tâm. Có phải là khâu quảng bá của tác phẩm kém hay tại bởi một nguyên nhân khác là thơ đang bị “lép vế” trước những phương tiện nghe nhìn đang ngày càng hiện đại? Thơ bị mất giá cũng là tình trạng chung ở các quốc gia khác. Hiện nay, văn học của hầu hết các nước trên thế giới đang chứng kiến một hiện tượng gần như có thể gọi là sự khủng hoảng của thơ. Người ta đã dùng những từ ngữ như “hoang mạc thơ”, “thơ là món hàng ế ẩm” hay “nhà thơ thất nghiệp”. Thơ ư, chẳng có mấy người đọc. Các nhà xuất bản chẳng còn hào hứng bỏ vốn ra để in thơ. Các tác phẩm thơ hiện nay phần lớn là do tác giả tự bỏ tiền túi ra để in. Còn tác giả có tác phẩm được chọn in trong những hợp tuyển thơ sẽ được trả nhuận bút bằng… sách! Câu hỏi đặt ra là “liệu thơ có nên còn tồn tại trong cuộc sống hôm nay?” Nhà phê bình văn học đương đại Đức Macel Reich Ranicky nói một cách bi quan: “Xin cứ nói thẳng: Thơ ư, có cần thật không? Hàng triệu người sống không cần thơ có sao đâu? Họ chẳng biết gì đến thơ mà vẫn hoàn toàn hạnh phúc. Họ chẳng thấy thiếu gì hết và còn tránh được khối điều phiền toái. Bởi thơ là một thể loại văn chương vô cùng đáng ngờ, và có đủ lý do để nhắc nhở ta hãy coi chừng nó.” Ý kiến của Macel Reich Ranicky rõ ràng đã hơi quá. Chúng tôi cho rằng thơ là một nghệ thuật luôn luôn cần thiết cho loài người, nói như 10
- Hoài Thanh “… từ bao giờ đến bây giờ, từ Homère đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” [75, tr. 42]. Vấn đề là ở chỗ làm sao để thơ “chạm” đến được đời sống tinh thần của xã hội hôm nay, để theo kịp nhu cầu của bạn đọc. Thơ phải cách tân, đó là vấn đề sống còn của thơ! Cách tân thơ không chỉ là là đòi hỏi từ thực tiễn đời sống mà còn từ chính nhu cầu nội tại của thơ. Thơ là một nghệ thuật mà nghệ thuật đồng nghĩa với sự sáng tạo. Thế nhưng lối viết theo kiểu thơ Mới ra đời cách đây gần một thế kỷ vẫn còn ảnh hưởng đến tận bây giờ, thậm chí có nhà thơ còn cho rằng thơ hiện nay chỉ là vệt kéo dài của thơ Mới. Không ai phủ nhận những thành tựu đột phá của thơ Mới đối với văn học dân tộc, nhưng cái hay lặp đi lặp lại mãi cũng nhàm. Có một thực tế là những bài thơ giọng điệu đều đều, du dương không còn thu hút được nhiều độc giả hiện nay. Xã hội thay đổi, nhu cầu thẩm mĩ cuả con người cũng thay đổi, thơ cũng cần thay đổi để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ mới ấy. Theo những điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu đề tài Công chúng và giao lưu quảng bá văn học thời kỳ đổi mới do PGS.TS. Tôn Thảo Miên làm chủ nhiệm (Viện Văn học - 2011), sự thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của công chúng về mặt đề tài, chủ đề được thể hiện khá cụ thể. Các đề tài, chủ đề được nêu ra nhằm khảo sát thị hiếu của công chúng như đề tài chiến tranh, nông thôn, tình yêu, hôn nhân, lịch sử, dã sử, trinh thám, viễn tưởng, kinh dị… đã giúp minh định những diễn trạng thị hiếu thẩm mĩ trong đời sống văn học. Kết quả điều tra ngẫu nhiên trên 636 đối tượng tại Hà Nội đã cho thấy 65.9% số người được hỏi đã chọn đề tài hôn nhân, tình yêu cho sự đọc của mình. Các đề tài tiếp theo cũng minh chứng một sự chuyển dịch trong thị hiếu thẩm mĩ của công chúng: đề tài chiến tranh 37.1%, đề tài nông thôn 37%, lịch sử 31.9%, trinh thám 31%... 11
