KỶ YẾU HI THO KHOA HỌC QUỐC GIA
196
CHUYỂN ĐỔI ĐÀO TO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH LOGISTICS
VÀ QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ThS. Phạm Quang Dũng*
ThS. Nguyễn Thị Dung*
Tóm tắt
Cùng với thể chế chính sách, sở hạ tầng, công nghệ thì nhân lực khía cạnh nền tảng
mang tính chất căn cơ trong phát triển dịch vụ logistics bền vững. Trong bối cảnh mới, yêu cầu
về chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ năng của nguồn nhân lực logistics ngày càng phải được
nâng cao, đáp ứng yêu cầu của thời đại. Đặc biệt nguồn nhân lực kiến thức chuyên môn sâu
về ngành, kỹ năng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), giao tiếp, marketing, đàm
phán và triển khai kế hoạch. Tuy nhiên, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành Logistics và quản lý
chuỗi cung ứng của các trường đại học cao đẳng hiện nay vẫn còn một số bất cập chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra các giải pháp chuyển đổi đào tạo tại các
trường đại học, cao đẳng để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trong lĩnh vực logistics
quản lý chuỗi cung ứng.
Từ khóa: Đào tạo; logistics quản chuỗi cung ứng; đại học cao đẳng; nhân lực;
doanh nghiệp
1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM
Theo Báo cáo Chỉ số Logistics thị trường mới nổi năm 2021 do nhà cung cấp dịch vụ kho
vận hàng đầu thế giới Agility vừa công bố cho thấy, Việt Nam đã tăng 3 bậc xếp hạng so với năm
2020, đứng ở vị trí thứ 8 trong top 10 quốc gia đứng đầu. Theo công bố của Ngân hàng Thế giới
năm 2018, Chỉ số Hoạt động logistic (LPI) của Việt Nam đứng thứ 39 trong 160 quốc gia vùng
lãnh thổ. Trong khu vực ASEAN, chỉ số này của Việt Nam thậm chí còn lọt vào top 3 với số điểm
22.
* Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ
197
là 3.27. Đứng trên Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á là Singapore và Thái Lan, với tổng điểm
LPI lần lượt là 4.00 và 3.41.
Theo Research and Mmarket.com, thị trường logistics Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng
với tốc độ CAGR từ 14% - 16% giai đoạn 2018 - 2024 dự kiến đạt 86,7 tỷ USD so với năm
2018 là khoảng 40 tỷ USD. Số lượng các doanh nghiệp logistics được dự báo sẽ tăng nhanh và
kéo theo sự gia tăng lớn nhu cầu về nguồn nhân lực logistics.
Chính phủ Việt Nam đã xác định Logistics ngành dịch vụ quan trọng trong cấu nền kinh
tế quốc dân, cần phải được phát triển theo hướng đem lại giá trị giá tăng cao, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Logistics sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hỗ trợ cho sự
tăng trưởng của sản xuất trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trong giai đoạn hiện
nay và tương lai. Các mục tiêu phát triển ngành Logistics tới năm 2025 được đưa ra trong Quyết
định số 200/QĐ- TTg1 cụ thể là: tới 2025 tốc độ tăng trưởng ngành 15% - 20%; tỷ trọng góp vào
GDP 5% - 6%; tỷ lệ thuê ngoài 50% - 60%; chi phí logistics tương đương 16% - 20%; xếp hạng
chỉ số năng lực quốc gia (LPI) đạt vị trí 50 trở lên.
Logistics là một ngành kinh tế đa ngành phục vụ và hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển
do đó hoạt động logistics mang tính thời đại sâu sắc, đặc biệt là trong cuộc CMCN 4.0, logistics
không chỉ chịu tác động từ sự phát triển của CNTT, công nghệ số, tự động hóa các hình
quản trị logistics tiên tiến mà còn phải chuẩn bị sẵn sàng nguồn nhân lực cho một giai đoạn mới,
những thay đổi mới với những tiền đề được đặt ra bởi COVID-19 và CMCN 4.0. Theo thống kê
của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), hiện nay, Việt Nam hiện có hơn
3.000 doanh nghiệp đăng hoạt động trong lĩnh vực logistics, trong đó, 89% doanh nghiệp
trong nước, 10% doanh nghiệp liên doanh 1% doanh nghiệp nước ngoài, tốc độ phát
triển của ngành Logistics tại Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14% - 16%, với quy mô
khoảng 40 - 42 tỷ USD/năm.
