
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 8 – Độc quyền nhóm 1
CHƯƠNG 8
ĐỘC QUYỀN NHÓM
Sau khi đến cửa hàng để mua bóng ten nít, có thể bạn sẽ trở về với những quả bóng mang
một trong bốn nhãn hiệu sau: Wilson, Penn, Dunlop và Spalding. Bốn công ty này sản xuất
gần như toàn bộ số bóng ten nít bán ở thị trường Mỹ. Các công ty trên cùng nhau quyết định
lượng bóng ten nít được sản xuất và giá bán với đường cầu thị trường cho trước.
Chúng ta có thể mô tả thị trường bóng ten nít này như thế nào? Hai chương trước đã bàn về hai
loại cấu trúc thị trường. Trên thị trường cạnh tranh, mỗi doanh nghiệp quá nhỏ so với thị trường
nên không thể ảnh hưởng tới giá bán và do vậy phải chấp nhận mức giá do các điều kiện thị
trường quy định. Trên thị trường độc quyền, một doanh nghiệp duy nhất cung ứng hàng hóa
cho cả thị trường, do đó có thể chọn bất kỳ giá và lượng nào trên đường cầu thị trường.
Thị trường bóng ten nít không giống thị trường cạnh tranh và thị trường độc quyền. Cạnh
tranh và độc quyền là các thái cực của cấu trúc thị trường. Cạnh tranh xảy ra khi có nhiều
doanh nghiệp trên một thị trường mà các hàng hóa về cơ bản là giống hệt nhau; độc quyền
xảy ra khi chỉ có một doanh nghiệp trên thị trường. Chúng ta bắt đầu nghiên cứu tổ chức
ngành từ hai trường hợp cực đoan này vì chúng là những trường hợp dễ hiểu nhất. Tuy vậy có
rất nhiều ngành, trong đó có ngành sản xuất bóng ten nít, nằm ở đâu đó ở giữa hai thái cực
này. Các doanh nghiệp trong những ngành này có đối thủ cạnh tranh, nhưng đồng thời lại
không phải cạnh tranh nhiều như khi họ là người chấp nhận giá. Các nhà kinh tế gọi tình
huống này là cạnh tranh không hoàn hảo.
Trong chương này, chúng ta thảo luận về các dạng cạnh tranh không hoàn hảo và nghiên cứu
một dạng đặc biệt gọi là độc quyền nhóm. Bản chất của thị trường độc quyền nhóm là ở đây
chỉ có một số ít người bán. Kết quả là hành động của một nhà cung ứng sẽ ảnh hưởng đến lợi
nhuận của tất cả các nhà cung ứng khác. Nghĩa là các doanh nghiệp độc quyền nhóm phụ
thuộc vào nhau theo cách mà các doanh nghiệp cạnh tranh không có. Mục tiêu của chương
này là xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau đó quyết định hành vi của các doanh nghiệp như thế
nào và những vấn đề gì đặt ra cho chính sách của chính phủ.
GIỮA ĐỘC QUYỀN VÀ CẠNH TRANH HOÀN HẢO
Hai chương trước đã phân tích các thị trường với rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh và các thị
trường chỉ có một doanh nghiệp độc quyền duy nhất. Trong chương 14, chúng ta đã thấy giá
cả trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo luôn bằng chi phí sản xuất cận biên. Chúng ta cũng
thấy rằng việc gia nhập và rời khỏi ngành trong dài hạn đẩy lợi nhuận kinh tế xuống bằng 0,
vì vậy mà giá cả bằng chi phí bình quân. Trong chương 15, chúng ta đã thấy các doanh
nghiệp với sức mạnh thị trường có thể giữ giá cao hơn chi phí cận biên, tạo ra lợi nhuận kinh
tế dương cho doanh nghiệp và gây ra khoản mất không cho xã hội.