- Các tác phẩm hướng tới giá trị tư tưởng cao, mang tầm vóc nhân văn, nhân bản thu hút được 69.1% số đối tượng tham gia khảo sát. Tiếp sau đó, các tác phẩm đề cao tính nghệ thuật cũng thu hút được tới 50.2% công chúng. Các chủ đề khác như tâm linh, vô thức thu hút 41.3%, trào phúng 38.8% [74]. Các số liệu trên cho thấy công chúng ngày nay chuộng những vấn đề thuộc về cuộc sống thường ngày như gia đình, tình yêu,... chứ không phải những vấn đề mang tầm vóc lớn như dân tộc, nhân loại. Công chúng cũng rất quan tâm đến giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đòi hỏi tác phẩm vừa phải có tính nghệ thuật cao và phải mang giá trị nhân văn, nhân bản. Điều này vừa định hướng phát triển cho thơ, vừa là thách thức đối với các nhà thơ hiện nay. Từ cuối thế kỷ XX đến nay, chúng ta thấy rõ thơ có sự phát triển nhanh chóng về lực lượng sáng tác. Thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời chống Mỹ như Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Ý Nhi, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh có nhiều đổi mới trong giọng điệu và bút pháp... Tiếp đó là những nhà thơ trưởng thành sau 1975 như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Trần Tiến Dũng, Trần Anh Thái, Hoàng Trần Cương,... rất sung sức và khát khao sáng tạo. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thi đàn chứng kiến sự nở nộ của những nhà thơ rất trẻ thuộc thế hệ 7X, 8X như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Lê Vĩnh Tài, Tuệ Nguyên..., những nhà thơ trẻ này mỗi người đang nỗ lực khám phá một lối đi riêng không giống ai và thực sự họ là những người tiềm ẩn những khả năng làm thay đổi diện mạo thơ Việt. Bên cạnh đó cũng phải kể đến lực lượng sáng tác ở hải ngoại cũng đang góp phần làm hiện đại thơ Việt như các nhà thơ Tân hình thức ở Mĩ và các tên tuổi khác như Đỗ Quyên, Lê Thị Thẩm Vân,... Như vậy, với một lực lượng sáng tác dồi dào, khát khao đổi mới cộng với sự thôi thúc phải đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ mới của công chúng, cách tân thơ là nhu cầu nội tại của thơ ca hiện nay 12
- 1.2.2. Phong trào cách tân và cuộc cách mạng thơ chưa thành Cách tân thơ Việt hiện đại không phải đến bây giờ mới bắt đầu thực hiện. Đầu tiên phải kể đến Trần Dần rồi Hoàng Cầm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng,… họ đã thử nghiệm cách tân thơ từ thập niên 80 của thế kỷ XX. Sang thế kỷ XXI, thế hệ các nhà thơ trẻ hơn có một khát khao mãnh liệt tiếp tục sự nghiệp làm mới thơ của thế hệ tiền bối. Nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác thơ ra đời làm không khí thơ trở nên sôi động. Có thể kể đến các trào lưu tiêu biểu sau đây: Thơ tân hình thức (new formalism poetry), là phong trào thơ do Khế Iêm khai sinh ở Mĩ vào năm 2000 (chủ yếu đăng ở Tạp chí Thơ, Hoa Kì), truyền bá sang Việt Nam, được các thi sĩ không chính lưu ở Sài Gòn tích cực hưởng ứng, tạo không khí thơ sôi động một thời. Trong cuốn tiểu luận có tên Tứ khúc (bản tự in), Khế Iêm cho rằng, Tân hình thức trong thơ Việt có những đặc tính chính: cách nói thông thường, vắt dòng, kỹ thuật lặp lại và tính truyện. Mặc dù Tân hình thức Việt với khát vọng cách tân thành thực, chủ trương dòng thơ “mang tinh thần Việt, có khả năng hòa giải và tiếp nhận rất cao, không hề có sự phân biệt giữa dòng này và dòng khác”, “thơ Tân hình thức bỏ vần, tiếp tục hòa giải với nền văn hóa phương Tây. Và cũng trong tinh thần hòa giải, giữa truyền thống và tự do, thơ Tân hình thức Việt là một dòng chảy mới, như tiếng nói