
Phát triển kinh tế tại các nước Nam Á GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Nhóm 6- NH Đêm 2-K22 Trang 1
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HAY CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ SẼ HIỆU QUẢ HƠN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẠI CÁC NƯỚC NAM Á

Phát triển kinh tế tại các nước Nam Á GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Nhóm 6- NH Đêm 2-K22 Trang 2
MỤC LỤC
1. Giới thiệu....................................................................................................................... 1
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp thực hiện................................................................... 4
2.1. Kiểm định nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng (panel unit root tests)....... 4
2.1.1. Levin, Lin và Chu ......................................................................................... 5
2.1.2. Im, Pesaran, và Shin .................................................................................... 5
2.2. Kiểm định đồng liên kết: Phương pháp kiểm định ARLD Bounds................ 5
3. Kết quả nghiên cứu ...................................................................................................... 7
3.1. Kiểm tra giả thuyết nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng.............................. 7
3.2. Mô hình ARDL lựa chọn độ trễ .......................................................................... 8
4. Kết luận........................................................................................................................ 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 12

Phát triển kinh tế tại các nước Nam Á GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Nhóm 6- NH Đêm 2-K22 Trang 1
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HAY CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
SẼ HIỆU QUẢ HƠN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TẠI CÁC NƯỚC NAM Á
Bài nghiên cứu kiểm định mối tương quan giữa hai loại hình chính sách tài
khóa và tiền tệ tại các quốc gia Nam Á: Pakistan, Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh
giai đoạn 1990 – 2007, nghiên cứu một cách thực nghiệm vấn đề đã gây nhiều
tranh cãi: liệu chính sách tài khóa hay chính sách tiền tệ sẽ có ảnh hưởng quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế tại bốn quốc gia này. Sử dụng kiểm định nghiệm
đơn vị trên số liệu dạng bảng để kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ liệu và phương
pháp ARDL để kiểm tra các tuyên bố của các nhà kinh tế trọng tiền, các nhà kinh
tế thuộc trường pháp Keynes. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách tiền tệ là
một công cụ vô cùng hữu hiệu so với chính sách tài khóa trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đối với các nước Nam Á.
1. Giới thiệu
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ liên hệ khá chặt chẽ với nhau, có
thể sử dụng một cách độc lập hoặc kết hợp với nhau để đạt được những mục tiêu
kinh tế nhất định. Mối tương quan giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
đã được nghiên cứu và tìm hiểu rộng rãi. Friedman & Meiselman (1963), Ansari
(1996), Reynolds (2000, 2001), Chari, et al (1991,1998), Schmitt & Uribe (2001a),
Sapiro & Watson (1988), Blanchard & Perroti (1996), Christiano, et al (1996),
Chari & Kehoe (1998), Kim (1997), Chowdhury (1986, 1988), Chowdhury, et al (
1986), Weeks (1999), Feldstein (2002) và Cardia (1991) đã kiểm định mối tương
quan của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trên nhiều mẫu nghiên cứu khác
nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm chưa thể dẫn tới kết
luận về mối tương quan chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
trong việc tác động đến sự phát triển kinh tế. Một vài nhà nghiên cứu tìm được các
bằng chứng ủng hộ cho quan điểm trọng tiền, cho rằng chính sách tiền tệ nhìn

