239
CHỦ NGHĨA BẢO HỘ SỐ VÀ CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI SỐ
VÀ DÒNG CHẢY DỮ LIỆU XUYÊN BIÊN GIỚI
DIGITAL PROTECTIONISM AND BARRIERS TO DIGITAL COMMERCE
AND CROSS-BORDER DATA FLOWS
PGS,TS. Nguyễn Văn Minh
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Số hóa tạo ra hàng hóa dịch vụ số mới, giúp tăng cường các dòng chảy vật lý,
cung cấp các nền tảng đóng vai trò trung gian cho sản xuất, trao đổi tiêu thụ. Vai trò
của thương mại điện tử (thương mại số) và các dòng dữ liệu xuyên biên giới ngày càng trở
nên quan trọng hơn trong các nền kinh tế quốc gia cũng như toàn cầu. Trong những năm
gần đây, chủ nghĩa bảo hộ số, với nhiều do khác nhau, đã xuất hiện tăng cường
nhiều quốc gia trên thế giới. So sánh với chủ nghĩa bảo hộ truyền thống, chủ nghĩa bảo hộ
số những đặc điểm khác biệt. Cách tiếp cận của các quốc gia khác nhau đối với chủ
nghĩa bảo hộ số cũng khác nhau. Các biện pháp bảo hộ số đã cản trở dòng chảy dữ liệu và
thương mại số xuyên biên giới. Các tổ chức quốc tế, đặc biệt WTO, cần những hoạt
động hướng tới giảm thiểu chủ nghĩa bảo hộ số và tác động tiêu cực của nó đối với thương
mại số và dòng chảy dữ liệu.
Từ khóa: thương mại số, dòng chảy dữ liệu, chủ nghĩa bảo hộ số, rào cản.
Abstract
Digitization creates new digital goods and services, enhances physical flows,
provides platforms that act as intermediaries for production, trade and consumption. The
role of e-commerce (digital commerce) and cross-border data flows is becoming more and
more important in both national and global economies. In recent years, digital
protectionism, for a variety of reasons, has emerged and intensified in many countries
around the world. Compared to traditional protectionism, digital protectionism has
different characteristics. Different countries' approaches to digital protectionism also
differ. Digital protection measures have impeded the flow of data and across borders
digital commerce. International organizations, especially the WTO, need to take action
towards reducing digital protectionism and its negative impact on digital trade and data
flows.
Keywords: digital commerce, data flow, digital protectionism, barrier.
1. Đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu
Cuộc cách mạng kỹ thuật số dựa trên Internet đang tạo ra sự thay đổi bản cho
nền kinh tế toàn cầu, không chỉ dẫn đến các phương thức truyền thông và chia sẻ thông tin
mới, hình kinh doanh mới các nguồn tăng trưởng công việc mới, còn đặt ra các
câu hỏi yêu cầu hoạch định các chính sách mới. Toàn cầu hóa đã bước vào một kỷ
240
nguyên mới được xác định bởi các luồng dữ liệu truyền tải thông tin, ý tưởng và sáng tạo
đổi mới.
Với sự ra đời của Công nghiệp 4.0 và những tiến bộ công nghệ đi kèm, phạm vi của
thương mại số đang mở rộng nhanh hơn nhiều so với những mọi người thể tưởng
tượng hai thập ktrước. Thương mại số đang phát triển đi kèm với giao dịch truyền tải
điện tử đang phát triển nhanh chóng, đó là phân phối hàng a trực tuyến, dụ âm nhạc,
sách điện tử, phim, phần mềm và trò chơi video.
Phát triển số hóa sẽ thúc đẩy thương mại số hơn nữa tài nguyên cốt lõi của nền
kinh tế số như dữ liệu, phần mềm và c tệp hỗ trợ máy tính (CAD) được sử dụng trong in
3D, dữ liệu liên quan tới robotics, trí tuệ nhân tạo, Internet of things, v.v. cần được truyền
tải bằng điện tử.