Trường hợp cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền minh họa cho những ý tưởng quan trọng về cơ
chế vận hành của thị trường. Tuy nhiên, phần lớn thị trường trong nền kinh tế có các yếu tố
của các cấu trúc trên, do đó không thể mô tả chúng đầy đủ chỉ bằng một trong hai trường hợp
này. Doanh nghiệp điển hình trong nền kinh tế phải đối mặt với cạnh tranh, nhưng cạnh tranh
không mạnh đến mức làm cho nó trở thành người chấp nhận giá như đã phân tích ở chương
14. Doanh nghiệp điển hình có sức mạnh thị trường ở một mức độ nào đó, nhưng sức mạnh

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 8 – Độc quyền nhóm 2
thị trường của nó không lớn đến mức nó có thể được mô tả chính xác là doanh nghiệp độc
quyền như phân tích ở chương 15. Hay nói cách khác, doanh nghiệp điển hình trong nền kinh
tế của chúng ta có tính cạnh tranh không hoàn hảo.
Có hai dạng thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Độc quyền nhóm là thị trường chỉ có một
vài người bán, mỗi người bán sản phẩm tương tự hay giống hệt sản phẩm của người khác.
Một ví dụ là thị trường bóng ten nít. Ví dụ khác là thị trường dầu thô: Một vài nước ở Trung
Đông kiểm soát phần lớn trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Cạnh tranh độc quyền là dạng cấu
trúc thị trường trong đó có nhiều doanh nghiệp bán các mặt hàng tương tự, nhưng không
giống hệt nhau, ví dụ thị trường tiểu thuyết, phim ảnh, đĩa CD và trò chơi điện tử. Trên thị
trường cạnh tranh độc quyền, mỗi doanh nghiệp có sự độc quyền về sản phẩm, nhưng nhiều
doanh nghiệp khác cũng sản xuất ra sản phẩm tương tự và cạnh tranh để giành giật những
khách hàng như nhau.
Hình 1 tóm tắt lại bốn dạng cấu trúc thị trường. Câu hỏi đầu tiên là có bao nhiêu doanh nghiệp
trên thị trường. Nếu chỉ có một doanh nghiệp thì đó là thị trường độc quyền. Nếu chỉ có vài
doanh nghiệp, thì đó là thị trường độc quyền nhóm. Nếu có nhiều doanh nghiệp, thì chúng ta cần
đặt thêm một câu hỏi nữa: các doanh nghiệp bán sản phẩm giống hệt nhau hay khác biệt? Nếu các
doanh nghiệp này bán sản phẩm khác biệt thì đó là thị trường cạnh tranh độc quyền. Nếu nhiều
doanh nghiệp bán sản phẩm giống hệt nhau thì đó là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Hình 1. Bốn dạng cấu trúc thị trường. Các nhà kinh tế nghiên cứu tổ chức ngành chia thị trường
thành bốn loại: độc quyền, độc quyền nhóm, cạnh tranh độc quyền và cạnh tranh hoàn hảo.
Tất nhiên, thực tế không bao giờ rõ ràng như lý thuyết. Trong một số trường hợp, bạn có thể
thấy khó khăn trong việc dùng cấu trúc nào để mô tả tốt nhất một thị trường. Ví dụ không có
một con số thần kỳ nào để phân biệt “một ít” và “nhiều” khi đếm số doanh nghiệp. (Có phải
khoảng mười hai công ty bán xe hơi ở Mỹ hiện nay làm cho thị trường là độc quyền nhóm
hay cạnh tranh hơn? Câu trả lời còn chưa thống nhất.) Tương tự như vậy, không có cách chắc
chắn nào để quyết định xem sản phẩm là phân biệt hay giống hệt nhau. (Có phải các thương
hiệu sữa khác nhau thực sự là một không? Một lần nữa, câu trả lời cũng cần được tranh luận.)
Khi phân tích thị trường trong thực tế, mọi nhà kinh tế đều phải nhớ các bài học về cấu trúc
thị trường và áp dụng bài học đó nếu chúng tỏ ra thích hợp.
Độc quyền Độc quyền
nhóm
Cạnh tranh
độc quyền
Cạnh tranh
hoàn hảo
Nước máy,
Truyền hình cáp Bóng tennít,
dầu thô
Tiểu thuyết,
Phim
Lúa mì,
Sữa
Số lượng doanh nghiệp?
Sản phẩm như nhau
Một doanh
nghiệp Vài
doanh
nghiệp
Sản phẩm
phân biệt
Nhiều doanh nghiệp
Loại sản phẩm

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 8 – Độc quyền nhóm 3
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu nhà kinh tế định nghĩa các dạng cấu trúc thị trường như thế nào
và sẽ đi tiếp để phân tích chúng. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích cạnh tranh
độc quyền. Trong chương này, chúng ta nghiên cứu độc quyền nhóm.
