205
BÀN V MÔ HÌNH PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP ĐIỆN T
TS. Trần Vân Long
Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM
Tóm tắt
Trong nền kinh tế số, hình doanh nghiệp điện tử (e-enterprise) ngày càng trở
nên phổ biến, cũng từ đó đặt ra hàng loạt vấn đề pháp cần được giải quyết. Nền
tảng pháp luật ban đầu cho môi trường khởi nghiệp điện tử cho đến quản trị doanh
nghiệp điện tử đã được thiết lập, tuy nhiên đã thật sự hiệu quả hay an toàn hay chưa
vấn đề mà bài viết này tập trung làm rõ. Qua nghiên cứu định tính trên thực trạng
chính sách, tác giả chỉ ra những vấn đề pháp lý còn bỏ trống, những rủi ro pháp lý có thể
phát sinh từ hình mới mẻ này, từ đó xây dựng những gợi ý chính sách điều chỉnh
hình này sao cho hiệu quả hơn, và ít rủi ro hơn.
Từ khóa: doanh nghiệp điện tử, quản trị điện tử, khởi nghiệp điện tử, trách nhiệm
1. Từ thương mại điện tử đến doanh nghiệp điện tử
Trước hết, bài viết này đang nói đến thực trạng các doanh nghiệp đang hình thành
và phát triển trên cơ sở của k thuật số và môi trường điện tử, gọi là doanh nghiệp điện tử
(e-enterprise), theo xu thế chung của những chính phủ điện tử, ngân hàng điện tử, hải
quan điện tử..., chứ không phải doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực điện tử khi việc sử
dụng danh từ này có thể gây hiểu nhầm.
Cho đến khi Luật Giao dịch điện tử ra đời năm 2006 thì thực tiễn thế giới đã trải
qua hai cuộc cách mạng công nghệ liên quan trực tiếp đến những phát minh của máy tính,
cách mạng ng nghệ số, trí tuệ nhân tạo Internet of things
12
. Hẳn nhiên, những thành
tựu ấy được nhanh chóng áp dụng trong các lĩnh vực khác nhau của thương mại, hình
thành nên những ứng dụng tuyệt vời của cái gọi là thương mại điện tử (e-commerce)
13
.
Sở gọi một phương thức kinh doanh tuyt vời các thương nhân nhanh
chóng tìm thấy khai thác những hữu ích, những lợi thế tuyệt đối của thương mại điện
tử khi so sánh với thương mại truyền thống, từ rất sớm khi nền kinh tế số n khai.
Theo một điều tra các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau tiến
hành tại Hoa năm 1999, do tổ chức nghiên cứu M của Ernst & Young tiến hành
năm 1999 thì đến 50,9% các doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ sử dụng các
hình thức điện tử khác nhau trong hoạt động thương mại, bao gồm quản trị chuỗi cung
12
Theo
http://www.bbc.co.uk/history/scottishhistory/enlightenment/features_enlightenment_industry.sht
ml, đây chỉ đề cập đến cách mạng công nghiệp liên quan đến những phát minh phát triển
của nền công nghiệp số, được đánh dấu từ việc ra đời của những máy tính nhân đầu tiên, vào
những năm 1970 (truy cập ngày 20/09/2018)
13
Theo Luật mẫu của UNCITR L về thương mại điện tử, bất k loại thông tin dưới dạng của
một thông điệp dữ liệu được sử dụng trong các hoạt động thương mại nào thì được coi là thương
mại điện tử. Trong khi đó, Điều 3 hoản 1 Nghị định 53/2013 của Chính phủ thì Hoạt động
thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại
bằng phương tiện điện tử kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng
mở khác.”. Tác giả cho rằng, cách tiếp cận theo pháp luật Việt Nam có xu hướng thu hẹp lại khái
niệm thương mại điện tử.
206
ứng, thu mua hàng cho đến các hoạt động đấu giá, đặt hàng và giao kết hợp đồng phi văn
bản cho đến việc chấp nhận các yêu cầu của khách hàng dưới dạng thức của thông điệp
dữ liệu... Trên hết, 92,3% doanh nghiệp công nhận rằng thương mại điện tử làm thay
đổi hiệu suất kinh doanh, với mức doanh thu tăng bình quân 15,1% hằng m trong số
các doanh nghiệp có tương tác thương mại điện tử được khảo sát.
14
Không riêng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, sự bùng nổ kể trên dẫn đến hệ
quả một hệ thống các thứ điện tử hóa (e-everything) ra đời, từ chính phủ điện tử (e-
government) đến nền dân chủ điện tử (e-democracy), từ hải quan điện tử (e-custom) đến
ngân hàng điện tử (e-banking), dường như tất cả các thức tương tác truyền thống
trong bất k lĩnh vực nào cũng sản sinh ra phiên bản điện tử của nó. Trong nền kinh tế,
các khái niệm điện tử có liên quan hết sức phong phú có khi bị nhầm lẫn với nhau.
dụ, kinh doanh điện tử (e-business) thương mại điện tử (e-commerce). Sự nhầm lẫn
này nguyên nhân khuynh hướng đồng nhất hai khái niệm y với nhau. Chẳng
hạn các quy định pháp luật ở nước ta hiện nay chỉ có khái niệm “thương mại”
15
mà không
tồn tại khái niệm “kinh doanh”
16
, hay nói cách khác, hai khái niệm đồng nhất với nhau.
Trên thực tế, khái niệm kinh doanh phải hiểu theo nghĩa rộng hơn khái niệm thương mại.
Thương mại hướng đến các khía cạnh cung ứng đầu ra của doanh nghiệp bao gồm các
cách thức để tiêu thụ hàng hóa dịch vụ tăng lợi nhuận. Trong khi đó, kinh doanh lại
bao gồm các thể thức của thương mại kể trên cùng với các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp, như đầu cho dây chuyền sản xuất, quản trị nhân sự, quản trị nội bộ công ty,
quản trị sản xuất...
17
như vậy, kinh doanh điện tử thương mại điện tử phải hiểu
các góc độ khác nhau, mà khái niệm doanh nghiệp điện tử thực chất là một công đoạn của
kinh doanh điện tử, chứ không phải thương mại điện tử. önig, W., & Weitzel, T. (2005)
làm rõ sự khác biệt này, và đồng thời đưa ra khái niệm doanh nghiệp điện tử như sau:
inh doanh điện tử bao gồm các giao dịch kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận
trong đó các bên tham gia tương tác với nhau bằng phương tiện điện tử. hác biệt với
thương mại điện tử vốn chỉ tập trung chủ yếu vào các mối quan hệ với khách hàng theo
kiểu Business-to-Consumer (B2C), theo cách tiếp cận đó, doanh nghiệp điện tử bao
gồm tất cả các tương tác điện tử trong nội bộ một doanh nghiệp hoặc giữa các doanh
nghiệp với nhau.
18
Trong bài viết y, tác giả sử dụng khái niệm doanh nghiệp điện tử (e-business)
theo cách như vậy.
14
Hoque, F. (2000). e-Enterprise: business models, architecture, and components (Vol. 2).
Cambridge University Press, trang 4
15
Điều 3 Luật Thương mại 2005, “Hoạt động thương mại hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hoá, cung ng dịch vụ, đầu , xúc tiến thương mại các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”.
16
Trước đây đã từng định nghĩa về kinh doanh, cụ thể Điều 3 Luật Công ty 1990 quy định
Kinh doanh việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời”.
lẽ do yếu tố tìm kiếm lợi nhuận là sự tương đồng giữa “thương mại” và “kinh doanh”, khái niệm,
n sau đó khái niệm “kinh doanh” không còn thấy trong luật nữa.
17
Xem thêm Lucking-Reiley, D., & Spulber, D. F. (2001). Business-to-business electronic
commerce. Journal of Economic Perspectives, 15(1), 55-68.
18
König, W., & Weitzel, T. (2005). Towards the E-Enterprise: standards, networks and co-
operation strategies. In The Practical Real-Time Enterprise (pp. 359-384). Springer, Berlin,
Heidelberg.
207
2. Mô hình pháp lý cho doanh nghiệp điện tử
Trong tác phẩm của mình, Hoque, F. (2000)
19
đã chứng minh rằng doanh nghiệp
điện tử hình thái e-everything ra đời muộn màng nhất trong môi trường kinh doanh.
Nếu như những tiếp cận ban đầu của thương mại điện tử (brochurewave) đã xuất hiện từ
những năm đầu của thập kỷ 90, tcác nh thái của doanh nghiệp điện tử chỉ xuất hiện
từ những năm 2000, theo biểu đồ kèm theo đây:
Biểu đồ 1. Ứng dụng điện tử trong môi trường kinh doanh
(Theo Hoque, F. (2000). e-Enterprise: business models, architecture, and components
(Vol. 2). Cambridge University Press)
Như biểu đồ trên, các doanh nghiệp áp dụng công nghệ điện tử, từ việc thành lập,
tổ chức kinh doanh, quản trị nhân sự hay tương tác giữa các bộ máy quản trị hoàn toàn
bằng các thông điệp dữ liệu, gặp gỡ giao kết hợp đồng với các đối tác cũng với hình thức
electronic, thì được gọi doanh nghiệp điện tử, vốn chỉ xuất hiện từ những năm 2000,
như kết quả cuối cùng của thang phát triển e-application.
20
Điều này nghĩa doanh
nghiệp điện tử vốn không mới trong thực tiễn kinh doanh, nhưng khái niệm của vẫn
còn rất hồ trong bối cảnh định nghĩa pháp hay hình pháp của vẫn còn
một khoảng trống. Bài viết này sẽ bàn về các hướng luật hóa những vấn đề liên quan
19
Sđd 3, trang 8
20
Sđd 7, trang 8
208
3. Khởi nghiệp điện tử (e- entrepreneurship)
hởi nghiệp điện tử hiểu một cách đơn giản khởi sự kinh doanh hoàn toàn trên
môi trường điện tử, toàn bộ các quá trình triển khai các ý tưởng kinh doanh cho đến thành
lập cơ sở kinh doanh đều dựa trên các tương tác kỹ thuật số. Theo Kollmann, T. (2006)
21
,
khởi nghiệp điện tử được hiểu như sau:
Khi nghiệp điện t là vic thiết lp mt công ty mi da trên những ý tưởng kinh
doanh được hin thc hóa trong nn kinh tế s, đó, tt c c vấn đề t s d
liu, cung cp hàng hóa dch v cho đến qun tr công ty đu da trên nn tng ca công
ngh thông tin và ph thuc vào kết qu ca cách mng công nghip thông tin.
Hẳn nhiên, công nghệ thực tế ảo cũng như nền tảng pháp hiện nay chưa cho
phép hình thành những công ty ảo, hoàn toàn ảo, nghĩa không thật. Công ty
bản thân một cấu trúc phức tạp đi m với những ràng buộc trách nhiệm pháp lý.
Vấn đề thể ảo đến đâu? Trong giới hạn nào? Để thể tránh nguy sự hình thành
của những công ty ma với “tư cách pháp nhân ma”. Nhà m luật không thể phớt lờ đi s
hình thành của những dạng công ty số, trong tương lai, sẽ rất nhiều các nhà khởi
nghiệp sẽ khai thác các tiện ích của công nghệ thông tin mà tối ưu hóa lợi nhuận của họ
22
.
Những công ty số (smart company) sẽ lựa chọn tốt cho các nhà khởi nghiệp của thời
đại công nghệ 4.0. Theo ông Ngọc nh, - Giám đốc điều hành Hội các nhà khoa học
và chuyên gia Việt Nam toàn cầu ( VSE Global) cho rằng, cần có cách tiếp cận về 4.0
ứng dụng công nghệ số gần gũi, thiết thực hơn cho doanh nghiệp vừa nhỏ, các nhà
khởi nghiệp
23
. Cách tiếp cận 4.0 về vấn đề khởi nghiệp trước hết là tiếp cận về mặt pháp
lý.
Đăng ký kinh doanh trực tuyến:
Sau năm 2010
24
, việc đăng kinh doanh đã trở nên dễ ng hơn thông qua việc
vận hàng trang đăng ký kinh doanh trực tuyến (dangkykinhdoanh.gov.vn). Người thành
lập doanh nghiệp giờ đây thể nộp hồ thành lập doanh nghiệp vào bất kỳ thời điểm
nào, trên sở thông tin trao đổi hai chiều giữa người nộp đơn quan đăng kinh
doanh sẽ chủ yếu diễn ra trên môi trường điện tử. Về nguyên tắc, người nộp đơn không
cần thiết phải đến trực tiếp cơ quan đăng ký kinh doanh để nộp hồ sơ hay nhận kết quả, vì
chỉ cần chữ số công cộng hoặc tài khoản đăng kinh doanh. Người nộp đơn sẽ
scan file hồ sơ thành dạng file pdfgửi trực tuyến thông qua trang đăng kinh doanh,
sau khi thanh toán (cũng trực tuyến) sẽ nhận được biên nhận giấy hẹn nhận hồ sơ.
Thế nhưng, vấn đề đương sự sau đó vẫn phải đến nộp hồ bản giấy trực tiếp tại
quan đăng kinh doanh, theo lịch hẹn, cho pháp luật quy định Thông tin trong
thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp chỉ vì thông tin đó được thể hiện
dưới dạng thông điệp dữ liệu”.
25
21
Kollmann, T. (2006). What is e-entrepreneurship?fundamentals of company founding in the
net economy. International Journal of Technology Management, 33(4), 322-340.
