CHỈNH HÌNH BIẾN DẠNG HÌNH THỂ NGOÀI THÁP MŨI

KẾT HỢP CHỈNH HÌNH VÁCH NGĂN

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Có một tỷ lệ không nhỏ những biến dạng vách ngăn kèm theo

các biến dạng bên ngoài của tháp mũi.Bệnh nhân thường mong muốn kết hợp điều

trị giải quyết rối loạn chức năng mũi do biến dạng vách ngăn gây nên với chỉnh

hình ngoài tháp mũi thường mang tinh chất thẩm mỹ.

Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của PT Chỉnh hình vách ngăn kết hợp với

chỉnh hình hình thể ngoài tháp mũi.

Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.

Kết quả: 40 Bệnh nhân đã được phẫu thuật từ tháng 3/2005 tới 09/2005.

Lứa tuổi trưởng thành chiếm 77,5 % trong đó nữ chiếm tỷ lệ 67,5 %. Tất cả các

bệnh nhân được chọn lựa đều có biến dạng vách ngăn phối hợp với một hoăc

nhiều biến dạng tháp mũi mà nhiều nhất gồ xương (22 / 55 %). Có 6 ca (15 %) bị

lệch tháp mũi, 70 % sử dụng đường trong mũi. Chỉnh hình vách ngăn kết hợp với

cắt lồi xương và mở xương đường bên thường được phối hợp chiếm 28 ca (70 %).

82,5% hết nghẹt mũi.

Kết luận: Chỉnh hình vách ngăn kết hợp với chỉnh hình hình thể ngoài tháp

mũi là phẫu thuật vừa giải quyết rối loạn chức năng mũi và mang tính thẩm mỹ

nên thường được bệnh nhân đồng tình..

ABSTRACT

Introduction: There is rather large number of cases in which nasal septum

deformities come with nasal bridge deformities, usually due to primary causes as

well as secondary one such as after traumas and congenitals deformities. Patients

wish to have a procedure to correct functional disorders (septum deformities) and

cosmetic issues (nasal bridges deformities) at the same time.

Objectives: acessing the effect of Septoplasty associating with nasal shape

correction procedure.

Materials and Methods: descriptive study as serial case.

Results: 40 cases of nasal shape correction associating with septoplasty

were done from Mar 2005 to Sep 2005. Adult acounts for 77.5%, among of them,

female as 67.5%. The common associating deformities are nasal septum deviation

with nasal hump (22 cases or 55%), or nasal bridge deformity (6 cases or 15%). In

70% cases, approaching incisions are insde the nose. Septoplasty with hump

shaving and lateral osteotomy used in 28 cases (70%). Surgical results improve

functional issue in 82.5%.

Conclusion: Septoplasty associating with nasal shape correction is a two-

purpose procedure: improving functional problem as well as cosmetic issues, so

that many patients consider it.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ trước tới nay chỉnh hình vách ngăn là một phẫu thuật kinh điển được sử

dụng trong điều trị những biến dạng của vách ngăn mũi như (cong vẹo, gai, mào

xương (v.v...) gây ảnh hưởng rối loạn chức năng mũi như nghẹt mũi, chảy dịch

mũi vv.. Nhưng có một tỷ lệ lớn các biến dạng vách ngăn này đi kèm với các biến

dạng về bên ngoài của tháp mũi (tháp mũi xương và tháp mũi sụn). Có thể nguyên

nhân nguyên phát nhưng cũng cõ thể do chấn thương, dị tật vv... Chính vậy việc

kết hợp hai loại phẫu thuật kể trên là rất cần thiết nhằm trả laic ho bệnh nhân chức

năng sinh lý cũng như cấu tạo giải phẫu bình thương của bệnh nhân. Lịch sử hiện

đại của phẫu thuật chỉnh hình hình thể ngoài tháp mũi kết hợp với chỉnh hình vách

ngăn đã được Jack SHEEN (1975) nghiên cứu và đưa ra những kỹ thuật kinh điển.