THỊ TRƯỜNG VỚI VÀI NGƯỜI BÁN
Do thị trường độc quyền nhóm chỉ có một số người bán, nên đặc trưng của độc quyền nhóm
là sự căng thẳng giữa hợp tác và lợi ích cá nhân. Các nhà độc quyền nhóm có lợi nhất nếu
hợp tác được với nhau và hành động như nhà độc quyền - sản xuất số lượng nhỏ và bán hàng
hóa với giá cao hơn chi phí cận biên. Nhưng vì mỗi nhà độc quyền nhóm chỉ quan tâm đến
lợi nhuận của mình, nên tồn tại những động lực mạnh mẽ ngăn cản một nhóm doanh nghiệp
duy trì vị thế độc quyền.
Ví dụ về thị trường nhị quyền
Để hiểu về hành vi của các nhà độc quyền nhóm, chúng ta hãy xem xét một thị trường độc
quyền nhóm chỉ có hai thành viên, gọi là thị trường nhị quyền. Nhị quyền là hình thức đơn
giản nhất của độc quyền nhóm. Các thị trường độc quyền nhóm với ba hay nhiều thành viên
hơn cũng gặp phải các vấn đề tương tự như thị trường nhị quyền, do vậy việc xem xét thị
trường nhị quyền là điểm xuất phát hữu ích đối với chúng ta.
Chúng ta hãy tưởng tượng ra một thị trấn có hai cư dân là Jack và Jill sở hữu các giếng nước
để sản xuất nước sạch. Vào thứ bảy hàng tuần, Jack và Jill quyết định bơm bao nhiêu thùng
nước đưa ra thị trấn và bán với giá thị trường. Để đơn giản hóa vấn đề, chúng ta giả định Jack
và Jill có thể bơm lên bao nhiêu nước tùy thích mà không mất chi phí gì. Nghĩa là chi phí cận
biên của nước bằng 0.
Bảng 1 cho thấy biểu cầu về nước của thị trấn. Cột đầu tiên biểu thị tổng lượng cầu, cột thứ hai cho
biết mức giá. Nếu hai người chủ giếng nước bán ra 10 thùng, giá sẽ là 110 đô la/thùng. Nếu họ bán
lượng nước tổng cộng là 20 thùng, giá sẽ giảm xuống chỉ còn 100 đô la/thùng và cứ như vậy. Nếu
vẽ đồ thị từ hai cột số liệu này, bạn sẽ được một đường cầu chuẩn có độ dốc âm.
Cột cuối cùng trong bảng 1 cho biết tổng doanh thu từ việc bán nước. Nó bằng lượng bán
nhân với giá bán. Do không mất chi phí bơm nước, nên tổng doanh thu của hai nhà sản xuất
đúng bằng tổng lợi nhuận của họ.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét cách tổ chức ngành cấp nước của thị trấn ảnh huởng đến giá và
lượng cung về nước như thế nào.
Lượng
(thùng)
Giá
(đô la)
Tổng doanh thu (và tổng lợi nhuận)
(đô la)
0 120 0
10 110 1100
20 100 2000
30 90 2700
40 80 3200
50 70 3500
60 60 3600
70 50 3500
80 40 3200

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 8 – Độc quyền nhóm 4
90 30 2700
100 20 2000
110 10 1100
120 0 0
Bảng 1. Biểu cầu về nước sạch.
Cạnh tranh, độc quyền và các-ten
Trước khi xem xét vấn đề giá và lượng nước hình thành từ thị trường nhị quyền của Jack và
Jill như thế nào, chúng ta sẽ thảo luận qua về hai cấu trúc thị trường đã học: cạnh tranh và
độc quyền.
Trước hết chúng ta tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra nếu thị trường nước là thị trường cạnh
tranh hoàn hảo. Trên thị trường cạnh tranh, các quyết định sản xuất của mỗi doanh nghiệp sẽ
làm cho giá cả bằng chi phí cận biên. Trên thị trường nước, chi phí cận biên bằng 0. Do vậy
trong điều kiện cạnh tranh, giá cân bằng của nước sẽ bằng 0 và lượng cân bằng sẽ là 120
thùng. Giá nước phản ánh chi phí sản xuất nó và sản lượng nước hiệu quả được sản xuất và
tiêu dùng.