Bên cạnh quá trình phát triển mạnh mẽ công nghệ số, kinh tế số thương mại số,
xuất hiện xu hướng ngược lại, có tác động cản trở quá trình trên - chủ nghĩa bảo hộ số.
Các vấn đề liên quan đến chủ nghĩa bảo hộ số đã bước đầu được quan tâm nghiên
cứu trên thế giới. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có một nghiên cứu nào về chủ nghĩa bảo hộ
số được công bố Việt Nam. Trong khi chưa có được một nghiên cứu sâu rộng chi tiết
về vấn đề y, bài viết cố gắng đưa ra một số phác họa ban đầu về chủ nghĩa bảo hộ số
tác động của tới thương mại số dòng chảy dữ liệu xuyên biên giới trên sở phân
tích các tài liệu thu thập được từ c nguồn khác nhau: sách xuất bản c bài viết đăng
trên các tạp chí, trên Internet.
2. Thương mại số và chủ nghĩa bảo hộ số trong thương mại quốc tế
2.1. Số hóa, thương mại số và phát triển kinh tế
Số hóa (Digitization, digitalization) quá trình chuyển đổi thông tin thành định
dạng số (nghĩa là máy tính có thể đọc được), trong đó thông tin được tổ chức thành các bit.
Công nghệ số (Digital technology) bao gồm tất cả các loại thiết bị điện tử ứng
dụng sử dụng thông tin dưới dạng mã số.
Dòng dữ liệu (data flow) dòng chuyển động của dữ liệu tử bộ phận này đến một
bộ phận khác trong một máy tính, từ ứng dụng này ứng dụng khác, từ máy tính này tới máy
tính khác và từ hệ thống thông tin này tới tới hệ thống thông tin khác.
Thương mại số (Digital Commerce) hệ quả của quá trình số hóa. Thương mại số
(hay thương mại điện tử) đề cập đến việc sử dụng Internet mạng nội bộ để mua, bán,
vận chuyển hoặc trao đổi dữ liệu, hàng hóa hoặc dịch vụ [8].
Nếu các doanh nghiệp, c máy tính/hệ thống thông tin thực hiện các giao dịch
thương mại số trao đổi thông tin/dữ liệu với nhau nằm các quốc gia khác nhau, chúng
ta có thương mại số và dòng dữ liệu xuyên biên giới.
Sự phát triển của công nghệ số trong mấy thập kỷ gần đây dẫn tới quá trình số hóa
các dòng chảy thương mại, đặc biệt là các dòng chảy thương mại xuyên biên giới.
Việc số hóa ngày càng tăng ảnh hưởng đến các luồng tài chính và dữ liệu, cũng như
sự chuyển động của con người và hàng hóa. McKinsey mô tả ba cách chính công nghệ
số ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu [6]:
241
1. Số hóa tạo ra hàng hóa dịch vụ số mới. Công nghệ số cho phép sự đổi mới.
Bằng cách chuyển đổi và thay thế hàng hóa và dịch vụ truyền thống hoặc nhu cầu đi lại của
mọi người, các sản phẩm mới được hình thành (ví dụ: sách điện tử, văn phòng từ xa hoặc
ảo để hợp tác, điện thoại, đào tạo hoặc ngân hàng trực tuyến...).
2. Số hóa giúp tăng cường các dòng chảy vật lý, gia tăng gtrị bằng cách tăng
năng suất và/hoặc giảm chi phí các rào cản liên quan đến dòng hàng hóa dịch vụ
truyền thống (ví dụ: thẻ nhận dạng tần số tuyến (RFID) theo dõi chuỗi cung ứng, tệp dữ
liệu được sử dụng trong in 3-D, ô tô tự lái, Internet vạn vật).