Gần đây Raymond GOLA,1989 Francois DISANT2), Gilbert AIACH, Jean Marc

THOMASSIN 19951) cũng đã đưa ra những bổ xung về chỉnh hình mũi kết hợp

chức năng và thẩm mỹ.Hiện nay phẫu thuật này cũng đã được thực hiện tại nhiều

trung tâm bệnh viện và đã thu được những kết quả nhất định. Vì vậy chúng tôi tiến

hành nghiên cứu này nhăm mục đích rút ra được kinh nghiệm đối với đối với phẫu

thuật chỉnh hình hình thể ngoài tháp mũi kết hợp với chỉnh hình vách ngăn.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Những bệnh nhân được phẫu thuật chỉnh hình biến dạng hình thể ngoài của

tháp mũi kết hợp với chỉnh hình vách ngăn tại khoa TMH Trung tâm Viện trường

Lyon (Pháp) từ tháng 3/2005 tới 09/2005.

Tiêu chuẩn lựa chọn

Tất cả các bệnh nhân này đều có biến dạng vách ngăn mũi ảnh hưởng tới

chức năng sinh lý của mũi kèm theo các biến dạng tháp mũi.

Số lượng: 40 Bệnh nhân, Hồi cứu 15 ca, tiến cứu 25 ca

Thiết kế nghiên cứu

Mô tả hàng loạt ca

Hồ sơ bệnh án, bộ dụng cụ phẫu thuật, máy nội soi.

Các bước tiến hành:

Nghiên cứu hồ sơ bệnh án (15 ca hồi cứu) những bệnh nhân đã phẫu thuật,

thăm khám trực tiếp khi bênh nhân tái khám.

Làm bệnh án, thăm khám cho những bệnh nhân nghiên cứu tiến cứu (25

ca).

Tham gia phẫu thuật đối với bệnh nhân nhóm tiến cứu.

Đánh giá kết quả nghiên cứu sau 1 tháng.

KẾT QUẢ

Tuổi

Giới

Nguồn gốc

Mong muốn phẫu thuật

Biến dạng trước phẫu thuật

Biến dạng trong hốc mũi

Số Tỷ lệ

lượng (%)

Vách Lệch 40 100%

ngăn Gai 5 12,5

%

Dầy 5 12,5%

chân

Cuốn Phì đại 6 15%

dưới

Cuốn Concha 3 7,5%

giữa bullosa

Valve Hẹp 12 30%

mũi

Biến dạng ngoài của tháp mũi

Số Tỷ lệ

lượng (%)

Tháp Lệch 6 15%

mũi xương 1 2,5 % Lõm

và sụn tam

Lồi 22 55% giác

Chỏm Thấp 1 2,5%

mũi Cao, 15 37,5%

hẹp

Hai 5 12,5%

múi

Cánh Thấp, 5 12,5%

mũi và tiểu bè rộng

trụ Hẹp 10 25%

Kỹ thuật

Đường vào

Phẫu thuật

Số Tỷ lệ

lượng (%)

Chỉnh hình Cắt bỏ 8 20 %

vách ngăn Đặt lại 32 80 %

Cắt lồi Đục 28 70 %

xương bỏ

Mài 4 10%

Mở xương Đường 32 80%

tháp mũi Bên

Đường 0 0 %

giữa

Kết 5 12,5%

hợp

Ghép/Nguồn Mào 0 0 %

gốc chậu

Vách 5 12,5

ngăn %

Sụn 4 10%

vành tai

Sụn 1 2,5 %

sườn

Vị trí Chỏm 3 7,5 %

Tháp 3 7,5 %

Sụn 3 7,5 %

cánh mũi

Khâu sụn Khâu 13 32,5

cột ngành %

trong sụn

cánh mũi

Khâu 5 12,5

sụn tam giác %

Tạo hình lỗ 2 5 %

mũi

Sau phẫu thuật (1 tháng)

Số Tỷ lệ

lượng (%)

Thẩm Hài 34 85 %

mỹ lòng

Không 4 10%

thay đổi

Không 2 5 %

hài lòng

Chức Nghẹt 10% 4

năng mũi

Chảy 7,5 % 3

dịch mũi

Chức 33 82,5

năng tốt %

Tháp Thẳng 5/6 83, 3

mũi %

Số Tỷ lệ

lượng (%)