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu hành vi của nhà độc quyền. Bảng 1 cho thấy tổng lợi nhuận
được tối đa hóa tại mức sản lượng bằng 60 thùng và giá bằng 60 đô la/thùng. Do vậy, nhà độc
quyền tối đa hóa lợi nhuận sẽ sản xuất và định giá tại mức này. Đúng như trường hợp nhà độc
quyền, giá bán cao hơn chi phí cận biên. Kết quả này không có hiệu quả, vì lượng nước sản
xuất và tiêu dùng thấp hơn mức có hiệu quả đối với xã hội là 120 thùng.
Vậy điều gì xảy ra với thị trường nhị quyền? Một khả năng là Jack và Jill liên kết với nhau,
thỏa thuận về lượng nước cung ứng và giá bán. Sự thỏa thuận như vậy giữa các doanh nghiệp
về sản lượng và giá cả được gọi là sự cấu kết, còn nhóm các doanh nghiệp hành động thống
nhất gọi là các-ten. Khi một các-ten hình thành, thị trường trên thực tế chỉ do một tổ chức độc
quyền cung ứng và chúng ta có thể áp dụng phân tích của chương 15. Nghĩa là nếu Jack và
Jill cấu kết với nhau, họ trở thành độc quyền vì nó cho phép họ tối đa hóa tổng lợi nhuận mà
các nhà sản xuất có thể thu được từ thị trường. Hai nhà sản xuất của chúng ta sẽ sản xuất
lượng nước tổng cộng là 60 thùng và bán với giá 60 đô la/thùng. Một lần nữa, mức giá cao
hơn chi phí cận biên và kết cục này không có hiệu quả đối với xã hội.
Các-ten không chỉ phải thống nhất về tổng sản lượng, mà còn phải thỏa thuận về sản lượng
của từng thành viên. Trong trường hợp của chúng ta, Jack và Jill phải thỏa thuận về việc phân
chia sản lượng độc quyền là 60 thùng. Mỗi thành viên của các-ten luôn muốn có thị phần lớn
hơn, vì thị phần lớn hơn hàm ý lợi nhuận cao hơn. Nếu Jack và Jill đồng ý chia thị trường
thành hai phần bằng nhau, thì mỗi người sẽ sản xuất 30 thùng và bán với giá là 60 đô
la/thùng, qua đó mỗi người thu được lợi nhuận bằng 1800 đô la.
Trạng thái cân bằng của thị trường độc quyền nhóm
Mặc dù các nhà độc quyền nhóm muốn thành lập các-ten để thu lợi nhuận độc quyền, nhưng
điều đó thường khó xảy ra. Như sẽ thảo luận sau đây trong chương này, các đạo luật chống
độc quyền nghiêm cấm sự thỏa thuận công khai giữa các nhà độc quyền nhóm. Ngoài ra, sự
bất đồng giữa các thành viên của các-ten về việc phân chia lợi nhuận trên thị trường nhiều khi

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 8 – Độc quyền nhóm 5
làm cho thỏa thuận giữa họ không thể thực hiện được. Do vậy, chúng ta sẽ xem xét điều gì
xảy ra nếu như Jack và Jill có quyết định độc lập về lượng nước sản xuất.
Đầu tiên, mọi người có thể dự đoán rằng Jack và Jill sẽ liên kết thành nhà độc quyền vì kết
cục này cho phép tối đa hóa tổng lợi nhuận của họ. Tuy nhiên, nếu không có sự thỏa thuận
mang tính ràng buộc nào, kết cục độc quyền không thể xảy ra. Để biết tại sao, chúng ta hãy
giả sử rằng Jack dự đoán rằng Jill chỉ sản xuất 30 thùng (một nửa sản lượng độc quyền). Jack
sẽ lập luận như sau:
“Ta cũng có thể sản xuất 30 thùng. Trong trường hợp này tổng cộng 60 thùng nước được bán
với giá 60 đô la/thùng. Lợi nhuận của ta là 1800 đô la (30 thùng x 60 đô la/ một thùng).