Ngoài những khó khăn về sở hạ tầng, ứng dụng CNTT, năng lực quản chính sách
pháp luật thì phải kể tới thách thức không nhỏ với ngành Logistics sự thiếu hụt về số lượng
và yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Nguồn nhân lực sẽ là yếu tố then chốt quan
trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, về lâu dài, nhân lực sẽ yếu tố
quyết định cho doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với các nước, nâng cao tính cạnh
tranh, mở rộng thị trường ở cả trong nước và quốc tế.
2. THỰC TRẠNG YÊU CẦU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH LOGISTICS
QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG HIỆN NAY
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), nguồn nhân lực logistics
trên cả nước có khoảng 1 triệu lao động (không bao gồm các công ty vận tải thủy, bộ, biển, hàng
không, chuyển phát nhanh, cảng thuần túy), gồm ba nhóm chính là: nhóm nhân lực quản trị
cao cấp, nhân lực quản trị trung gian và nhân lực tham gia trực tiếp, ước tính chỉ đáp ứng được
khoảng 40% - 50% nhu cầu của ngành. Từ nay tới năm 2030, cần đào tạo mới bài bản 250.000
nhân sự.
1 Quyết định số 200/QĐ- TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch hành động nâng
cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025
KỶ YẾU HI THO KHOA HỌC QUỐC GIA
198
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam
đều có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Cụ thể, trong số 34.249 doanh nghiệp đang hoạt động có 41,4%
số doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ với số lao động dưới 5 người; 53,74% số doanh nghiệp có
quy nhỏ dưới 50 lao động; 4,12% số doanh nghiệp quy vừa, dưới 300 lao động. Số
doanh nghiệp có quy mô lớn chỉ chiếm 0,7%
Hình 1. Tỷ trọng lao động làm việc theo các loại hình dịch vụ logistics
Nguồn: Nhóm nghiên cứu Trường Đại học Thương mại
dựa vào số liệu của Tổng cục Thống kê
Theo kết quả VLA khảo sát 148 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics theo xác suất đại
diện cho các loại hình doanh nghiệp logistics hoạt động tại Việt Nam, 44,9% công ty được
hỏi trả lời tuyển thêm 11 - 50 người trong 5 năm tới. Dựa trên nhu cầu lao động đó, có thể thấy
rằng, phát triển nguồn nhân lực của ngành Logistics vấn đề cấp bách. Tuy nhiên, khả năng đáp
ứng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp này hiện nay vẫn còn thiếu bao gồm cả các vị trí khan
hiếm nhân lực từ lãnh đạo quản lý, quản trị, giám sát và cả nhân viên chuyên nghiệp. Nếu tính
nhu cầu chung toàn ngành bao gồm: cả các doanh nghiệp sản xuất, thương mại bán buôn bán lẻ,
kinh doanh xuất nhập khẩu các doanh nghiệp vận tải, chuyển phát nhanh thì nhu cầu lên tới
gần 1 triệu lao động trong 15 năm tới.
Nhân lực logistics Việt Nam hiện nay chủ yếu được lấy từ các đại hãng tàu, các công
ty giao nhận vận tải biển sử dụng theo khả năng hiện có. Kết quả khảo sát của Viện Nghiên
cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh về chất lượng nguồn nhân lực logistics cho thấy, có đến
53,3% doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn kiến thức về logistics,
30% doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên và chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên
môn của nhân viên. Nguồn nhân lực logistics tại doanh nghiệp chia thành 2 cấp: cấp quản trị và
cấp quản lý; cấp điều phối giám sát và cấp kỹ thuật nghiệp vụ. Mỗi cấp nhân lực yêu cầu về trình
độ năng lực khác nhau. Chất lượng nhân lực liên quan đến chuyên môn, khả năng làm việc
trong môi trường đầy thử thách. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực được xét theo các khía
cạnh sau:
- Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc: Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu và
Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, hiện nay có tới 80,26% nhân lực trong các công
ty logistics chủ yếu vẫn được đào tạo thông qua các công việc hàng ngày; 23,6% lao động tham
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ
199
gia các khóa đào tạo trong nước; 6,9% thuê các chuyên gia nước ngoài đào tạo; còn những người
tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài chỉ chiếm 3,9%. Theo tổng hợp của VLA (2018) về kết
quả khảo sát các doanh nghiệp logistics, 45% nhân viên tốt cho tiêu chí về trình độ chuyên
môn kinh nghiệm việc làm. Các doanh nghiệp sử dụng lao động trong ngành đòi hỏi người
lao động phải nắm bắt nhanh công việc, hiểu sâu chuyên môn, nhanh nhẹn giải quyết vấn đề nên
nguồn nhân lực thiếu chuyên nghiệp sẽ cản trở sự phát triển của ngành khó theo kịp tốc độ
phát triển của thế giới.
