Chứng khoán phái sinh, không thể
chm trễ
Chng khoán phái sinh - công cụ để bảo vệ NĐT
Điều bó tay NĐT trên TTCK nước ta là khi thị trường lên cao thì không có
CK để bán và khi thị trường xuống dốc lại không có tin để mua. Trên thế
giới có rất nhiều những công cụ tài chính đNĐT tự bảo vệ mình đng thời
đa dạng hóa pơng thức đầu tư. Điềuy làm cho NĐT chủ động, yên tâm
hơn và “chung thủy” hơn vi TTCK. Khi đó những câu hỏi như: “thị trường
bao giờ đến đáy”, nỗi lo thị trường sụt gim sẽ không còn q đáng sợ vì
NĐT đã có thể đầu tư ở mọi trạng thái của thị trường.
Một trong những công cụ tài chính giúp NĐT đó là chng khoán phái sinh.
Đây là công cụ giúp NĐT phòng ngừa rủi ro, đầugiá xuống khi thị trường
xuống dốc. Khi thị trườngng đi xuống, những NĐT nắm giữ chứng khoán
phái sinh càng có lợi. Ngoài ra với sự cạnh tranh theo hai hướng đầu tư
ngược nhau của các NĐT, mua lên” hoặc bán xung”, sẽ tạo lực cản để thị
trường không giảm quá sâu hoặc tăng quá “nóng”.
Chng khoán phái sinh là gì?
Chứng khoán phái sinh (derivatives, theo định nghĩa trên
website www.saga.vn) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công c đãnhư cổ phiếu, trái phiếu, nhm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các công cụ phái
sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng có bốn công cụ chính là hợp đồng kỳ
hạn (forwards), hợp đồng tương lai (futures), quyn chn mua hoặc n
(options)hợp đồng hoán đổi (swaps).
Trong khuôn khổ bài viết này chví dụ hợp đồng quyn chọn (option) mua.
Với hợp đồng này, người mua sẽ trả cho người bán quyền chn một khoản
phí (option premium) và người mua quyền chọn sẽquyn được mua
(nhưng không bắt buộc phải thực hiện) một số lượng chứng khoán nhất định
theo một mức giá đã được thỏa thuận từ trước tại thời đim đã xác định
trong tương lai. Ngườin quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng
chứng khoán theo giá đã được thỏa thuận trước vào một ngày trong tương lai
(nhưng ngày đó phải trong thời hn hợp đồng) khi người mua quyn chọn
mun thực hiện quyền được mua.
Ví dụ: cổ phiếu A có giá là 100.000 đồng, một NĐT k vọng giá cổ phiếu sẽ
tăng gấp đôi trong ba tháng nhưng NĐT này vẫn sợ rủi ro cổ phiếu sẽ giảm
giá n NĐT mua hợp đồng quyền chọn mua (option mua) 1.000 cổ phiếu
trong ba tháng với giá 100.000 đồng/cổ phiếu và phí là 5.000 đồng/cổ phiếu.
Như vậy giá tr hợp đồng quyền chọn mua là 105 triệu đồng (5 triu tiền
phí).
Trong vòng ba tháng kể từ ngày ký hợp đồng nếu cổ phiếu này tăng giá lên
150.000 đồng, NĐT thực hiện quyn mua 100.000 đồng/cổ phiếu ca mình
và bán trên thị trường 150.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy sau khi trừ phí và
tin vốn phải bỏ ra NĐT này có lợi nhuận 45 triệu đồng. Ngược lại nếu cổ
phiếu giảm giá 50% còn 50.000 đồng thì NĐT lẽ ra sẽ mt 50 triu đồng tin
vốn nhưng nhờ có hợp đồng quyền chọn mua nên NĐT này không thực hiện
quyền mua và chịu mất 5 triệu đồng tiền phí.
Như thế chúng ta thy rằng người mua quyền chọn mua chỉ chịu thua lỗ có
giới hạn, trong khi lợi nhun lại rất lớn. Ngườin quyền chọn cũnglợi
nhuận thu được từ phí mua quyền chọn.
Ở Việt Nam vn chưa có chứng khoán phái sinh nhưng tn sàn giao dịch
vàng có khá đầy đủ các công cụ phái sinh cho các NĐT tham gia thị trường.
Vì thế kênh đầu tư vàng ngày càng hấp dẫn NĐT. Họ có thể đầu tư giá lên
và cũng có khnăng đầu tư giá xung thông qua công c vàng phái sinh
hoặc vay vàng của ngân hàng để bán khống (phải chịu lãi suất cho vay và
sau đó mua trả lại cho ngân hàng), đồng thời nghiệp vụ giao dịch ký qu còn
tạo ra đòn bẩy tài chính rất lớn, có thể hoặc mang lại lợi nhuận rất cao hoặc
thua lỗ cũng không nhỏ.
Tuy nhiên, nếu xét về li ích cho nền kinh tế thì đầu tư CK giúp tạo ra thị
trường vn, tập trung những nguồn vốn nhỏ, ngắn hạn thành các ngun vốn
dài hn để phát triển kinh tế, còn đầu tư vàng thì không. Việc dòng vn chảy
vào kênh đầu tư vàng quá nhiều chứng tỏ nền kinh tế đang có khó khăn nên
các NĐT phải tìm đến vàng làm nơi “trún” an toàn cho đồng vốn của
mình.
Không nên trì hoãn
Việc tc đẩy TTCK thứ cấp phát triển sẽ giúp TTCK sơ cấp phát trin theo,
giúp cho các doanh nghiệp huy động được vốn để phát triển công việc kinh
doanh, giảm gánh nặng đi vay đồng thời tạo việc làm, thu nhập cho người
lao động, thu hút vốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - hội. Để TTCK thứ
cấp phát trin bền vững, cần phải làm cho các NĐT có niềm tin, yên tâm
mình được bảo vệ trên TTCK.
Như vậy, ngoài việc minh bạch thông tin, tạo hành lang pháp lý rõ ràng... thì
việc cung cấp cho họ những công cụ để tự bảo vệ mình điều hết sức quan
trọng. Với sự cần thiết như trên không có lý do để tiếp tục trì hoãn việc
đưa những công cụ phái sinh vào thị trường vốn, tạo tính thanh khoản, sức
hấp dẫn với các NĐT, góp phần xây dựng TTCK nói riêng, thị trường vốn
nói chung phát triển bền vữn