22
Như trên, trang 339
23
Theo Viễn Thông lược ghi, Vnexpress (21/09/2018), “Doanh nghiệp nhỏ lo hụt hơi chạy theo
4.0”, tại https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/doanh-nghiep-nho-lo-hut-hoi-chay-theo-
4-0-3812620.html (truy cập ngày 24/09/2018
24
Tính theo thời điểm Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/14/2010 của Chính phủ về đăng ký
doanh nghiệp
25
Điều 11, Luật Giao dịch điện tử 2006
209
Vậy rốt cuộc thì thủ tục đăng ký kinh doanh trực tuyến chỉ thể giúp người đăng
kinh doanh thể nhà, tìm hiểu thủ tục hsơ, gửi trước bản điện tử các loại giấy
tờ cần thiết. Điều này chỉ mang lại tiện lợi cho công tác u trữ hồ của quan đăng
kinh doanh, thực tế thì người thành lập doanh nghiệp vẫn phải, ít nhất một lần, trực
tiếp đến nơi đăng ký kinh doanh. Chất lượng dịch vcông vẻ được cải thiện theo
hướng hiện đại hơn, nhưng chưa mang lại sự thuận tiện hơn. Cơ quan đăng ký kinh doanh
trong sự thận trọng cần thiết, không sẵn lòng chấp nhận các tài liệu điện tử với giá trị
pháp tương đương với giấy tờ bản gốc. Cuối cùng, với số doanh nghiệp, việc số
hóa trong quản doanh nghiệp cũng đã một ớc phát triển dài so với việc quản
thủ công trước đây.
Trụ sở ảo và văn phòng ảo (i-office)
Theo thông lệ quốc tế, trụ sở của doanh nghiệp được xem căn cứ xác định quốc
tịch của doanh nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam lại có khuynh hướng xem nơi hình
thành của pháp nhân nơi xác định quốc tịch của pháp nhân
26
. Điều y nghĩa
không quan trọng địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp đâu, miễn thành lập theo pháp
luật Việt Nam thì đương nhiên mang quốc tịch Việt Nam. Theo điều 43 Luật doanh
nghiệp 2014, thì:
Trụ sở chính của doanh nghiệp địa điểm liên lạc của doanh nghiệp trên lãnh thổ
Việt Nam, địa chỉ được xác định gồm snhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đường hoặc
thôn, xóm, ấp, , phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).
hông yêu cầu cụ thể về diện tích tối thiểu, hay các trang thiết bị cần thiết,
ngoài việc quy định tại trụ sở phải gắn bảng tên doanh nghiệp
27
. Dứt khoát đó phải
địa chỉ thật, trên thực tế nhiều doanh nghiệp sử dụng địa chỉ không tồn tại để đăng
mà cơ quan đăng kinh doanh vẫn không thể phát hiện được. Trước đây, hồ sơ đăng
kinh doanh thường phải giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, hoặc hợp đồng thuê
nhà để chứng minh về sự tồn tại của địa chỉ trụ sở. Hiện nay quy định này đã bị bãi bỏ,
doanh nghiệp chỉ phải công bố công khai trên trang đăng kinh doanh của mình. Trong
thực tế việc tiếp nhận một ngày lên đến cả ngàn hồ đăng kinh doanh, như trường
hợp tại TPHCM, thì việc kiểm soát vấn đề đó là không thể, ngay cả khi nghi ngờ địa chỉ
ma thì cán bộ tiếp nhận hồ sơ cũng không có quyền bắt đương sự phải chứng minh
28
.
Địa chỉ trụ sở không thể một e-mail, một hộp thư bưu điện, cũng không thể
địa chỉ của một căn hộ chung
29
, phải một địa chthật, cụ thể. Điều này
26
Điều 8 Bộ Luật Dân sự 2015 “Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân
Việt Nam”
27
Điều 40, 41 Luật doanh nghiệp 2014
28
em thêm, Đời sống và pháp lý (01/12/2016), “TP HCM: Nhiều doanh nghiệp dùng địa chỉ
'ma' để buôn lậu”, tại https://vietnammoi.vn/tp-hcm-nhieu-doanh-nghiep-dung-dia-chi-ma-de-
buon-lau-12107.html (truy cập ngày 28/09/2018)
29
hoản 7 Điều 80 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật nhà ở: Trường hợp trong giấy tờ đăng ký kinh
doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp có ghi sử dụng căn hộ chung cư làm địa điểm kinh doanh
trước ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được cấp giấy tờ
đăng ký kinh doanh này phải chuyển hoạt động kinh doanh sang địa điểm khác không phải là
căn hộ chung cư trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành; cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh phải làm thủ tục điều chỉnh lại địa điểm