Phát triển kinh tế tại các nước Nam Á GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Nhóm 6- NH Đêm 2-K22 Trang 2
chung có ảnh hưởng lớn hơn đến sự tăng trưởng kinh tế và chi phối cả chính sách
tài khóa nhờ tác động của nó đến đầu tư và tăng trưởng [Friedman & Meiselman
(1963), Ajaye (1974), Elliot (1975), Batten & Hafer (1983)]. Trong khi một số nhà
nghiên cứu khác cho rằng các tác động tài khóa là vô cùng quan trọng cho sự phát
triển của nền kinh tế [Chowdhury (1986), Olaloye & Ikhide (1995). Mặt khác,
theo Cardia ( 1991), các tác động kinh tế vĩ mô có thể giải thích được phần lớn
dựa vào các biến giải thích khác.
Các thực nghiệm trong giai đoạn những năm 1970 chỉ ra rằng một chính sách
kết hợp chỉ dẫn đến kết quả duy nhất là tình trạng lạm phát đình đốn. Một số nhà
kinh tế đặc biệt quan tâm đến tiền tệ thể hiện qua việc kết hợp mô hình tân cổ điển
Keynes với lý thuyết của James Tobin. Việc tranh luận về thuế suất và tăng trưởng
cung tiền sẽ đồng thời dẫn đến tình trạng lạm phát đình đốn, vì thế Chính phủ chỉ
có thể chọn hoặc chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ để tăng trưởng kinh
tế. [Reynolds (2001)].
Việc lựa chọn phối hợp chính sách tối ưu mang lại tầm ảnh hưởng quan trọng
đến sự phát triển của nền kinh tế. Các nhà kinh tế thuộc trường phái trọng tiền tin
rằng việc không đánh giá đúng những thay đổi trong cung tiền sẽ tác động sản
lượng đầu ra và tăng trưởng, tức là, nếu mục tiêu của ngân hàng trung ương là đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng, thì phải gia tăng mạnh cung tiền. Nhưng lý thuyết về bẫy
thanh khoản của Keynes đã cho thấy nếu lãi suất thực giảm đến một mức độ nào
đó thì việc gia tăng cung tiền không thể kích thích sản lượng đầu ra và tăng
trưởng, lý do chính là cung tiền không thể gây tác động giảm lãi suất và do đó đầu
tư cũng sẽ không tăng lên vì sự kém nhạy cảm của lãi suất.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có những tác động kinh tế rất khác
nhau, và những khác biệt này phải được phản ánh trong mục tiêu của nó [Levy
(2001)]. Vì Keynes cho rằng kích thích tổng cầu và sự sụt giảm tổng cầu lần lượt
sẽ cắt giảm được suy thoái và kiềm chế lạm phát, nhưng hai mục tiêu này hầu như
không thể đạt được cùng lúc. Để đáp lại Keynes, Mundell (1971) ủng hộ chính

Phát triển kinh tế tại các nước Nam Á GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Nhóm 6- NH Đêm 2-K22 Trang 3
sách tiền tệ nếu mục đích là để kiềm chế lạm phát, và chính sách tài khóa nên
được thực hiện để kích thích thị trường lao động và gia tăng sản lượng tiềm năng.
Có một sự thống nhất giữa các nhà kinh tế cho rằng các nhà xây dựng chính
sách cần dựa trên việc kết hợp các chính sách. Về cơ bản, có bốn kết hợp chính
sách có thể được dùng thay thế cho nhau. Nếu mục đích là tăng tốc độ tăng trưởng
kinh tế, chính sách tài khóa mở rộng và nới lỏng tiền tệ nên được thực hiện, nhưng
nếu nền kinh tế đang gánh chịu tình trạng lạm phát, chính sách nới lỏng tài khóa
và thắt chặt tiền tệ cần được thực hiện. Nếu tình trạng thâm hụt tài khóa tăng
trưởng cung tiền lớn xảy ra, gây tác động tăng trưởng kinh tế và cái giá phải gánh
chịu là lạm phát, thì sự kết hợp của các chính sách này là có hiệu quả. Ngoài ra
cũng có kết hợp thắt chặt tài khóa, nới lỏng tiền tệ và nới lỏng tài khóa, thắt chặt
tiền tệ, nhưng những kết hợp này không đem lại kết quả tốt hơn trong thực tiễn
[Brimmer & Sinai (1986)].
Mục đích của bài nghiên cứu này là nghiên cứu một cách thực nghiệm vấn đề
đã gây nhiều tranh cãi: liệu chính sách tài khóa hay chính sách tiền tệ mới có ảnh
hưởng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế tại 4 quốc gia Châu Á: Pakistan, Ấn
Độ, Srilanka và Bangladesh. Tác giả đã tiến hành kiểm tra mối tương quan của cả
hai chính sách với phân tích các bảng dữ liệu.
Bảng 1 mô tả các biến kinh tế được chọn của các quốc gia Nam Á bao gồm:
tốc độ tăng trưởng GDP, cân bằng tài khóa (Fiscal balance) và cung tiền(Money
Supply). Theo đó, Pakistan và Bangladesh có tỷ lệ tăng trưởng GDP thực hàng
năm trong giai đoạn 1990 và 2000-2007 như nhau ( đều tăng 0.7%), trong khi Ấn
Độ có tỷ lệ tăng trưởng GDP cao nhất ( 1.4%), ngược lại Sri Lanka có tốc độ tăng
trưởng khá thấp, thậm chí giảm 0.2%. Liên quan đến việc cân bằng tài khóa, mặc
dù cả 4 quốc gia vẫn đang cải thiện cán cân tài khóa, tốc độ cải thiện của Pakistan
là tốt hơn nhờ việc sử dụng các chính sách do IMF đề xuất cũng như ảnh hưởng
của chương trình điều chỉnh cấu trúc (1988, SAP). Trong số này, cung tiền của Ấn
Độ tăng cao ( tăng 22,7%), cho thấy một chính sách mở rộng tiền tệ. Bảng 1 cho ta