
Tiểu luận
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH
THÍCH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC
NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC

Trang 1
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC
Ravinder Rena (Poytechnic of Namibia, Namibia)
Ghirmai T. Kefela (DTAG INC., USA)
Tóm tắt: Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các
chính sách tài khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào
việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công. Nghiên cứu này giới thiệu những vấn
đề của chính sách tài khoá và những hiệu quả tiềm năng trong hoạt động kinh tế của
chúng. Nghiên cứu cũng đào sâu các vai trò mang tính kinh tế và những cách thức
ngầm của việc vay nợ trong nước và nước ngoài. Nó tập trung vào phương pháp của
chính sách tài khoá để chỉ ra và đánh giá các tác động của chính sách thuế linh hoạt
và các yêu cầu của quản lý nợ công. Bài nghiên cứu cũng làm rõ giả thiết cơ bản,
nguyên tắc và ứng dụng của tài chính công bao gồm sự phân quyền và các mối quan
hệ tài chính liên chính phủ trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển tiếp của
châu Phi.
Giới thiệu
Bài nghiên cứu này giới thiệu các vấn đề chính của chính sách tài khoá và các hiệu
quả ngầm trong hoạt động kinh tế. Hai công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô
là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ mà
một chính phủ điều chỉnh mức độ chi tiêu công để theo dõi và gây ảnh hưởng lên
nền kinh tế của quốc gia (Rena, 2006). Đây là chính sách có quan hệ mật thiết với
chính sách tiền tệ, là chính sách mà một Ngân hàng Trung Ương tác động tới cung
tiền của một quốc gia. Hai chính sách này được kết hợp rất nhiều trong nỗ lực đưa
nền kinh tế quốc gia đạt được các mục tiêu. Chính sách tài khoá là một công cụ
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành

Trang
mạnh để ổn định kinh tế, kiểm soát dựa trên số lượng và cơ cấu của thuế, chi tiêu
công và quản lý nợ công. Chính sách tài khoá tác động đến tổng cầu, phân phối của
cải và khả năng của nền kinh tế tạo ra hàng hoá và dịch vụ. Nợ tốt và quản trị tài
chính được chấp nhận rộng rãi dưới hình thức các công cụ ổn định kinh tế vĩ mô.
Nó đảm bảo cho việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực công và là một tiền đề cho
tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn có một thoả thuận rộng rãi về những gì liên quan
đến quản trị tài chính (Campos và Pradhan, 1996). Tuy nhiên, quản trị ngân sách và
tài chính không thể hoàn toàn tách rời khỏi ảnh hưởng của chính trị. Thách thức là
quản lý những cái chung giữa ngân sách và chính trị bằng cách thiết kế và thực hiện
các khuôn khổ pháp lý, việc này sẽ nâng cao chất lượng sự tham gia của chính trị và
thúc đẩy trách nhiệm tài chính. Bài nghiên cứu này tóm tắt nhiều cách tiếp cận khác
nhau được sử dụng ở những quốc gia phát triển trong các đề xuất cải cách khu vực
công của họ, và sẽ khám phá thể chế tương tự kiểm soát đến mức độ nào và các ưu
đãi có thể được tạo lập trong các nền kinh tế mới nổi. Bài tập trung vào khuôn khổ
"quản trị" hay "hiến pháp" chứ không phải quyết định "chính trị" đang diễn ra trong
những khuôn khổ này (Schick, 1998). Chính phủ của các quốc gia phát triển nên
thực hiện những bước tiến đáng kể để tăng cường cơ cấu tổ chức cho chính sách tài
khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ chỉ đạo kiên quyết trong việc duy trì tài
chính công trong trung hạn, dựa trên các quy định khắt khe. Chính sách tài khoá này
đi cùng với chính sách tiền tệ tạo nên nền tảng của sự ổn định cần thiết cho việc đạt
được các mục tiêu của Chính phủ và các mức độ ổn định của việc làm (Rena, 2011).
Mấu chốt của quản trị tài chính công thành công là một vấn đề của quản trị nhằm
cân bằng nền kinh tế, quản lý, chính trị và tài chính công. Khi quản trị tài chính là
không tốt thì ít có cơ hội thành công các mục tiêu chính sách tài khóa.
Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các chính sách tài
khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào việc cung cấp
các hàng hoá và dịch vụ công (Rena, 2011). Các ngoại tác của một sự quản trị

