
CH
ÍNH S
Á
Á
CH T
Ỷ
V
À
GVH
Võ Duy M
Ỷ
GIÁ H
Ố
À
MẬU
D
D: TS Ngu
y
inh / Âu Hải
Ố
I ĐO
Á
D
ỊCH
C
y
ễn Khắc
Khắc Ngu
y
Á
I CỦA
T
C
HÂU
Á
Quốc Bả
y
ên / Võ Tu
ấ
T
RUN
G
o
ấ
n Vũ
G
QUỐ
C
C

1 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CHÂU Á
Nhóm 5 Cao Học Đêm 2 GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ
MẬU DỊCH CHÂU Á
Tóm tắt:
Bài nghiên cứu chỉ ra kinh nghiệm rằng Cán cân thương mại của Trung Quốc rất
nhạy cảm với sự thay đổi tỷ giá hối đoái thực của đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, căn cứ
theo mức độ thặng dư thương mại hiện tại thì chính sách Tỷ giá hối đoái, một mình nó, sẽ
không thể nào giải quyết được sự mất cân bằng này. Sự giảm sút trong thặng dự thương
mại được giới hạn vì nhập khẩu Trung Quốckhông tương ứng với sự tăng giá Tỷ giá hối
đoái. Thực tế, nó có xu hướng giảm xuống thay vì tăng lên.
Bằng việc ước lượng hàm nhập khẩu song phương của Trung Quốc và đối tác
thương mại chính của Trung Quốc, tác giả nhận thấy rằng những phản ứng của nhập khẩu
đối với sự tăng giá của Tỷ giá hối đoái được ghi nhận chủ yếu ở các quốc gia Đông Nam
Á còn những quốc gia khác thì không. Đây có thể là do hệ quả trực tiếp của việc “hội
nhập theo chiều dọc” ở các nước Châu Á như là mộtphần lớn của nhập khẩuTrung Quốc
từ các quốc gia Đông Nam Á là để phục vụ cho việc tái xuất khẩu. Tác giả cũng nhận
thấy rằng xuất khẩu từ các nước Châu Á phản ứng nghịch biến với sự tăng giá của đồng
Nhân dân tệ, những điểm này chỉ ra sự phụ thuộc của xuất khẩu các nước này vào Trung
Quốc.
1. GIỚI THIỆU
Thị phần của Trung Quốc trong thương mại thế giới đã tăng rất nhanh trong những
năm qua. Trên thực tế, Trung Quốc đã là một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất thế
giới, cùng với Đức và Mỹ.
Cán cân thương mại của Trung Quốc hầu như cân bằng cho đến thời gian gần đây.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc, thặng dư thương mại nước này chỉ là 32
tỷ USD (tương đương 1,7% GDP) vào năm 2004 (Biểu đồ 1). Tuy nhiên, trong giai đoạn
2005 – 2007, thặng dư thương mại tăng vọt: đạt gần 180 tỷ USD vào năm 2006 (gần 7%
GDP của Trung Quốc) và tiếp tục tăng trong năm 2007. Trong thực tế, thặng dư tài khoản
vãng lai lên tới hơn 10% GDP trong năm 2007.
Mặt khác, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đang duy trì tỷ giá hối
đoái thấp để thu lợi từ nhu cầu của nước ngoài và đạt được mức độ tăng trưởng cần thiết.
Ngoài ra, đã có những nghi ngờ rằng tỷ giá hối đoái có thể là một công cụ hiệu quả trong
việc làm giảm thặng dư thương mại, vì Trung Quốc là một nền kinh tế đang trong thời kỳ
quá độnên giá cả vẫn còn đóng vai trò hạn chế trong các quyết định cung và cầu.
Biểu đồ 1. Cán cân thương mại của Trung Quốc và tỷ giá thực hiệu lực (tỷ giá thực đa
phương – REER), số liệu hàng tháng

2 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CHÂU Á
Nhóm 5 Cao Học Đêm 2 GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trung Quốc đang đối mặt với một áp lực lớn từ các nước công nghiệp, buộc
phảinâng giáđồng Nhân dân tệ. Trong thực tế, tỷ giá hiệu lực thực (REER) đã tăng rất
mạnh từ năm 1994 đến cuối năm 1997 và có xu hướng giảm kể từ đó cho đến khi chuyển
sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn được công bố vào tháng 7/2005. Sau đó, đồng Nhân dân
tệ đã tăng giá tính theo giá trịhiệu lực thực.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Theo kết quả nghiên cứu, một sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ sẽ làm giảm
thặng dư thương mại của Trung Quốc trong dài hạn nhưng hiệu lực cuả nó cũng bị giới
hạn. Một thay đổi nhỏ- như là quy mô của sự mất cân bằng – được giải thích chủ yếu dựa
trên tính co giãn đặc trưng của giá cả tác giả nghiên cứu cho nhập khẩu, điển hình: nhập
khẩu Trung Quốc ảnh hưởng ngược chiều bởi sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ.
Bằng việc ước lượng hàm nhập khẩu song phương, tác giả phát hiện ra rằng nhập
khẩu từ các nước Châu Á có xu hướng giảm nhưng các nước khác thì không. Kết quả
nghiên cứu rõ ràng này có thể giúp giải thích được bản chất cụ thể của mậu dịch nội vùng
ờ Châu Á, hay nói cách khác là “hội nhập theo chiều dọc”. Thực tế, nhập khẩu của Trung
Quốc từ các khu vực còn lại cuả Đông Nam Á chủ yếu hướng về tái xuất khẩu. Thêm vào
đó, tác giả có những bằng chứng chỉ ra rằng các nước Châu Á không có khả năng bù vào
phần thiếu hụt xuất khẩu sang Trung Quốc bằng việc tăng cường xuất khẩu sang các
nước khác khi mà tổng xuất khẩu của họ bị ảnh hưởng ngược chiều của sự tăng giá của

3 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CHÂU Á
Nhóm 5 Cao Học Đêm 2 GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
đồng Nhân dân tệ. Nói cách khác, xuất khẩu từ các nước Đông Nam Á có vẻ như là để bổ
sung hơn là để thay thế cho xuất khẩu Trung Quốc.
Vì sao phải thực hiện nghiên cứu:
Độ lớn của thặng dư thương mại Trung Quốc làm cho bài nghiên cứu có giá trị
quan trọng không chỉ đối với Trung Quốc mà đối với phần còn lại của thế giới. Mặc dù là
điểm nhấn chung trong các bài nghiên cứu, những lý thuyết hiện tại vẫn chưa thuyết
phục.Việc thiếu các dữ liệu thích hợp và chuỗi thời gian dài đã không khuyến khích việc
nghiên cứu mối liên hệ giữa Tỷ giá hối đoái và mậu dịch Trung Quốc.
Đa phần các bài viết tập trung nhiều vào việc ước tính Tỷ giá hối đoái cân bằng
dài hạn hoặc tìm hiểu việc áp dụng cơ chế Tỷ giá hối đoái nào là phù hợp với nền kinh tế
Trung Quốc. Trong khi hai câu hỏi đó rất hữu ích, một bài nghiên cứu cấp thiết nêu ra
quy mô mất cân bằng quốc tế - là liệu rằng Trung Quốc có nên làm cho đồng tiền tăng giá
như là một công cụ để làm giảm thặng dư thương mại khổng lồ.
Trong khi có nhiều ước lượng thú vị về các tác động lên thị phần xuất nhập khẩu
nhưng lại không có kết luận nào được đưa ra đối với tài khoản thương mại. Thực tế,
không có phương pháp đồng liên kết nào được sử dụng nên vì thế chỉ có sự co dãn trong
ngắn hạn có thể được ước lượng.
Phần lớn các nghiên cứu trước đây đã tìm ra rằng một sự tăng giá thực của Tỷ giá
hối đoái làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả này tác động mạnh đến phương
pháp nghiên cứu, khung thời gian và dữ liệu nghiên cứu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
lên nhập khẩu Trung Quốc do sự co giãn Tỷ giá hối đoái thì còn mơ hồ. Trong khi những
nghiên cứu trước đây phát hiện ra một sự tăng giá làm gia tăng nhập khẩu của Trung
Quốc, những nghiên cứu gần đây đã khép lại với những phát hiện khác nhau. Tổng kết
lại, chưa có các kết luận rõ ràng về ảnh hưởng của sự tăng giá đồng Nhân dân tệ lên cán
cân thương mại của Trung Quốc có thể được tiến hành dựa trên những nghiên cứu trước
đây.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung vào tác động của Tỷ giá hối đoái thực
lên mậu dịch của Trung Quốc với nhiều dữ liệu gần đây. Thực tế, phương pháp đồng liên
kết được sử dụng để tập trung vào phát triển cơ cấu dài hạn. Tác giả cũng mở rộng nghiên
cứu từ việc kết hợp hàm nhập khẩu và hàm xuất khẩu thành một hàm song phương để
nghiên cứu liệu rằng có sự khác biệt lớn tồn tại giữa đối tác thương mại của Trung Quốc.
