
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHO A TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Địa chỉ: Số 279 – Đường Nguyễn Tri Phương – Quận 10 – TP. HCM
ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
TĂNG TRƯỞNG: BẰNG CHỨNG
TỪ CÁC NƯỚC OECD
GVHD : PGS. TS SỬ ĐÌNH THÀNH
SVTH : NHÓM 5
LỚP : TCDN ĐÊM 4 – K22

GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 5 - TCDN Đêm 4 - K22
Chính sách tài khóa và tăng trưởng: Bằng chứng từ các nước OECD Trang 2
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2013
DANH SÁCH NHÓM
STT Họ và tên
1 Lê Thị Hiếu Hạnh
2 Nguyễn Thị Lan Hương
3 Lê Quý Kỳ
4 Nguyễn Thành Nam
5 Nguyễn Thanh Phú
6 Hồ Thị Bích Thảo

GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 5 - TCDN Đêm 4 - K22
Chính sách tài khóa và tăng trưởng: Bằng chứng từ các nước OECD Trang 3
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG
CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC OECD
Tóm tắt
Liệu có những bằng chứng phù hợp với dự đoán của mô hình tăng trưởng nội sinh rằng
cơ cấu thuế và chi tiêu công ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ổn định? Phần lớn nghiên
cứu trước đây cần phải được xem xét lại bởi vì nó bỏ qua những sai lệch liên quan đến
thông số chưa hoàn chỉnh trong việc ràng buộc ngân sách chính phủ. Nhóm tác giả cho
rằng sai lệch là đáng kể, và có thể thấy rõ trong mô hình Barro (1990, một mô hình đơn
giản của tăng trưởng nội sinh về chi tiêu của Chính phủ). Cụ thể, nhóm tác giả thấy rằng
thuế bóp méo làm giảm tăng trưởng, trong khi thuế không bóp méo thì không gây ra việc
này, và chi tiêu chính phủ cho sản xuất giúp cho việc tăng trưởng, trong khi chi tiêu cho
khu vực phi sản xuất thì không.
1. Lời giới thiệu
Liệu tỷ trọng của chi tiêu chính phủ trong tổng sản lượng đầu ra, hoặc cơ cấu giữa chi và
thu có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong dài hạn? Theo mô hình tăng trưởng tân cổ
điển của Solow (1956) và Swan (1956), câu trả lời chủ yếu là "không". Ngay cả khi chính
phủ có thể tác động đến tốc độ tăng trưởng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ
sinh hoặc khuyến khích sinh đẻ, điều này cũng không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng
dài hạn của thu nhập bình quân trên đầu người. Trong các mô hình này, giới hạn thuế và
chi tiêu ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm hoặc ưu đãi đầu tư vào vốn vật chất hay vốn con
người cuối cùng ảnh hưởng đến tỷ lệ cân bằng chứ không phải là tốc độ tăng trưởng ổn
định.
Ngược lại, trong mô hình tăng trưởng nội sinh, đầu tư vào vốn con người và vốn vật chất
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ổn định, và do đó nó có phạm vi rộng hơn trong các
mô hình trước đó, cho rằng thuế và chi tiêu chính phủ giữ một vai trò trong quá trình phát
triển. Kể từ những đóng góp tiên phong của Barro (1990), King và Rebelo (1990), Lucas

GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 5 - TCDN Đêm 4 - K22
Chính sách tài khóa và tăng trưởng: Bằng chứng từ các nước OECD Trang 4
(1990), một số bài nghiên cứu đã mở rộng việc phân tích thuế, chi tiêu công và tăng
trưởng, chứng minh các biến số tài khóa có thể ảnh hưởng tốc độ tăng trưởng dài hạn
trong các điều kiện khác nhau (ví dụ: Jones và cộng sự, 1993;. Stokey và Rebelo, 1995;
Mendoza và cộng sự, 1997.).
Lý thuyết là khá rõ ràng, tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm không phải như vậy. Theo
Stokey và Rebelo (1995),''những ước tính gần đây về tăng trưởng tiềm tàng từ tác động
của việc cải cách thuế rất khác nhau, dao động từ không đến tám điểm phần trăm''. Trong
thực tế, hầu như không có nghiên cứu nào được thiết kế để kiểm tra các dự đoán của các
mô hình tăng trưởng nội sinh liên quan đến cấu trúc của thuế và chi tiêu theo cách mà
nhóm tác giả thực hiện trong bài nghiên cứu này.
Hơn nữa, một vài nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng nghiên cứu từng phần (ví dụ như
những người tập trung hoàn toàn vào một khía cạnh của ngân sách và bỏ qua những khía
cạnh khác) sẽ bị sai lệch hệ thống đối với việc ước lượng các tham số kết hợp với các giả
định tài trợ tiềm ẩn. Điểm này đã được chứng minh bởi Helms (1985), Mofidi và Stone
(1990) và Miller và Russek (1993) cho bộ dữ liệu khác nhau. Từ các tranh luận về các
thông số hồi quy, nhóm tác giả nhận thấy rằng, nếu điểm này bị bỏ qua, sai lệch ước tính
về tác động lên tăng trưởng của các biến số tài khóa là đáng kể. Vấn đề này giả định một
điều quan trọng quan trọng là lý thuyết trở nên chính xác hơn trong những dự đoán của
mình về tác động của của chi tiêu và thuế đối với tăng trưởng.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả kiểm tra những dự đoán cụ thể của những mô
hình tăng trưởng nội sinh về chính sách công gần đây của Barro (1990) và Mendoza
(1997), lưu ý đặc biệt đến việc bỏ qua nguồn gốc của sai lệch đã đề cập đến. Sử dụng các
tiêu chuẩn đề xuất của các mô hình tăng trưởng nội sinh để phân loại các dữ liệu tài khóa,
nhóm tác giả xem xét các tác động của chính sách tài khóa với tăng trưởng đối với một
nhóm mẫu gồm 22 quốc gia OECD trong giai đoạn 1970-1995. Nhóm tác giả thấy rằng:
(i) có sự đồng tình cao với các dự đoán của Barro (1990) đối với các tác động của cơ cấu
thuế và chi tiêu tăng trưởng, (ii) những thông số sai lệch trong ràng buộc ngân sách của
chính phủ dẫn đến ước lượng tham số rất khác nhau, và (iii) các kết quả của nhóm tác giả
đủ mạnh để dẫn đến một số thay đổi trong việc phân loại dữ liệu hoặc các tham số hồi
quy.

GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 5 - TCDN Đêm 4 - K22
Chính sách tài khóa và tăng trưởng: Bằng chứng từ các nước OECD Trang 5
Phần còn lại của bài nghiên cứu này theo thứ tự như sau. Trong phần 2 nhóm tác giả tóm
tắt những dự đoán chính của chính sách mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách công
gần đây và thảo luận về những tác động của sự hạn chế ngân sách nhà nước qua kiểm tra
thực nghiệm. Nghiên cứu thực nghiệm có liên quan được trình bày trong phần 3. Phần 4
thảo luận về phương pháp và kết quả thực nghiệm cho nhóm mẫu các nước OECD, và
phần 5 đưa ra một số kết luận.
2. Những dự báo mang tính lý thuyết
Như đã biết, các mô hình tăng trưởng theo trường phái tân cổ điển trong chính sách công
thường xem chính sách tài khóa như là một nhân tố quyết định mức sản lượng đầu ra, hơn
là quyết định tốc độ tăng trưởng dài hạn. Tốc độ tăng trưởng được giữ ổn định là nhờ vào
các nhân tố ngoại sinh như mức tăng dân số và các tiến bộ công nghệ; còn chính sách tài
khóa thì chỉ có thể tác động vào quá trình chuyển tiếp lên tình trạng tăng trưởng ổn định
mà thôi. Ngược lại, cơ chế vận hành của mô hình tăng trưởng nội sinh trong chính sách
công cho phép chính sách tài khóa có thể quyết định cả mức sản lượng đầu ra lẫn sự tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế.
Những dự báo từ các mô hình tăng trưởng nội sinh bắt nguồn từ việc phân loại các yếu tố
thuộc ngân sách nhà nước ra làm một trong bốn loại: thuế bóp méo (Các loại thuế làm
thay đổi hành vi kinh tế của cá nhân hoặc doanh nghiệp) hoặc thuế không gây bóp méo,
chi tiêu cho sản xuất hay phi sản xuất. Thuế bóp méo trong trường hợp này là những loại
thuế làm ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của 1 công ty (liên quan đến vốn vật chất
và/hoặc vốn nhân lực), tạo ra chênh lệch giá do thuế, do đó làm cho trạng thái tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế bị rối loạn. Theo giả định, bản chất của thuế không bóp
méo là không làm ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư hoặc tiết kiệm, và do đó nó
không gây ảnh hưởng gì lên tốc độ tăng trưởng. Chi tiêu của chính phủ được phân biệt
tùy thuộc vào việc nó có được tính như là một tham số trong hàm sản xuất tư nhân hay
không. Nếu có, đó là chi sản xuất và do đó tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng. Nếu
không, đó là chi tiêu phi sản xuất, và không gây ảnh hưởng gì.
Có thể áp dụng những kết quả này bằng nhiều cách, chẳng hạn xem xét hàng hóa do
chính phủ cung cấp là hữu ích trong khi tồn kho thay vì trong lưu thông hoặc xem các
cách đánh thuế khác nhau để gây bóp méo (hoặc các hình thức khác nhau của chi tiêu cho
sản xuất) ở các mức độ khác nhau. Tất nhiên sẽ có nhiều tranh cãi về việc xác định loại