của mọi người Việt, tha thiết với sự chuyển đổi, để có thể đập chung một nhịp đập với cộng đồng thế giới rộng lớn. Và bởi tính cách bình dân của nó, thơ Tân hình thức có khả năng chuyên chở tình cảm của mọi con người, phá vỡ tính cao cấp, khó hiểu…có khả năng lấp đi khoảng cách giữa người đọc và sáng tác” [41], nhưng đó chỉ là sự tiếp thu sơ sài, tùy tiện thi pháp New Formalism, thậm chí có những lập luận khá cực đoan và sai lầm. Trong bài Thơ mở rộng biên độ, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã nhận xét: “Tân hình thức chỉ là 13
- hình thức”. Ở những nhóm thơ này thường thấy lí luận chắp vá, cờ hiệu ồn ào mà ít thấy tác phẩm. Nhà thơ Thụy Khuê đã phê phán: “Nếu chúng ta chỉ sống trên những tên gọi: Siêu thực, Tự do, Tân hình thức, Hiện đại, Hậu hiện đại, Truyền thống… mà không tìm hiểu dưới những cái tên ấy có nội dung gì, thì khó có thể có một lên đường đích thực”. Insarasa thì khái quát những hạn chế của thơ Tân hình thức như sau: “... vần và lặp lại nguy cơ (và đã từng) đưa thơ vào sự quẩn quanh, nhàm chán; yếu tố tính truyện đã xô rất nhiều bài thơ trở thành lan man và nhảm; ngôn ngữ đời thường khiến không ít người làm thơ lạm dụng ngôn từ dung tục từ đó tầm thường hóa thơ” [34]. Quả thật, nhiều bài thơ Tân hình thức có nội dung nhảm nhí, hoặc “rỗng nghĩa”, không đem lại hiệu quả thẩm mĩ gì: Thùng thình lình anh vùng vẫy tay xua đuổi em đi mặc dù (em biết) anh thích em thậm chí nhiều khi rất cần em lắm lúc ban ngày em cũng đến với anh bất cứ lúc nào chỗ nào anh muốn em bởi vì (em biết) anh vẫn thích em thậm chí rất cần có em và sẽ một lần nào đó đón em đến với anh mãi mãi … (Thứ nguyên 4/534, 046o - Biển Bắc) Với cái thân thể vừa được khâu vá lại đêm Qua ghép tim heo phổi bò óc ni - lông răng Giả và đôi tay từ cái thây ma của 1 Thằng mĩ trắng serial killer & da Mặt là da đít và tứ chi bằng xương bằng 14
- Thịt plastic hồng với con mắt cao đài độc Nhãn & khối óc là một con chíp tôi thảo Những program hạnh phúc dài hạn cho mai sau Tôi ngó lại đời mình ôi nó mới tinh ôi Nó mới tuyệt xinh ôi nó tột đỉnh ôi cám ơn Ôi danke scho’n herr doctor frankensto’n (Chỉnh hình mùa phục sinh - Nguyễn Đăng Thường) Tuy vậy cũng phải thừa nhận rằng, trong thơ Tân hình thức thỉnh thoảng cũng có những bài thơ hay, câu thơ hay, ý tưởng lạ: Tôi sống trong ngôi nhà không cửa Mỗi người đến thăm phải mang theo cửa Trên lưng. Lắp vào ngồi nói chuyện, xong, Khi từ biệt họ ra đi cùng với cửa Sự riêng tư của tôi phụ thuộc vào Việc viếng thăm của những người này (Nhà không cửa - Phan Nhiên Hạo) khát vọng tức tưởi máu xông từ đầu mắt tay khi đỉnh điểm thái dương loe lóe những con chữ bỗng hiển linh thì nắng được tẩm liệm trong suốt, trong suốt. Trong và suốt! (Những con chữ nhảy lò cò - Lê Hưng Tiến) Chỉ tiếc rằng những bài thơ như thế còn quá ít, chưa đủ để thơ Tân hình thức thu hút được sự quan tâm của bạn đọc. Thơ nữ quyền luận, không phải đến bây giờ nước ta mới có thơ nữ quyền. Thời trung đại, Hồ Xuân Hương là một gương mặt nữ quyền đầy thú vị. Từ sau Đổi mới, (1986), thơ nữ quyền cũng xuất hiện với các sáng tác của 15