2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY:
Các lý thuyết hiện có vể tác động của sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ lên
mậu dịch của Trung Quốc có thể phân ra làm 2 nhóm:

4 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CHÂU Á
Nhóm 5 Cao Học Đêm 2 GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thứ nhất, cho thấy các chứng cứ của sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ
làm giảm cán cân thương mại, hoặc thông qua xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc cả hai.
Nhóm thứ hai, cho thấy không có ý nghĩa tác động lên cán cân thương mại hoặc
thậm chí là một tác động tích cực.
Nhóm thứ nhất, Cerra và Dayal-Gulati (1999) ước tính sự co giãn của giá cả của
xuất khẩu TQ và nhập khẩu trong giai đoạn 1983-1997 với mô hình hiệu chỉnh sai số và
tìm ra nó có tác động ngược chiều và có ý nghĩa với xuất khẩu (-0.3) và cũng có ý nghĩa
đối với nhập khẩu (0.7). Thực tế, họ chỉ ra rằng cả hai sự co dãn này tăng theo thời gian.
Dees (2001) phát triển dựa trên các phân tích trước đây bằng sự tách biệt xuất
khẩu và nhập khẩu TQ ra làm 2 phần, theo cách này (Vd: Nhập khẩu linh kiện phục vụ
lắp ráp) và theo cách thông thường. Ông ấy phát hiện ra, trong dài hạn, sự tăng giá của Tỷ
giá hối đoái làm giảm xuất khẩu. Ông ấy cũng cho biết xuất khẩu thông thường nhạy cảm
với giá cả hơn gia công để xuất khẩu và nhập khẩu để gia công tăng nhẹ trong trường hợp
đồng Nhân dân tệ tăng giá.
Benassy-Quere và Lahreche-Revil (2003) tính toán sự ảnh hưởng của mỗi 10%
giảm giá thực của đồng Nhân dân tệ và cho biết một sự gia tăng của Xuất khẩu Trung
Quốc vào các nước OECD và một sự giảm nhập khẩu TQ từ các nước đang phát triển ở
Châu Á nếu Tỷ giá hối đoái của các nước này không đổi.
Kamada và Takagawa (2005) mô phỏng mô hình để tính toán tác động của việc
cải cách Tỷ giá hối đoái Trung Quốc. Họ chỉ ra rằng cứ mỗi 10% nâng giá Tỷ giá hối
đoái làm tăng nhẹ nhập khẩu Trung Quốc trong khi tác động lên xuất khẩu rất nhỏ.
Yue và Hua (2002) và Eckaus (2004) cả hai đều công nhận các kết quả nghiên cứu
trước đây rằng một sự tăng giá của Tỷ giá hối đoái thực làm giảm xuất khẩu của Trung
Quốc.
Cerra và Dayal – Guyati, với các số liệu gần đây, Yue và Hua chỉ ra rằng xuất
khẩu Trung Quốc trở nên nhạy cảm với giá cả.
Voon, Guangzhong và Ran(2006) sử dụng dữ liệu theo ngành trong giai đoạn
1978-1998 và kết hợp với mức độ định giá cao đồng Nhân dân tệ khi tính toán hàm xuất
khẩu của TQ; họ cũng tìm ra một sự tác động ngược chiều giữa sự tăng giá Tỷ giá hối
đoái và xuất khẩu của Trung Quốc.
Lau, Mo và Li (2004) ước lượng xuất khẩu TQ và nhập khẩu từ các nước G3 sử
dụng dữ liệu hàng quý. Trong dài hạn, một sự tăng giá của Tỷ giá hối đoái thực có ý
nghĩa trong việc giảm xuất khẩu. Thay vào đó, hoặc nhập khẩu thông thường hoặc nhập
khẩu để gia công dường như đều bị ảnh hưởng bởi (Tỷ giá thực hiệu lực) REER. Trong