Lệch 1/6 16,7

%

Lõm 2/26 7,69%

Vách Thẳng 35 87,5

% mũi

Lệch 5 12,5

%

Tiểu Sẹo 0 0 %

trụ xấu,căng

Hài 12/12 100 %

lòng

Chỏm Lệch, /21 4, 76

không đều %

Quá 0 0%

nhọn

BÀN LUẬN

Về tuổi

Đa phần bệnh nhân ở lứa tuổi trưởng thành (77,5 %), Giới tính: Nữ chiếm

tỷ lệ cao 67,5%. 80% bệnh nhân được phẫu thuật lần đầu mà không có tiền sử

chấn thương hay phẫu thuật lại. 90% bệnh nhân mong muốn được phẫu thuật vừa

giải quyết rối loan chức năng nghẹt mũi, chảy dịch mũi kết hợp với chỉnh hình

tháp mũi. Trong các biến dạng trước phẫu thuật. Tất cả các bệnh nhân được chọn

lựa đều có biến dạng vách ngăn phối hợp với một hoăc nhiều biến dạng tháp mũi

mà nhiều nhất gồ xương (22/55 %). Có 6 ca (15 %) bị lệch tháp mũi. Còn lại

chiếm tỷ lệ ít hơn, Abedipour, Saban cũng đã gặp những tỷ lệ tương tự.

Về sử dụng đường vào

Trong nghiên cứu 70 % sử dụng đường trong mũi, đường này tránh được

sẹo lồi ở tiểu trụ ảnh hưởng tới thẩm mỹ, Aiach, Bracini cũng sử dụng chủ yếu

đương này vơi tỷ lệ tương tự. Đường ngoài chủ yếu sử dụng cho những phẫu thuật

can thiệp vào chỏm mũi. Chỉnh hình vách ngăn kết hợp với cắt lồi xương và mở

xương đường bên thường được phối hợp chiếm 28 ca (70 %), sau cắt lồi xương

tháp mũi tạo nên khoảng hở (mái hở) chính vậy kỹ thuật mở xương đường bên

thường được kết hợp để xoá đi khoảng trống tạo nên khuyết lõm của tháp mũi.Tác

giả Gola, Horey cũng sử dụng thường kỹ thuật này. Các vật liệu ghép tự thân được

sử dụng chủ yếu là tân dụng ngay sụn vách ngăn (5/10 – 50 %) ca có ghép, sau đó

là sụn vành tai (4/10 – 40%). Sụn sườn chỉ sử dụng trong 1 ca sụp lõm tháp mũi và

tiểu trụ khá lớn đòi hỏi lượng sụn nhiều, Disant. Các phẫu thuật can thiệp vào

chỏm mũi (chủ yếu khâu chỉnh hình ngành trong sụn cánh mũi: khâu cột, ghép).

Kết quả thu được sau phẫu thuật thường sau 1 tháng vùng mổ tương đối ổn

định (hết sưng nề, hết viêm). Đa phần về mặt chức năng đã được giải quyết 82,5%.

Về biến dạng bên ngoài còn tồn tại hai vấn đề là lệch và lõm của tháp mũi sau khi

cắt gồ xương và mở xương đường bên (3 ca) Powell và Sheen cũng đã gặp với tỷ

lệ 3%. Vì vậy những tác giả này sử dụng ghép bổ xung mảnh sụn vách ngăn vào

chỗ khuyết sau cắt lồi xương.Pitanguy3 thấy rằng các phẫu thuật sử dụng đường

vào ngoài mũi (qua tiểu trụ) can thiệp vào chỏm mũi cho các kết quả tốt nhưng

cũng gây xơ hoá làm mât sự mềm mại của chỏm mũi và tạo sẹo rút ở tiểu trụ.

KẾT LUẬN

Chỉnh hình vách ngăn kết hợp với chỉnh hình hình thể ngoài tháp mũi là

phẫu thuật vừa giải quyết rối loạn chức năng mũi và mang tính thẩm mỹ nên

thường được bệnh nhân đồng tình. Kết quả thu được là rất khích lệ. Tuy nhiên

cũng cần có chọn lựa chính xác để tránh di chứng về sau.