- Dư Thị Hoàn, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Khánh Mai, cùng vài tên tuổi khác. Tuy vậy, nó vẫn còn khá mờ nhạt và bị lẫn với thơ hậu lãng mạn. Phải đợi đến nhóm Ngựa Trời xuất hiện tại Sài Gòn bằng tập thơ Dự báo phi thời tiết (2005), vấn đề nữ quyền trong văn chương mới hiển lộ rõ hơn. Nhóm Ngựa trời gồm 5 cô gái: Thanh Xuân, Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Khương Hà. Tham vọng thi ca của họ là muốn tạo ra một cơn bão làm khuấy động thi đàn: “Tôi đi bằng những bức họa ở EL / rời khỏi bầy đàn / âm thầm như cơn bão” (Bão cấp - Thanh Xuân). Trong thơ họ, ta thấy khát vọng muốn nổi loạn để đi tìm cá tính: “Tôi đã rút ván khỏi tôi / Khỏi đứa bé sinh ra để luôn được người ta nhắc đến làm gương, tị hiềm và ngưỡng mộ / Khỏi đứa bé rất ngoan và giỏi / niềm hãnh diện to đùng của mẹ cha / Đứa bé biết khoanh tay với cả những kẻ vô cớ bạt tai mình và nói: ạ, cảm ơn, rất biết ơn trước khi biết cong cớn chửi thề” (Mặc cảm chiếm hữu - Phương Lan). Trong tình yêu, họ muốn được là người chủ động: “Mình tự nhủ, đã vậy, mình mua gỗ về khắc hình con chó / Bày ra giữa chợ mà gào: “Chàng có thương thì chọn chó em / Nếu cả chàng cũng không thương thì chó nó chọn em / Nhưng em thế này mà chàng không thương / thì em thà chọn chó còn hơn chọn chàng” (Buồn không thể tả - Khương Hà). Tất nhiên, cũng như các nhà thơ nữ quyền khác, họ không thể không nói đến vấn đề giải phóng tình dục - sex (Yêu nhau ngày chảy máu, Vàng từng ngọn tóc - Lynh Bacardi). Tuy nhiên sau vụ việc tập thơ Dự báo phi thời tiết bị thu hồi, ngoại trừ Lynh Bacardi vẫn đều đặn viết, các thành viên còn lại của nhóm dường như bị chững lại, cuộc cách mạng thơ của họ ngang chừng bị bỏ dở. Gần đây trên văn đàn xuất hiện tên tuổi Đoàn Minh Châu, tác giả nữ được xem là mang yếu tố nữ quyền nhất trong các khuôn mặt mới. Thơ Đoàn Minh Châu có một giọng điệu riêng, vẫn là khát vọng muốn thể hiện cái tôi bản lĩnh nhưng không ồn ào, không nổi loạn, phá phách mà lặng lẽ, âm thầm, quyết 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn " Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 "
125 p | 481 | 195
-
Tiểu luận "Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh"
19 p | 936 | 173
-
Tiểu luận: Phương pháp SCAMPER và một số ứng dụng của phương pháp này
12 p | 713 | 85
-
Luận văn tốt nghiệp: Nguyễn du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ của người đời sau (từ năm 1930 đến nay)
140 p | 490 | 39
-
LUẬN VĂN:Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954)
100 p | 132 | 31
-
Đề tài: SỰ HẤP DẪN CỦA GIÁO DỤC NHẬT BẢN
19 p | 171 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám (Qua so sánh với thơ Đới Vọng Thư - Trung Quốc)
137 p | 82 | 11
-
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA GIỐNG CHÈ VÀ THỜI GIAN HÉO NHẸ ĐẾN CHẤT LƯỢNG CẢM QUAN CHÈ XANH Ở PHÚ HỘ - PHÚ THỌ
7 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Cảm hứng đời tư - thế sự trong thơ Chế Lan Viên sau 1975
125 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái)
122 p | 31 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Đức Mậu
97 p | 29 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách thơ Yến Lan
91 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
122 p | 34 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Huy Anh
112 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975-2000
109 p | 40 | 3
-
Khóa luận tốt nghiệp: Bước đầu tìm hiểu những ảnh hưởng của Đức đối với nền chính trị Châu Âu từ 1871 đến 1918
104 p | 36 | 3
-
Báo cáo "Cần khắc phục hạn chế trong công tác xây dựng luật pháp như thế nào "
3 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn