CHE PHỦ VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BÀN CHÂN MẤT DA

VÙNG GÓT CHỊU LỰC VỚI VẠT CÓ CUỐNG MẠCH LIỀN VÀ

VẠT TỰ DO

Tóm tắt

Mở đầu Mất da vùng gót chịu lực là một thách thức lớn đối với bác sĩ

tạo hình.

Mục tiu Nghiên cứu nhằm xác định các biện pháp che phủ và phục

hồi chức năng nhằm bảo tồn hữu ích bàn chân mất da vùng gót chịu lực.

Số liệu v phương php Có 81 bệnh nhân (82 gót chân) được chọn

nghiên cứu (4/1993 - 1/2002) tại bệnh viện Chợ Rẫy và được chia thành 2

nhóm: nhóm chấn thương cấp tính và nhóm thương tổn mãn tính đã thành di

chứng. Sau che phủ bệnh nhân có chương trình phục hồi chúc năng thích

hợp. Đánh giá kết quả chung cuộc theo bảng điểm Simon và Tinetti.

Kết quả: Có 84 vạt được sử dụng(52 vạt có cuống mạch liền, 30 vạt

tự do). Theo dõi 12 tháng 82,9%. 2 vạt cơ lưng rộng họai tử tòan bộ. 1trường

hợp phải cắt cụt cẳng chân. Lóet 2 trường hợp. Chức năng chung cuộc:

66,2% tốt, 32,5% chấp nhận được, 1,3% xấu(thang điểm Simon); 73,7% đi

bình thường, 25% nguy cơ té ngã thấp, 1,3% nguy cơ té ngã cao. Chịu lực

trung bình 97,5% so với bên lành. +6

Kết luận Các vạt gan chân trong, bắp chân cuống ngoại vi, cơ lưng

rộng đáng tin cậy do cấu trúc giải phẫu hằng định, tỉ lệ sống cao, biến chứng

vùng cho vạt không đáng kể, cho thấy có nhiều khả năng bảo tồn chức năng

bàn chân mất mô mềm liên quan đến vùng gót. Tránh loét vạt tạo hình ở

vùng chịu lực cần có nhiều biện pháp như ý thức tự bảo vệ gót bị thương của

bệnh nhân, phục hồi cảm giác bảo vệ (cảm giác sâu), làm giảm áp lực khu

trú lên gan chân và tạo độ vững chắc của vạt.

ABSTRACT

Background: Soft tissue defect of the WBH has been a big challenge

the orthopaedist and plastic surgeon face.

Purpose: the study aims at evaluation of the coverage and

rehabilitation measures to save the useful foot from amputation due to soft

tissue defect of WBH

Methods and materials: 82 heels were treated from 4/1993 to 1/2002 at

ChoRay hospital.They were classified into 2 groups: acute and chronic

injury.The patient would follow a specific rehabilitation programme after

coverage. The Simon scale and the Tinetti scale would be used to evaluate the

final results.

Results: 84 flaps were used (54 pedicled & 30 vascularised). Patients

with the follow time up to 12 months accounted for 82.9%. Two latissimus

dorsi flaps were failed.1 cas was amputated below the knee. The final results

were good 66.2%, satisfactory 35.5%, bad 1.3% (the Simon scale); normal

gait 73.7%, low potential to fall 25%, high potential to fall 1.3%. The

average of power of weight bearing was 97.5% compared to the remain ’s.

Conclusion: Medial plantar, distal based sural artery, and latisimus

dorsi flaps are reliable because of their constant anatomic structure, high

success and low complication. It proves there are a lot of ability to save

severe heel injury. The prevention of ulcer needs multiways such as the

awareness of self protection, the recovery of protection sensation, the

reduction of local pressure on foot and the flap stability.