Nhưng ta có thể sản xuất 40 thùng. Trong trường hợp này có tổng cộng 70 thùng nước được
bán với giá 50 đô la/thùng. Lợi nhuận của ta là 2000 đô la (40 thùng x 50 đô la/ một thùng).
Tuy rằng lợi nhuận của cả thị trường giảm, nhưng lợi nhuận của riêng ta cao hơn, vì ta có thị
phần lớn hơn.”
Tất nhiên là Jill cũng có thể lập luận như thế. Nếu vậy, cả Jack và Jill cùng cung 40 thùng
nước cho thị trấn. Tổng lượng bán ra sẽ là 80 thùng và giá giảm xuống còn 40 đô la một
thùng. Như vậy, nếu từng nhà nhị quyền theo đuổi lợi ích cá nhân trong việc ra quyết định
sản xuất, tổng sản lượng của họ sẽ lớn hơn sản lượng độc quyền, giá bán sẽ thấp hơn giá độc
quyền và tổng lợi nhuận thu được sẽ ít hơn lợi nhuận độc quyền.
Mặc dù lô gíc về lợi ích cá nhân làm sản lượng của thị trường nhị quyền cao hơn sản lượng
độc quyền, nhưng nó không thúc đẩy các nhà nhị quyền đạt tới sự phân bổ mang tính cạnh
tranh. Chúng ta hãy xem điều gì sẽ xảy ra nếu các nhà nhị quyền sản xuất mỗi người 40
thùng. Giá sẽ là 40 đô la và mỗi nhà độc quyền nhóm thu được lợi nhuận bằng 1600 đô la.
Trong trường hợp này, lô gíc về lợi ích cá nhân của Jack dẫn đến một kết luận khác:
“Hiện nay lợi nhuận của ta là 1600 đô la. Giả sử ta tăng sản lượng lên 50 thùng. Trong trường
hợp đó, có tổng cộng 90 thùng được sản xuất và bán với giá 30 đô la một thùng. Như vậy lợi
nhuận của ta chỉ là 1500 đô la. Thay vì tăng sản lượng và làm giảm giá, ta có lợi hơn nếu giữ
mức sản lượng ở 40 thùng.”
Kết cục mà trong đó Jack và Jill mỗi người sản xuất 40 thùng giống như một loại cân bằng
nào đó. Trong thực tế, kết cục này được gọi là cân bằng Nash (đặt theo tên nhà kinh tế John
Nash). Cân bằng Nash là tình huống trong đó các chủ thể kinh tế tương tác với nhau, mỗi
người lựa chọn một chiến lược tốt nhất cho mình với những chiến lược mà người khác đã
chọn cho trước. Trong trường hợp này, khi biết Jill sản xuất 40 thùng, thì chiến lược tốt nhất
đối với Jack là sản xuất 40 thùng. Tương tự như vậy, khi biết rằng Jack sản xuất 40 thùng, thì
chiến lược tốt nhất đối với Jill là sản xuất 40 thùng. Một khi đã đạt được trạng thái cân bằng
Nash, cả Jack và Jill đều không có động cơ để đưa ra quyết định khác.
Đây là ví dụ minh họa cho sự căng thẳng giữa hợp tác và lợi ích cá nhân. Các nhà độc quyền
nhóm có lợi hơn nếu hợp tác với nhau để đạt được kết cục độc quyền. Song do theo đuổi lợi
ích cá nhân, họ không đạt được kết cục độc quyền và tối đa hóa tổng lợi nhuận của mình. Các
nhà độc quyền nhóm bị cám dỗ tăng sản lượng và có được thị phần lớn hơn. Vì ai cũng làm
như vậy, nên sản lượng tăng và giá giảm.
Đồng thời, lợi ích cá nhân cũng không đẩy thị trường đến kết cục hoàn toàn cạnh tranh.
Giống như nhà độc quyền, các nhà độc quyền nhóm hiểu rằng việc tăng sản lượng sẽ làm
giảm giá bán của họ. Do vậy họ dừng lại, chứ không làm như các doanh nghiệp cạnh tranh
sản xuất đến điểm mà giá cả bằng chi phí cận biên.