
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 2 Chính saùch vaø caûi caùch ngoaïi
thöông treân bình dieän toång theå neàn kinh teá
Bernard Hoekman 4 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
của Krueffer, Schiff và Valdés, giả sử khu vực nông nghiệp là khu vực xuất khẩu ròng (có
nghĩa là đất nước này nhập khẩu ròng hàng phi nông nghiệp) và trong phạm vi nông nghiệp,
phân ngành nhập khẩu thực phẩm gần như cũng lớn ngang với phân ngành xuất khẩu nông
sản. Trong phạm vi ngành nông nghiệp, các biện pháp hạn chế mà làm giảm giá trong nước
của nông sản có thể xuất khẩu mất 11 phần trăm và làm tăng giá trong nước của thực phẩm
có thể nhập khẩu thêm 20 phần trăm sẽ làm tăng mức giá bình quân chung của nông sản lên
không đến 10 phần trăm. Nếu chỉ nhìn từ góc độ một khu vực như trong phần trước, sẽ làm
cho người ta tin rằng việc loại bỏ những chính sách nông nghiệp này và do đó làm giảm mức
giá nông nghiệp bình quân sẽ cải thiện phúc lợi.
Tuy nhiên, hoá ra một kết luận như thế chỉ rút ra được khi không có sự biến dạng nào
trong phần còn lại của nền kinh tế. Nếu các nhà sản xuất công nghiệp chế tạo trong nền kinh
tế này được hưởng một tỷ suất bảo hộ danh nghĩa bình quân là 25 phần trăm chẳng hạn (ví dụ
như là kết quả của mức thuế quan đồng đều 25 phần trăm), thì trước khi cải cách và bất kể sự
hỗ trợ trực tiếp tích cực đối với các nhà nông, đã có quá nhiều nguồn lực trong nền kinh tế
nằm trong hoạt động công nghiệp so với hoạt động nông nghiệp. Trong trường hợp đó, giảm
hỗ trợ nông nghiệp có thể làm tình trạng phân bổ nguồn lực không hiệu quả này càng thêm
tồi tệ chứ chẳng phải cải thiện nó. Để đảm bảo một cuộc cải cách chính sách nâng cao phúc
lợi trong trường hợp này, trước tiên phải hạ thấp mức độ hỗ trợ công nghiệp bằng với mức hỗ
trợ các nhà nông, giảm dần bảo hộ trong cả hai lĩnh vực một cách đồng thời.1
Nếu cảm thấy quá khó khăn về mặt chính trị khi hạ thấp bảo hộ thuế quan cho các
nhà sản xuất công nghiệp chế tạo, có lẽ sự cải thiện phúc lợi tương tự cũng sẽ đạt được thông
qua tăng mức hỗ trợ nông nghiệp chăng? Trên lý thuyết là có thể, nhưng trong thực tế một
chiến lược đền bù cho thuế quan như thế sẽ là không khôn ngoan, vì một số lý do. Thứ nhất,
nếu mức hỗ trợ cho các ngành khác nhau trong phạm vi từng khu vực của hai khu vực mà
không đồng đều, tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực trong nội bộ khu vực
vẫn còn và có thể còn trở nên tồi tệ hơn khi mức hỗ trợ nông nghiệp bình quân gia tăng. Thứ
hai, nền kinh tế lúc nào cũng được tạo thành bởi nhiều hơn hai khu vực này, nên các mức hỗ
trợ tương tự cũng sẽ phải được dành cho các khu vực ngư nghiệp, khai khoáng và các khu
vực khác để đảm bảo sự cải thiện chung về hiệu quả sử dụng các nguồn lực quốc gia. Thứ ba,
giả sử sự trợ giúp nông nghiệp được cung cấp thông qua trợ cấp các nhập lượng đầu vào như
phân bón và nước như trên thực tế thường xảy ra, ngay cả tại những nước nghèo. Hoá ra là
chính sách hỗ trợ nông nghiệp thông qua nhập lượng đầu vào sẽ kém hiệu quả hơn và thậm
chí còn phản tác dụng vì nó sẽ khuyến khích việc sử dụng chỉ một số loại nhập lượng thay vì
tất cả các yếu tố đầu vào trong hoạt động nông nghiệp (Warr 1978). Tệ hại nhất là, các nhà
sản xuất công nghiệp sẽ nhận thấy tình hình của họ trở nên bị tác hại nếu sự hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp gia tăng, và nếu không có thay đổi gì trong các áp lực kinh tế chính trị đang xảy
ra, người ta có thể cho rằng họ sẽ yêu cầu quay trở lại trạng thái trước đây, có lẽ thông qua
một đợt tăng khác trong thuế quan công nghiệp. Rõ ràng sự đền bù thuế quan cho các nhà
nông là một chiến lược cải cách rủi ro hơn nhiều để cải thiện việc sử dụng nguồn lực quốc
gia so với chiến lược điều tốt hạng nhất là giảm thuế quan công nghiệp.