Đặt vấn đề

Bàn chân là một phần đặc biệt của chi dưới nhằm thích nghi với tư thế

đứng thẳng của con ngươi nên da gót cũng có những chức năng riêng như

chịu lực trong tư thế đứng đi, giảm sốc khi chạy nhảy, té cao(5,13). Do có

nhiệm vụ chuyên biệt như vậy nên da vùng chịu lực của gót chân có cấu trúc

rất đặc biệt khó có thể “sao chép”. Điều trị mất da vùng gót-gan chân khó

khăn do máu nuôi cung cấp nghèo nàn, số lượng da mô mềm xung quanh

không nhiều, cũng như tần suất cao của các tổn thương kế cận như mạch

máu, mô mềm, gân, xương(4,9,12). Tạo hình da gót không đơn giản vì không

phải đơn thuần che phủ. Da ghép nếu vừa thiếu cảm giác, máu nuôi vừa

không chịu lực được thì không thể phục hồi chức năng đi đứng chạy nhảy

của bàn chân(6,9). Vạt da tạo hình cũng cần có cảm giác để tự vệ. Phục hồi

cảm giác tự vệ vẫn là vấn đề khó, còn nhiều bàn cãi.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định biện pháp che phủ và phục hồi chức năng nhằm bảo tồn hữu

ích (có chức năng) bàn chân mất da vùng gót.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu gồm những thương tổn mất da vùng gót chịu

lực chấn thương, đơn thuần hay phối hợp với các tổn thương phần mềm hay

xương khớp khác và các biện pháp điều trị các tổn thương đó bao gồm tạo

hình vạt, phục hồi cảm giác vùng vạt che phủ và phục hồi chức năng đi lại,

sinh họat sau tạo hình. Có 81 bệnh nhân (82 gót chân) được chọn nghiên cứu

(4/1993 - 1/2002) tại bệnh viện Chợ Rẫy và được chia thành 2 nhóm: nhóm

chấn thương cấp tính và nhóm thương tổn mãn tính đã thành di chứng.

Phương pháp nghiên cứu

Mô tả cắt ngang. Nghiên cứu trên lâm sàng được tiến hành theo trình

tự các bước sau đây:

- Chọn lựa bệnh nhân theo tiêu chuẩn chọn bệnh.

-Nghiên cứu chọn lựa một vạt thích hợp nhất, một hình thức phẫu

thuật thích hợp nhất. Có phương án dự phòng.

- Thực hiện phẫu thuật tạo hình và các phẫu thuật bổ sung khác khi

cần.

- Điều trị sau mổ: theo dõi tình trạng nuôi dưỡng vạt, quá trình lành sẹo,

những biến chứng sớm và biện pháp xử lý, các biện pháp phục hồi chức năng.

Kiểm tra định kỳ về lâm sàng, đánh giá kết quả che phủ và kết quả phục hồi

chức năng ...

Chọn lựa vạt che phủ theo vùng

Vùng gót chịu lực

- Vạt gan chân trong: là vạt tại vùng, có cấu trúc da gần giống như da

gót chịu lực, có cảm giác. Vạt bắp chân cuống ngoại vi: khi không sử dụng

được vạt gan chân trong, diện tích mất da là một phần vùng gót chịu lực.

Trường hợp mất da toàn bộ gót chịu lực, chúng tôi thường sử dụng vạt tự do

hơn là vạt bắp chân để tránh bất động cổ chân ở tư thế gấp lòng trong thời

gian sau mổ (mục đích làm chùng cuống vạt và các mép khâu ở xa). Vạt da

cân mạc cẳng chân sau cuống ngoại vi: do không đẹp lắm về mặt thẩm mỹ

và cũng phải bất động gấp lòng cổ chân, chúng tôi chỉ dùng để che phủ cho

một số trường hợp nghi ngờ độ an toàn của việc lấy vạt bắp chân cuống

ngoại vi. Vạt gót ngoài: do diện tích nhỏ và ở bên ngoài gót, chúng tôi chỉ sử

dụng vạt khi vùng mất da ở bờ ngoài gót chân.

- Đối với trường hợp mất mô mềm rộng (toàn bộ vùng gót chịu lực),

không thể sử dụng vạt tại vùng, vết thương nhiễm bẩn nhiều hoặc có viêm

xương gót, chúng tôi chọn vạt tự do: cánh tay ngoài, vai (cạnh vai), cơ lưng

rộng hoặc cơ thon tự do. Ghép da mỏng lên trên bề mặt cơ sau.

Vùng sau gân gót và vùng gót chịu lực

- Nếu không có mất mô nhiều (tương tự như vùng sau gân gót): sử

dụng vạt tại vùng như vạt bắp chân cuống ngoại vi, vạt cẳng chân sau cuống

ngoại vi vì các vạt này có khả năng phủ vùng sau gân gót và một phần gót chịu

lực. Trường hợp không sử dụng được vạt tại vùng nhưng mất mô không quá

lớn (<10cm) hoặc quá sâu (không lộ xương khớp cổ chân): sử dụng các vạt da

tự do như cánh tay ngoài, vai (cạnh vai). Trường hợp mất mô rộng, sâu, đặc

biệt có nhiễm trùng: sử dụng vạt cơ tự do.

Mất gần toàn bộ hoặc toàn bộ gan chân

- Vạt cơ lưng rộng tự do ghép da rời: vạt có kích thước đủ lớn để che

phủ.

Các biện pháp phòng chống loét vùng gót chịu lực

-Không được phép đi chân trần (trừ vạt gan chân trong). Kiểm tra bàn

chân hàng ngày.

-Tập phục hồi cảm giác ở vạt che phủ.

-Dùng tấm độn Superlon khi bắt đầu tập đi (là tấm xốp dùng để cách

nhiệt trong điện lạnh, sản xuất tại Malaysia) có chiều dày 1-2cm chêm vào giày

dép bệnh nhân khi đi. Khuyến cáo bệnh nhân luôn sử dụng tấm độn cho các

trường hợp tạo hình ở vùng gót chịu lực (trừ vạt da gan chân trong).

-Trường hợp ở gan chân khi bệnh nhân chưa có cảm giác, chúng tôi

hướng dẫn bệnh nhân tự bảo vệ chân như trong trường hợp bàn chân tiểu đường.

Đánh giá kết quả

-Theo bảng điểm chức năng đi lại của Simon cải biên(8) (91-100: rất

tốt, 65-90: chấp nhận, <65: xấu), bảng đánh giá dáng đi thăng bằng của

Tinetti(8) (24 -28: bình thường, 19 -24: có nguy cơ ngã ít,<19: nguy cơ ngã

cao), đánh giá phục hồi cảm giác theo MRC(13), ghi nhận loét. Đánh giá lực

chịu đối với vùng chịu lực: phương pháp Sommerlad và McGrouther, đứng

trên cân, hoặc trn nệm.

Kết quả

Nguyên nhân

Tổn thương mới 72 (87,8%) trong đó gót vào căm xe 36 (44%), di

chứng chấn thương 10 (12,2%).

Thương tổn

Mất da 31 (37,8%), mất da và lộ xương gót 36 (43,9%), mất da và lộ gân

8 (9,7%), mất da và mất>1/3 xương gót 4 (4,8%), mất da lộ gân gót và xương

gót (2,4%), mất da mất đọan gân gót 1 (1,2%).

Độ rộng

*Vùng gót chịu lực: Toàn bộ diện tích da chịu lực: 22 trường hợp, trên

1/2 diện tích da chịu lực: 21 trường hợp,1/3-1/2 diện tích da chịu lực: 9 trường

hợp, dưới1/3 diện tích da chịu lực: 2 trường hợp.

*Vùng gót chịu lực và sau gân gót: Diện tích lớn nhất: 74 cm2; nhỏ

nhất: 36 cm2; trung bình: 42,4 cm2. Trong đo, diện tích vùng gót chịu lực

gồm: hơn 1/2 diện tích gót chịu lực: 7 trường hợp, 1/3-1/2 diện tích gót chịu

lực: 3 trường hợp, dưới1/3 diện tích gót chịu lực: 2 trường hợp.

*Vùng gan chân toàn bộ hoặc gần toàn bộ: 16 trường hợp.

Các vạt đã sử dụng

Bảng 1 Các vạt che phủ đã sử dụng

gcl Gcl gc tc

sgg

Gan 32 32

chân trong

Bắp 7 4 11

chân cuống

ngoại vi

Cẳng 3 1 4

chân cuống

ngoại vi

Gót 1 1 2

ngoài

Chéo 4 4

chân

Cơ gấp 1 1

ngắn các ngón

gcl Gcl gc tc

sgg

chân

Vai/cạnh 1 1 2

vai

Cánh tay 2 1 3

ngoài

Cơ thon 1 1

Da cơ 1 1

lưng rộng

Cơ lưng 3 5 15 23

rộng

(GCL: vùng gót chịu lực, SGG: vùng sau gân gót, GC: toàn bộ hoặc

gần toàn bộ gan chân)

Thời gian theo dõi trung bình: 82,9% (68/82) bệnh nhân liên quan đến

vùng gót chịu lực theo dõi trên 12 tháng, 61% (50/82) trên 24 tháng.

Kết quả che phủ thành công

Hoại tử toàn bộ vạt: 2 vạt cơ lưng rộng cho toàn bộ gan chân (một

phải cắt cụt 1/3 giữa cẳng chân). Hoại tử một phần vạt nhưng không cần tạo

vạt khác thay thế: 1 vạt bắp chân cuống ngoại vi. Tỉ lệ sống tốt (sống hoàn

toàn hoặc chỉ hoại tử rìa) của Gan chân trong: 100% (32/32), Cơ lưng rộng

tự do: 92,9 % (26/28).

Loét

1 trường hợp vạt da cơ lưng rộng quá thừa bị loét khi bệnh nhân đi

nhiều, tự khỏi khi bệnh nhân hạn chế đi lại. 1 trường hợp loét sẹo phì đại ở gan

chân. 1 trường hợp vạt cơ lưng rộng trên bệnh nhân biến dạng lật ngửa bàn

chân loét ở bờ ngoài; 1 biến dạng lật sấp bàn chân loét ở bờ trong.

Phục hồi cảm giác và chức năng chung cuộc

Tất cả các vạt đều có cảm giác sâu (≥ 90% so với bên lành). Có sự

khác biệt về chức năng giữa chi che phủ bằng vạt gan chân trong với vạt bắp

chân cuống ngoại vi (T,a=0,05): vạt gan chân trong cho kết quả chức năng

chung cuộc tốt hơn.

Bảng 2 kết quả chức năng chung cuộc

Tốt Chấp Xấu 24- 19- <19đ

nhận 28đ 24đ

Vạt 7 4 7 4

Bắp Chân

Vạt 29 3 30 2

Gan

Chân

Trong

Vạt 2 1 2 1

Cánh Tay

Ngoài*

Vạt 1 1

Gót

Ngoài

Vạt 3 5 3 5

Da Cân

Khác

Vạt 3 1 3 1

Cơ *

Vạt 12 6 1 13 5 1

(* phục hồi cảm giác có nối ghép thần kinh)

Kết quả chức năng theo thang điểm Simon cải biên: tốt 66,2%, chấp

nhận 32,5%, xấu 1,3%. Kết quả chức năng theo thang điểm Tinetti: bình

thường: 73,7%, nguy cơ té ngã ít 25%, nguy cơ té ngã cao 1,3%.

Khả năng chịu lực

Khảo sát các dấu gan chân có vạt tạo hình khi bệnh nhân đứng và khi

đi trên giấy thấm, chúng tôi nhận thấy các vùng này có chịu lực. 50/80

(62,5%) bệnh nhân liên quan đến vùng gót chịu lực được khảo sát tính chịu

lực khi cho bệnh nhân đứng trên 2 cân. Kết quả cho thấy chịu lực ít nhất là

85%, nhiều nhất là 100%, trung bình là 97,5% so với bên lành. Như vậy sự

chịu lực trên chân tạo hình khi đứng gần như bình thường.

