
Chùm ngây - cây đa dụng
* Chùm ngây (Moringa oleifera Lamk., tên cũ: Moringa
pterygosperma Gaertn.), thuộc họ Chùm ngây (Moringaceae). Cây Chùm
ngây có ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận,
Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy
nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập.
Sách Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ) quyển I, trang 607 mô tả: “Cây
Chùm ngây cao 5 - 10 m. Lá ba lần kép, lá phụ tròn hay xoan màu xanh lục mốc
mốc, không lông; lá bẹ bao lấy chồi. Hoa trắng, to, trông hơi giống hao Đậu, 5
cánh hoa, dảnh lên; 5 tiểu nhị thụ, xen với 5 tiểu nhị lép; noãn sào 1 buồng, đính
phôi trắc mô ba. Trái nang dài đến 55 cm, to 3 cm, nở ra thành 3 mảnh, cho nhiều
hột tròn, dẹp, to 0,5 cm, có cánh mỏng bao quanh. Mùa hoa tháng 1.

Trồng được ở cao độ dưới 500 m; lá ăn được như rau, trái (nạc nương)
dùng làm bột cà ri; dầu từ hột ăn được, có tính làm giảm sự thụ thai. Cây gặp ở
Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc.
Cây Chùm ngây Moringa oleifera mọc hoang tại NinhThuận
ẢNH: PHAN ĐỨC BÌNH
* Từ lâu nhân dân ta đã biết sử dụng cây Chùm ngây để làm rau, đầu thập
niên 1950, Vialard Goudou đã phân tích lá Chùm ngây mà nhân dân bán ở các chợ
để làm rau ăn, cho thấy lá Chùm ngây rất giàu dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chất
sắt và sinh tố C.
Lá Chùm ngây tươi chứa 6,35 g% chất đạm, 1,7 g% chất béo, 8 g% bột
đường; 1,9 g% chất xơ; 3,75 g% chất khoáng; 50 mg% phosphor; 25 mg% natri;
216 mg% kali; 122 mg% calci; 123 mg% magnesium; 0,1 mg% đồng, 16,4 mg%
sắt, 6.250 UI% sinh tố A; 0,3 mg% B2; 2,3 mg% PP và
110 mg% sinh tố C.

* Sách nghiên cứu y học cổ truyền Đông Dương
(Les Plantes Médicinales du Cambodge, du Laos et du
Vietnam) của Alfred Petelot, Saigon 1953, cho thấy tất
cả bộ phận của cây đều chứa một chất glycosid có vị cay cay giống như hột Cải
cay (mù tạc). Rễ cây được dùng ở châu Âu làm gia vị kích thích tiêu hóa thế Cải
gia vị (Raifort hay Horse Radish - Cải ngựa). Hoa, lá và cành non, trái non đều
luộc ăn được, lại có kích thích tiêu hóa và có tính kháng sinh (nhờ chất lacton:
ptyrigospermin). Thân cây bị vết chặt sẽ tiết ra một gôm trắng đục, sau phơi nắng
trở thành hồng hay đỏ nâu ở mặt ngoài. Gôm này có tính trương nở lớn, ở Ấn Độ
người ta đã biết dùng làm trương nở cổ tử cung để phá thai (Pharmacographia
Indica 1890). Ở Philippines người ta dùng rễ làm thuốc đắp thế mù tạc làm tụ máu,
nó gây cảm giác rất đau.
* Trong vài chục năm gần đây, do sự bùng nổ dân số, các nhà khoa học đã
nghiên cứu nhiều cây có công dụng lớn trong việc giải quyết thực phẩm cho những
năm 2000, nhất là ở các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có nước ta...
Thí dụ cây rau Dền được gọi là “Thức ăn trời cho của năm 2000” vì có lá
giàu protein và sinh tố, hạt giàu protein không thua đạm động vật. Đậu rồng có lá
non ăn được, giàu protein và sinh tố; trái non làm rau; hột khô giàu protein không
thua Đậu nành; củ Đậu rồng vừa giàu protein vừa giàu chất bột.
Trái Chùm ngây

Chùm ngây cũng nằm trong khả năng này. Cho tới nay các nghiên cứu của
các nhà khoa học đã đi đến kết luận sau:
* Chùm ngây là cây dễ trồng, (trồng bằng hột hoặc giâm cành), mau phát
triển, từ vùng biển, đồng bằng và rừng núi cho đến độ cao 500 mét đều trồng
được. Có thể trồng đại trà hoặc trồng làm hàng rào, dọc đường đi hoặc trồng xen
những nơi đất thừa, đất thẹo... Có thể khai thác lá non (trồng dọc hàng rào lên cao
khỏi đầu người thì chặt bằng, cách mặt đất độ 1,5 m, để khai thác cành lá non, vài
chục ngày từng lứa làm rau); khai thác trái (trồng thành đám); để trồng thành rừng
vừa phủ đất vừa thu hoạch trái hay khai thác dược liệu.
* Về dược phẩm (chứ không phải lương thực), lá và cành non làm rau (giàu
dưỡng chất như đã nói trên). Hột khô rang ăn (như Đậu phộng); dầu hột Chùm
ngây ăn được, thuộc dầu lâu khô nên có thể dùng làm mỹ phẩm hay tá dược.
* Về thành phần hóa học, lá chứa các dưỡng chất đã nêu, gôm tiết từ thân
cây Chùm ngây chứa polyuronid gồm arabinoz, galactoz, rhamnoz, glycuronic
acid. Mùi Cải ngựa và rễ Chùm ngây là do chất benzyl - isothiocyanat.
Thân, cành và vỏ rễ Chùm ngây chứa moringin (= belzylamil), moringinin,
athonin, spirochin, pterigospermin.
* Về dược tính, dùng trong y học cổ truyền cành lá luộc ăn hay sắc uống
kích thích tiêu hóa, kiện vị, trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ Chùm ngây sắc

uống, có tác dụng kiện vị; giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc trị thấp
khớp.
Ở Senegal, người ta dùng cành, lá sắc uống trị còi xương, viêm cuống phổi,
phù nề, thấp khớp.
Chất chiết từ vỏ cây có tính kháng sinh trên Micrococcus pyogenes var.
aureus, Bacillus subtilis, Diplococcus pneumoniae, Streptococcus pyogenes,
Escherichia coli, Salmonella typhi, Vibrio coma, Shigella dysenteriae,
Mycobacterium phlei. Nó cũng ức chế vi nấm Microsporum gypseum,
Trichophyton mantagrophytes, Candida albicans, Helminthosporium sativum
(Bhatnaga và cs 1961).
Trích tinh lá bằng ether có tác dụng trụ sinh (bacteriostatic activity) đối với
Staphyllococcus aureus và Salmonella typhi (Bhawasa và cs 1965).
Chất moringinin có tác dụng như nhóm giống giao cảm thần kinh
(sympathomimethic group) tương tự epinephrin và ephedrin nhưng yếu hơn.
Athonin có tác dụng kháng sinh trên vi trùng dịch tả (Vibrio cholerae) và
hoạt tính của nó nằm giữa chloromycetin và streptomycin (Sen Gupta và cs 1956).
Spirochin có tính kháng sinh trên vi khuẩn gram+ nhất là chống
Staphyllococcus và Streptococcus (Chatterjee, 1951).