Trang 3
doanh nghiệp tốt là các bộ luật, quy tắc và các tổ chức cung cấp một sân chơi lành
mạnh và đưa vào kỷ luật hành vi của các thành phần tham gia, bất kể các nhà quản
lý hay các cổ đông. Kinh nghiệm trong một nền kinh tế thị trường phát triển chỉ ra
rằng chính sách cạnh tranh hợp pháp, quyền cổ đông hợp pháp, các hệ thống kế toán
và kiểm toán, một hệ thống tài chính tốt, hệ thống phá sản và thị trường cho việc
kiểm soát công ty là những tổ chức sẽ cung cấp các chỉ dẫn đúng đắn và đưa các
công ty vào kỷ luật (Bird and Oldman, 1990).
Cách duy nhất để bảo đảm rằng những người nộp thuế nhận được giá trị thực cho số
tiền mà họ đã bỏ ra là khi Chính phủ lập mục tiêu đầu tư và cải cách thuế dài hạn.
Dịch vụ công tốt và đáng tin cậy rất quan trọng cho phát triển kinh tế, loại trừ tệ nạn
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đầu tư và cải cách thuế được đưa về nền
tảng cho một nền kinh tế mạnh hơn, hiệu quả hơn (Shome, 2004; Rena, 2011). Trên
thế giới, tất cả các nước có thể đối mặt với những thách thức trong việc điều chỉnh
tài chính công, đặc biệt là để đáp ứng với những cú sốc không thể dự đoán, quản lý
kinh tế yếu kém, hoặc những thay đổi cấu trúc dài hạn trong nền kinh tế. Điều chỉnh
tài chính công được thực hiện thông qua sự kết hợp của các loại chi phí cần thiết
dịch chuyển từ việc cung cấp hàng hoá ,dịch vụ và kế hoạch tập trung trực tiếp sang
việc cung cấp chọn lọc hơn hoặc tài trợ hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt và bảo đảm
phân phối công bằng (Bougrand, Loko và Mlachila, 2002). Các khoản ngân sách
cần phải được điều chỉnh nhanh chóng để kịp thời với sự thay đổi của nền kinh tế,
điều này cần một sự tái định hướng vai trò lớn của Chính phủ, và cần có một ảnh
hưởng rộng đến nền kinh tế làm tăng huy động vốn thu nhập, và cải thiện phân bổ
nguồn lực và năng suất, thường là thông qua cải cách thể chế và cơ cấu (Campos và
Pradhan, 1996; FitzGerald, 2003). Trong trường hợp của Ghana năm 2001, “thu
nhập thuế dưới mức 20% của tổng chi tiêu quốc nội. Lý do của sự sụt giảm này là vì
sự tuân thủ của những người nộp thuế chưa hoàn hảo”, phát biểu của Bộ trưởng
Osafo-Maafo. Do vậy, vì Chính phủ Ghana muốn dựa vào thu nhập thuế nhiều hơn
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành

Trang
theo thời gian, họ đã đưa ra chính sách cải cách thuế mạnh hơn để mở rộng thu nhập
và tăng cường sự tuân thủ. Những chính sách như thế cần những lựa chọn chính trị
khó khăn hơn và tiêu tốn nguồn lực để tăng cường hiệu quả quản lý thuế, vì nó đóng
vai trò chính trong việc tăng cường thu nhập từ thuế (Thống đốc Ngân hàng Trung
Ương Ghana, 2001).
Cải cách thuế của Ghana tạo thành công cụ chính sách quan trọng cần thiết để thúc
đẩy tăng trưởng và giảm nghèo (Osei, 2006). Những thay đổi lớn của Ghana trong
chính sách tài chính quản lý thuế đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện
huy động nguồn thu của đất nước và tình hình tài chính tổng thể. Những yếu tố
chính được đưa ra cho sự gia tăng doanh thu là việc mở rộng cơ sở thuế, cơ cấu
thuế, và tái tổ chức quản lý thuế. Nếu quản lý thuế là để trở nên có hiệu quả ở các
nước đang phát triển, sự kết hợp rất lớn của con người chất lượng và nguồn tài
nguyên cần thiết để thực hiện như vai trò chuyên nghiệp của các tổ chức doanh thu
(Fjeldstad, Odd-Helge, 2006; Rena, 2011). Việc thiết kế một tài chính trung hạn phù
hợp là khuôn khổ thúc đẩy một sự phân phối bền vững các dịch vụ công tốt hơn và
cơ sở hạ tầng trong khi duy trì một cam kết đáng tin cậy để sự thận trọng tài chính
phải đối mặt với nhiều thách thức. Nhiệm vụ chính của quản lý tài chính trong các
Bộ này có xu hướng hầu như phối hợp với phân bổ chi tiêu, kiểm soát của bộ phận
ngân sách.
Tuy nhiên, như doanh thu, chính sách được thỏa hiệp và giám sát thực tế của hoạt
động doanh thu trở nên thoải mái, dẫn đến quản lý không hiệu quả và mất doanh
thu. Bougrand, Loko, và Mlachila (2002) nhận thấy rằng các khoản vay nước ngoài
vẫn là cách hấp dẫn nhất để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, trong khi rủi ro giảm giá
đáng kể và mức độ của lãi suất trong nước cao. Nói chung, thâm hụt dẫn đến một sự
thay đổi trong tài sản thuần của chính phủ, và có thể được tài trợ bằng cách hạ thấp
giá trị tài sản hoặc phát sinh nợ mới của cả trong và ngoài nước. Sự lựa chọn giữa