Bàn luận

Lựa chọn kỹ thuật tạo hình

Vùng gót chịu lực

Loại vạt ưu tiên chọn lựa là vạt da cân gan chân trong dưới hình thức

đảo da hoặc bán đảo. Vạt gan chân trong được đánh giá là vạt quan trọng

nhất và hiệu quả nhất trong che phủ vùng gót chịu lực từ khi Harrison và

Morgan (1983) phát hiện kỹ thuật lấy vạt hình đảo. Không chỉ có cấu trúc

gần giống da đệm gót mà vạt còn có cảm giác bảo vệ nên kết quả chức năng

thu được rất tốt. Theo dõi lâu dài không thấy có biến chứng loét. Nhiều tác

giả ngoài nước như Leung PC (1988)(10), Caleffi E. (1989)(5), Baert C

(1990)(3), Baker Gl (1990)(3), Eren S (1992)(6), Masquelet AC, Mjoroh TO

(1993)(11)... Vạt bắp chân cuống ngoại vi hoặc vạt cẳng chân cuống ngoại vi

có thể che phủ được một phần hay hoàn toàn vùng gót gót chịu lực. Tuy

nhiên vạt gan chân trong có nhiều ưu điểm hơn: cấu trúc gần giống đệm gót,

cổ chân hoạt động không hạn chế ngay sau bóc vạt, cảm giác đi vững chãi

trên vạt,chức năng chung cuộc tốt hơn.

Vạt tự do cho vùng chịu lực

Tuy nhiên nếu vùng tiếp nhận bị nhiễm trùng nặng hoặc đã từng nhiễm

trùng mạn tính hay có hốc cần được lấp đầy chúng tôi nghiêng về sử dụng vạt

cơ. Các số liệu khác cho thấy các vạt cơ tại chỗ hay tự do có thể cho tỉ lệ thành

công từ 84-100%. Reay S. vạt cơ tự do với ghép da rời lên bề mặt bền vững và

chức năng hơn so với vạt da tự do khi che phủ vùng gót chịu lực và gan chân

giữa

Toàn bộ hoặc toàn bộ da gan chân

Với diện tích mất da rộng ở gan chân chỉ có vạt tự do mới đáp ứng

được yêu cầu che phủ.

Vạt cơ với da mỏng ghép trên bề mặt đã đáp ứng được yêu cầu điều

trị: tỉ lệ che phủ thành công cao (14/16 = 87,5%), tỉ lệ loét 14,3% (2/14)

nhưng liên quan mật thiết với biến dạng bàn chân, kết quả chức năng chung

cuộc: đáp ứng được yêu cầu đi lại hàng ngày Gidumal R.(8), Harris

P.G,Weinzweig N.(14)...cho rằng thành phần mô học của vạt không ảnh

hưởng đến tiên lượng.

Liên quan giữa phục hồi cảm giác gan chân và chức năng đi lại.

Với các nghiên cứu sử dụng phân tích hóa mô người ta khẳng định sự

phục hồi chức năng cảm giác ở vạt da phụ thuộc vào nền tiếp nhận(14). Qua

các kết quả thu được trên chúng tôi nhận thấy không có sự liên quan rõ rệt

giữa mức độ phục hồi cảm giác, chức năng đi lại, thời điểm đi không trợ

giúp và biến chứng loét (phép kiểm T a= 0,05). Vùng tiếp nhận vẫn còn cảm

giác sâu để bảo vệ các vạt tạo hình. Như vậy phục hồi cảm giác da không

phải là điều kiện tiên quyết trong tạo hình các mất mô mềm vùng gót chịu

lực. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của nhiều tác giả

khác(8,10,12,13,14,15,17,18).

Phục hồi cảm giác sâu phục vụ cho quá trình tập đi. Quan sát bệnh

nhân tập đi bằng chân giả chúng tôi nhận thấy lúc đầu dù có “chân” nhưng

bệnh nhân không đi được vì không hiểu bàn chân mình đang ở vị thế nào.

Hiện tượng này xuất hiện tương tự trong bàn chân mất da gan chân chịu lực

được tạo hình. Chất lượng phục hồi phụ thuộc rất nhiều vào việc tái thiết lập

phân tích ở trung ương các tín hiệu đưa vào theo đường dẫn truyền mới. Các

bài tập thích hợp kích thích sự tiếp nhận và tái phân tích ở trung ương nói

riêng cũng như sự phục hồi thần kinh nói chung(4). Việc tập luyện này cần

được tiến hành thường xuyên liên tục để tạo thành một cung phản xạ có điều

kiện. Quan điểm chúng tôi là nên tập luyện suốt đời.