3. Số hóa cung cấp các nền tảng đóng vai trò trung gian cho sản xuất, trao đổi
tiêu thụ. Nền tảng trung gian không chỉ bao gồm những nền tảng được sử dụng trong
thương mại số, còn cho phương tiện truyền thông hội, tài trợ đám đông (crowd
funding), điện toán đám mây, công cụ tìm kiếm, phân tích dữ liệu lớn, dịch vụ chia sẻ (ví
dụ: chia sẻ xe hơi hoặc chỗ như Uber hoặc Airbnb) các ứng dụng trên điện thoại di
động, hoặc các ứng dụng nói chung.
Số hóa, thương mại số có tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế.
Ngân hàng Thế giới xác định ba nhóm lợi ích được từ việc sử dụng các công
nghệ số [9]: (1) Tăng cường sự tham gia, kết nối thông qua tăng khả năng tiếp cận; (2)
Tăng hiệu quả thông qua tự động hóa phối hợp; (3) Thúc đẩy ra đời các doanh
nghiệp dựa trên đổi mới. Các lợi ích này được mang đến cho cả các doanh nghiệp, nhân
chính phủ. Các công ty sử dụng mạnh mẽ Internet cho thấy năng suất cao hơn có xu
hướng mở rộng quy mô, phát triển nhanh hơn, nhiều knăng hơn xuất khẩu mạnh hơn.
Việc tăng sử dụng Internet cũng liên quan đến sự gia tăng số lượng giá trị của các sản
phẩm được giao dịch.
Nhìn vào thương mại số trong bối cảnh quốc tế, thương mại số xuyên biên giới toàn
cầu (không bao gồm bán hàng trong nước) ước tính chiếm 10% đến 15% tổng doanh thu
thương mại số trong m 2014. Trong cùng năm đó, Hoa K đã xuất khẩu 399,7 tỷ USD
dịch vụ số nhập 240,8 tỷ USD, tạo ra thặng 158,9 tỷ USD. Các dịch vụ được cung
cấp qua kỹ thuật số chiếm hơn một nửa tổng số dịch vụ thương mại của Hoa Kỳ, theo Bộ
Thương mại Hoa K (Department of Commerce Economics and Statistics Administration)
[2]. Các ước tính khác cho thấy, nếu không có Internet, chi phí xuất nhập khẩu của Hoa K
sẽ cao hơn trung bình 26%. Ngoài ra còn có các lợi ích bổ sung từ số hóa đối với hiệu quả
năng suất kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận khách hàng thị trường, cho phép khối
lượng thương mại quốc tế lớn hơn.
Các nền tảng số thể giảm thiểu chi phí cho phép các doanh nghiệp nhỏ
vừa (DNNVV) phát triển thông qua mở rộng phạm vi tiếp cận thị trường hoặc tích hợp vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, nhiều công ty thể tiến hành kinh doanh trên thị trường
toàn cầu, trong khi số hóa các cơ chế kiểm soát hải quan và biên giới giúp đơn giản hóa
tăng tốc độ giao hàng cho khách hàng.
Mt nghiên cứu kc về các doanh nghiệp nh và vừa ưc nh rng Internet là mộtng
cụ tạo vic làmng, với 2,6 việc làm được tạo ra cho mỗi ng việc có thể bị thay thế bi công
nghInternet; c công ty sử dụng Internet trung bình ng gp đôi sng công việc. [4]
242
2.2. Chủ nghĩa bảo hộ kỹ thuật số và các đặc điểm của nó
Cho đến nay trong giới học thuật chưa một định nghĩa đầy đủ thống nhất về
chủ nghĩa bảo hộ số. Để hiểu về chủ nghĩa bảo hộ số, trước tiên chúng ta cần hiểu ý
nghĩa của chủ nghĩa bảo hộ. Theo n phòng Đại diện Thương mại Đặc biệt Hoa Kỳ [5],
chủ nghĩa bảo hộ việc thiết lập các rào cản thương mại đủ cao để không khuyến khích
nhập khẩu hoặc tăng giá đủ để cho phép các nhà sản xuất trong nước tương đối kém hiệu
quả cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Theo quan điểm này, các nhà hoạch
định chính sách sử dụng các biện pháp bảo hộ đgiảm nguồn cung và/hoặc tăng chi phí
đối với hàng hóa hoặc dịch vụ nhập khẩu. Các biện pháp bảo hộ làm thay đổi điều kiện thị
trường làm méo thương mại theo cách lợi cho các nhà sản xuất trong nước n
các đối thủ nước ngoài.
Tuy nhn, định nghĩa i trên đã phần nào lỗi thời, vì hiện nay chủ nga bảo hộ ở tất
ccác quốc gia phthuộc vào một loạt c yếu tố, bao gm nh trạng của nền kinh tế, tương
quan lực lượng giũa các nhóm lợi ích ủng hộ các chính ch thương mại tự do hay bảo hộ,
nhận thức cộng đồng về thương mại và sức mạnh hoc điểm yếu của các ý ởng bảo hộ.
Trong nhiều thế kỷ, các nhà hoạch định chính sách đã sử dụng các thỏa thuận
thương mại để thiết lập khuôn khổ luật pháp trong thương mại bằng cách bắt buộc các bên
ký kết cấm một số loại thực tiễn bảo hộ.
Nhưng c nhà hoạch định chính sách từ lâu cũng đã nhận ra rằng những chính
sách không nhằm mục đích bảo hộ nhưng dẫn tới hiệu ứng làm méo thương mại. Vì lý
do này, các thỏa thuận thương mại thường bao gồm các “ngoại lệ”, cho phép các chính phủ
vi phạm các quy tắc để đạt được các mục tiêu chính sách quan trọng khác. dụ, nhiều
chính phủ áp dụng các quy định an toàn thực phẩm để bảo vệ người tiêu dùng khỏi bị tổn
hại, mặc các biện pháp này có thể làm méo thương mại. Các quy định này có thể
hiệu ứng bảo hộ, nhưng chúng có thể không có ý định bảo hộ.
Chủ nghĩa bảo hộ số về bản chất cũng giống như chủ nghĩa bảo hộ truyền thống
trong thương mại quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách quốc gia A thể sử dụng các
biện pháp biên giới hoặc chính sách trong nước như quy định hoặc trợ cấp để ưu tiên các
nhà cung cấp dữ liệu trong nước hoặc thay đổi điều kiện thị trường quốc gia A. Nhưng
chủ nghĩa bảo hộ trong dịch vụ nói chung, dịch vụ số nói riêng, khác với chủ nghĩa bảo hộ
trong hàng a, đối tượng của các quy định trong thương mại dịch vụ số nhà sản
xuất/nhà cung ứng dịch vụ, thay vì là sản phẩm trong thương mại truyền thống.
Có năm đặc điểm làm chủ nghĩa bảo hộ số khác với chủ nghĩa bảo hộ truyền thống:
Thứ nhất, nhiều dịch vụ dựa vào quyền tiếp cận tới các luồng dữ liệu xun biên
giới. Các luồng dữ liệu y có thể liên quan đến hàng hóa, dịch vụ hoặc cả hai. Hoa Kỳ và
OECD coi các bộ phim hoặc âm nhạc được tải xuống hàng a. Khác với hàng hóa vật
lý, nhiều người dùng mạng có thể giao dịch hàng hóa số đó cùng một lúc. Hơn nữa, thương
mại dịch vụ số khác với thương mại các dịch vụ khác nhà cung cấp người tiêu dùng
không cần phải cùng một địa điểm thực để giao dịch xảy ra. Với các thuộc tính này, các
nhà nghiên cứu khó có thể xác định chính xác những gì một chính phủ muốn bảo hộ và liệu
một chính phủ có hành động với mục đích bảo hộ hay không.
243
Thứ hai, thương mại dữ liệu khó nắm bắt và thường xuyên xẩy ra, và khó xác định vị
trí trên mạng thông tin phi biên giới. Giao dịch trong cùng một bộ dữ liệu thể xảy ra lặp
lại trong i nano gy (ví dụ: khi hàng triệu người cùng tải xuống bài hát). c n nghiên
cứu hoạch định chính sách có thể khó xác định thế nào nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Họ
ng cố gắng xác định liệu dữ liệu thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong nước
hay không (ví dụ pháp luật về sở hữu trí tuệ) và loại thực thi xuyên biên giới nào là phù hợp.
c nhà hoạch định chính sách không thể dễ dàng xác định quyền tài phán, bởi vì dữ liệu
thể được chuyển qua máy chủ ở nước này đến khu vực tài phán thuộc nước khác. Do đó, các
luồng dữ liệu có thể đi qua một số nước trước khi các luồng này đến đích.
Thứ ba, các nhà kinh tế thường đồng ý rằng nhiều loại dữ liệu hàng hóa công
cộng, chính phủ nên cung cấp điều tiết một cách hiệu quả. Hơn nữa, khi các quốc
gia hạn chế luồng dữ liệu tự do, họ sẽ giảm quyền tiếp cận thông tin (trong đó nhiều
thông tin khoa học, kinh tế, quản ...), do đó thể làm giảm tăng trưởng kinh tế, năng
suất đổi mới trong ớc toàn cầu. Chúng cũng thể ảnh hưởng đến chức năng của
Internet. Do đó, nếu các nhà hoạch định chính sách hạn chế các luồng dữ liệu xuyên biên
giới, họ có thể tạo ra nhiều hậu quả không lường trước được.
Thứ tư, mặc thương mại dữ liệu xảy ra trên một nền tảng chung (Internet), các
công ty, người dùng chính phủ không phải ai cũng trách nhiệm như nhau đối với sự
ổn định của nó. Các tập đoàn điều hành phần lớn Internet, nhưng họ không thể phản ứng
với, hoặc nhìn thấy nhiều mối đe dọa. Trong khi đó, nhiều công ty về cơ bản là các công ty
thu thập bán dữ liệu, họ cung cấp dịch vụ miễn phí cho người dùng mạng đđổi lấy
việc họ sử dụng dữ liệu nhân của người dùng mạng (ví dụ: dịch vụ tìm kiếm của
Google, dịch vụ mạng xã hội của Facebook...). Trong mô hình này, các cá nhân không hiểu
hoặc không nhận ra trách nhiệm của họ đối với an ninh và ổn định Internet. Nhận biết được
vấn đề nan giải chung này, các chính phủ phát triển các quy định riêng để bảo vệ san
toàn và an ninh của người dùng mạng. Một số chính sách có thể, một cách không chủ định,
làm méo mó thương mại đối với các luồng dữ liệu xuyên biên giới.
Thứ năm, trái ngược với những nỗ lực của các chính phủ xác định các quy định hợp
pháp cho thương mại số, không có hình rõ ràng nào c nhà hoạch định chính sách
có thể sử dụng để phân biệt giữa quy định luồng dữ liệu hợp pháp hay làm méo mó thương
mại. Nhiều tổ chức quốc tế kêu gọi nỗ lực nhiều hơn để tìm ra sở cho các quy định phi
thương mại được thiết kế để bảo vệ quyền riêng bảo mật. Các quy định trong nước
cho phép các quốc gia kiểm duyệt hoặc lọc Internet, hoặc sử dụng các cuộc tấn công DDoS
thể ảnh hưởng không chỉ đến tiếp cận thị trường một hoặc nhiều quốc gia, cả s
ổn định của nền tảng Internet.
3. Các rào cản đối với thương mại số và dòng dữ liệu xuyên biên giới
3.1. Các loại rào cản đối với thương mại số và dòng dữ liệu xuyên biên giới
Để hiểu sâu và chi tiết chủ nghĩa bảo hộ số, dưới đây mô tả và phân tích các rào cản
đối với thương mại số và dòng dữ liệu xuyên biên giới.
nhiều loại biện pháp điều tiết chính sách đóng vai trò cản trở thương mại số
toàn cầu. Các biện pháp này thể được phân loại thành hai nhóm: (1) Các biện pháp k