
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 1
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG
CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)

Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 2
MỤC LỤC
1. Giới thiệu: ....................................................................................................................... 3
2. Lý thuyết dự đoán:........................................................................................................ 5
3. Bằng chứng thực nghiệm hiện có : ............................................................................ 7
4. Phương pháp luận thực nghiệm và kết quả: ........................................................... 7
4.1. Dữ liệu và phương pháp luận:................................................................................. 9
4.2. Kết quả thực nghiệm:............................................................................................. 13
4.3 Kiểm định robustness:............................................................................................. 15
4.3.1 GDP ban đầu: .................................................................................................. 16
4.3.2 Thay đổi kỳ 5 năm: ........................................................................................... 16
4.3.3. Ước tính biến công cụ:.................................................................................... 19
4.3.4. Phân loại lại các biến tài chính ..................................................................... 20
5. Kết luận :....................................................................................................................... 22

Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 3
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG CHỨNG TỪ CÁC
NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)
Phải chăng bằng chứng phù hợp với những dự đoán của các mô hình tăng
trưởng nội tại cho rằng cấu trúc thuế và chi tiêu công có thể ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng ổn định? Nhiều nghiên cứu trước đây cần phải được đánh giá xem xét
lại vì đã bỏ qua độ lệch liên quan đến việc không nêu đầy đủ chi tiết của giới hạn
ngân sách chính phủ. Chúng tôi chỉ ra rằng những độ lệch này là trọng yếu và điều
chỉnh chúng, tìm kiếm cơ sở vững chắc cho mô hình Barro (1990,
Chi tiêu của chính phủ trong một mô hình tăng trưởng nội sinh. Tạp chí Chính trị
Nền kinh tế 98 (1), S103-117, cho một nhóm 22 quốc gia OECD, 1970-1995.
Đặc biệt chúng tôi tìm thấy (1)thuế gây bóp méo kìm hã m tăng trưởng, trong khi
thuế không gây bóp méo thì không, và (2)Chi tiêu chính phủ vào sản xuất đẩy mạnh
tăng trưởng, trong khi chi tiêu phi sản xuất không có tác dụng đối với tăng trưởng.
1. Giới thiệu:
Tỷ lệ phân chia các khoản chi tiêu chính phủ, hoặc các thành phần của chi
phí và doanh thu có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong dài hạn hay không?
Theo các mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) và Swan (1956), câu trả
lời phần lớn là "không". Ngay cả khi chính phủ có thể tác động đến tốc độ tăng
trưởng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hoặc khuyến khích sinh đẻ,
những điều trên không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dài hạn của thu nhập bình
quân trên đầu người. Trong các mô hình này, thuế và các biện pháp chi tiêu ảnh
hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm hoặc khuyến khích đầu tư vốn vào vật chất hay con người
cuối cùng ảnh hưởng đến tỷ số cân bằng tài chính hơn là tốc độ tăng trưởng bền
vững.
Ngược lại, trong các mô hình tăng trưởng nội sinh, vốn đầu tư vào con người
và vật chất ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bền vững, và do đó trong các mô hình
này, ít nhất một số yếu tố thuế và chi tiêu công đóng vai trò trong quá trình tăng
trưởng. Kể từ khi có sự đóng góp tiên phong của Barro (1990), King và Rebelo
(1990) và Lucas (1990), một số bài báo đã mở rộng việc phân tích thuế, chi tiêu

Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 4
công và tăng trưởng, chứng minh trong một vài điều kiện khác nhau với các biến tài
khóa có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn (ví dụ, Jones và cộng sự, 1993;.
Stokey và Rebelo, 1995;. Mendoza và cộng sự, 1997).
Nếu lý thuyết là hợp lý hoàn toàn, tuy nhiên, trên thực tế không phải như vậy.
Như Stokey và Rebelo (1995, trang. 519) tuyên bố, '' Những ước tính gần đây của
tác động đến tăng trưởng tiềm năng của thuế biến động khá lớn, từ 0 đến 8%’'. Trên
thực tế, hầu như không có nghiên cứu đi sâu vào kiểm tra các dự đoán của mô hình
tăng trưởng nội sinh đối với các cấu trúc của cả thuế và chi tiêu trong với cách mà
chúng tôi làm ở đây ( Devarajan và cộng sự(1996). Chỉ làm như vậy cho vấn đề chi
tiêu).
Hơn nữa, vài nhà nghiên cứu đã công nhận rằng nghiên cứu một phần (ví dụ
như những người tập trung nghiên cứu có chọn lọc chỉ một mặt của ngân sách và bỏ
qua những mặt khác) thiên lệch về phương pháp liên kết các tham số ước lượng với
các giả định tài chính tiềm ẩn. Điểm này đã được chứng minh bởi Helms (1985),
Mofidi và Stone (1990) và Miller và Russek (1993) với các bộ dữ liệu khác nhau.
Chúng tôi khám phá ý nghĩa của lập luận này cho đặc điểm kỹ thuật hồi quy
và cho thấy rằng, nếu điều này bị bỏ qua, sự thiên lệch trong ước lượng về tác động
tăng trưởng của các biến tài khóa có thể là đáng kể.
Trong bài báo này, chúng tôi kiểm tra những dự đoán cụ thể về chính sách
công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần đây như Barro (1990) và Mendoza et al.
(1997), chú ý cẩn thận để tránh nguồn gốc của thiên lệch vừa được đề cập đến. Sử
dụng các tiêu chuẩn đề xuất của các mô hình này để phân loại dữ liệu tài chính,
chúng ta xem xét các tác động tăng trưởng của tài chính chính sách đối với một
nhóm 22 quốc gia OECD trong giai đoạn 1970-1995. Chúng tôi đã thấy: (i) sự hỗ
trợ đáng kể cho các dự đoán của Barro (1990) đối với các tác động của cấu trúc thuế
và chi tiêu đối vớ tăng trưởng; (ii) việc không nêu chi tiết giới hạn ngân sách chính
phủ dẫn đến đánh giá các thông số rất khác nhau, như các nghiên cứu trước đó, đã
mắc lỗi cơ bản vì không có tính vững, và (iii)Kết quả của chúng tôi là vững trước
những thay đổi trong việc phân loại dữ liệu hoặc đặc điểm kỹ thuật hồi quy.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được tổ chức như sau:
Phần 2: Tóm tắt các dự đoán chính sách công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần
đây và thảo luận sự liên quan của giới hạn ngân sách chính phủ để kiểm tra thực

Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 5
nghiệm.
Phần 3: Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Phần 4: Thảo luận phương pháp thực nghiệm và kết quả cho các ví dụ từ OECD.
Phần 5: Kết luận.
2. Lý thuyết dự đoán:
Như chúng ta đã biết, chính sách công trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển
(xem, cho ví dụ, Judd, 1985, Chamley, 1986) ủy thác vai trò của chính sách tài khóa
để đưa ra một quyết định mức sản lượng hơn là tỷ lệ tăng trưởng dài hạn. Trạng thái
tỷ lệ tăng trưởng ổn định được chi phối bởi các yếu tố ngoại sinh gồm tăng trưởng
dân số và tiến bộ kỹ thuật. Trong khi chính sách tài khóa có thể chỉ ảnh hưởng đến
hướng chuyển đổi tiến tới trạng thái ổn định này.
Ngược lại, chính sách công trong mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990),
Barro va Sala-i-Martin (1992), (1995) và Mendoza et al (1997) cung cấp cơ chế
bằng việc chính sách tài khóa có thể xác định được cả mức sản lượng và tỷ lệ tăng
trưởng ổn định.
Dự báo từ những mô hình tăng trưởng nội sinh này được xuất phát từ phân
loại các yếu tố của ngân sách chính phủ vào một trong bốn loại : thuế bóp méo hoặc
thuế không gây bóp méo và chi phí sản xuất hay chi phí phi sản xuất. Thuế bóp méo
trong bối cảnh này là những cái gây ảnh hưởng lên quyết định đầu tư của những tác
nhân (đối với khía cạnh vật chất, hoặc con người), tạo nên thuế gây chèn lấn và từ
đó bóp méo tỷ lệ tăng trưởng ổn định. Thuế không bóp méo không ảnh hưởng lên
quyết định tiết kiệm/đầu tư vì nó tạo ra chức năng thiên về tính tự nhiên, và vì vậy
nó không gây tác động lên tỷ lệ tăng trưởng.
Chi tiêu chính phủ được phân biệt theo mặc dù chúng bao gồm sự tranh luận
trong các chức năng sản xuất tư nhân hoặc không. Nếu có, thì chúng được phân loại
mang tính sản xuất và vì vậy có một ảnh hưởng trực tiếp lên tỷ lệ tăng trưởng. Nếu
chúng không có, thì chúng được phân loại như chi phí phi sản xuất và không ảnh
hưởng lên tỷ lệ tăng trưởng ổn định (xem trong Barro và Sala-i-Martin, 1995 để có
một lý thuyết trình bày rõ ràng).
Những kết quả này có thể được mở rộng theo nhiều cách khác nhau, ví dụ
như cho phép chính phủ được cung cấp hàng hóa mang tính sản xuất tồn kho hơn là
hình thức lưu lượng (Glomm và Ravikumar, 1994, 1997) hoặc cho các hình thức