Phòng chống loét

Tăng áp lực bất thường kéo dài trên một vùng khu trú là nguyên nhân

trực tiếp gây loét. Chính các lực giằng xé lặp đi lặp lại trên những biến dạng

cố định của bàn chân tạo nên loét. Những hiểu biết về hậu quả của tăng áp

lực kéo dài lên mô mềm và việc cải tiến kỹ thuật làm giảm áp hoặc tái phân

bố lực lên bàn chân đã làm giảm đáng kể tỉ lệ loét và cắt cụt chi dưới trên

bệnh nhân tiểu đường ở các nước Âu Mỹ(13). Các nghiên cứu của Edmonds

và cộng sự đã chứng minh giá trị của giày dép thích hợp trong việc ngăn

ngừa loét tái phát ở cộng đồng bệnh nhân tiểu đường: 82% loét tái phát đối

với bệnh nhân thích mang giày dép theo ý thích cá nhân so với 26% ở bệnh

nhân mang giày dép theo yêu cầu điều trị được thiết kế để làm giảm áp lực

cao khu trú(1,4).

Các biện pháp làm giảm áp lực lên bàn chân khi đi.

- Sửa các biến dạng chi hoặc lỏng lẻo khớp cổ chân gây phân bố lực

không đều (xem vai trò của hàn khớp cổ chân trong bàn chân bập bềnh).

- Sửa dáng đi, duy trì chạm gót-bàn chân trong khi đi, tập thăng bằng.

- Dùng độn lót gan chân.Chúng tôi sử dụng các tấm đệm lót để làm

giảm độ tì đè lên gan chân. Chất liệu độn lót phải có tính đàn hồi mới có khả

năng làm giảm áp. Chúng tôi nhận thấy nếu độn lót cao quá d=2 cm bệnh

nhân sẽ cảm giác không vững và khó đi.

Phục hồi chức năng thật sự cần thiết dù ít được đề cập trong các

báo cáo khác

Sự cần thiết này thể hiện qua sự suy giảm chức năng vận động của

chi. Với sự suy giảm trên bệnh nhân khó có thể trở lại chức năng đời thường

nếu thiếu phục hồi chức năng cho dù cuộc phẫu thuật được đánh giá là thành

công đến đâu. Ngoài ra bệnh nhân nằm lâu nên quên phản xạ đi.

Bệnh nhân sẽ sợ đi trên vạt tạo hình nếu thiếu một chương trình

tập luyện thích hợp.

Đó cũng là nhận xét của Salisburg R.E. khi quan sát bệnh nhân được

chuyển vạt sau bỏng bàn chân(14). Các bệnh nhân chúng tôi đều có chịu lực

trên vạt tạo hình ở gót chịu lực, 50 bệnh nhân chịu 97,5% lực so với chân

lành. Kết quả trên cho thấy hiệu quả của chương trình phục hồi.

Để đi lại được bệnh nhân cũng cần sức cơ tốt, tầm hoạt động khớp và

thăng bằng bình thường. Chính chương trình phục hồi đã cải thiện đáng kể

các yếu tố trên nên đã cải thiện chức năng đi lại.

KẾt luận

Các vạt gan chân trong, bắp chân cuống ngoại vi, cơ lưng rộng đáng

tin cậy do cấu trúc giải phẫu hằng định, tỉ lệ sống cao, biến chứng vùng cho

vạt không đáng kể, cho thấy có nhiều khả năng bảo tồn chức năng bàn chân

mất mô mềm liên quan đến vùng gót.

Vùng chịu lực có sự phục hồi (đa số là tự phát) cảm giác sâu để bảo

vệ các vạt tạo hình. Kết quả tất cả vùng gót chịu lực đều có cảm giác sâu

bằng hoặc lớn hơn 90% so với bên lành có sự góp phần không nhỏ của các

bài tập phục hồi cảm giác.

Chính chương trình phục hồi đã cải thiện đáng kể chức năng đi lại.

Tránh loét vạt tạo hình ở vùng chịu lực cần có nhiều biện pháp như ý thức tự

bảo vệ gót bị thương của bệnh nhân, phục hồi cảm giác bảo vệ(cảm giác

sâu), làm giảm áp lực khu trú lên gan chân và tạo độ vững chắc của vạt