- Trình độ ngoại ngữ, CNTT và truyền thông: Kết quả khảo sát của VLA trong năm 2018 chỉ
ra rằng, 29% nhân viên được đánh giá tốt về ITngoại ngữ, còn mức khá 41% (VLA, 2018).
Với kết quả này thể thấy, trình độ về ngoại ngữ IT của nhân lực trong lĩnh vực này còn
nhiều hạn chế. Trong khi lĩnh vực logistics quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến hoạt động
giao thương giữa các quốc gia và khu vực do đó đòi hỏi nhân lức phải có trình độ ngoại ngữ và
IT cao.
- Khả năng làm việc trong môi trường quốc tế: Lĩnh vực logistics và quản lý chuỗi cung ứng
liên quan nhiều đến môi trường quốc tế, kỹ năng của nhân lực trong môi trường quốc tế đặc biệt
quan trọng. Kỹ năng này thể hiện thông qua ngôn ngữ, sự tự tin, nhiệt huyết, thân thiện hòa
đồng trong trao đổi công việc cũng như giao tiếp. Khảo sát của VLA (2018) cho thấy, chỉ số này
còn rất khiêm tốn: 29,5% nhân viên được đánh giá tốt, 33,6% nhân viên được đánh giá khá.
- Kỹ năng mềm trong giải quyết công việc: Các kỹ năng mềm cần thiết sẽ công cụ hỗ trợ
không chỉ cho nhân viên mới mà còn đối với bất kỳ người lao động có thể hoàn thành công việc
của mình. Nhân viên với các kỹ năng mềm thành thạo chắc chắn sẽ có hiệu quả cao trong công
việc. Kỹ năng mềm trong ngành dịch vụ logistics gồm nhiều kỹ năng như: làm việc nhóm, quản
lý thời gian, thương lượng, đàm phán, soạn thảo văn bản, giải quyết vấn đề... Theo VLA (2018),
tổng tỷ lệ đánh giá cho cả tốt khá 38%. Kết quả này cho thấy, nguyên nhân các doanh nghiệp
luôn ưu tiên nhân viên có kinh nghiệm và có khả năng thích ứng nhanh với môi trường làm việc.
Nhân lực kỹ năng mềm tốt sẽ duy khả năng làm việc nhạy bén, nhanh chóng giải
quyết các vấn đề phát sinh trong công việc, đưa ra được các phương án khả thi và hiệu quả. Đây
những yêu cầu quan trọng đối với nhân lực trong lĩnh vực logistics và quản lý chuỗi cung ứng.
Với nền kinh tế hội nhập cạnh tranh mang tính toàn cầu hiện nay, ngành Logistics chuỗi
cung ứng luôn có nhu cầu và yêu cầu cao cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực ở cả cấp
độ tác nghiệp trực tiếp hay cấp độ hoạch định, quản lý. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu về nhân
lực lĩnh vực logistics và chuỗi cung ứng thể hiện cụ thể như:
- Yêu cầu nguồn nhân lực logistics và chuỗi cung ứng đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0:
Nền kinh tế hội nhập hiện nay bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cuộc CMCN 4.0. Hoạt động logistics
trong thời kỳ 4.0 hiệu quả phải được hỗ trợ bởi các hệ thống thông minh, tích hợp trong phần
mềm sở dữ liệu, cung cấp chia sẻ thông tin liên quan xây dựng dựa trên 5 nền
tảng: hoạch định nguồn lực; hệ thống quản kho; hệ thống quản lý vận tải; hệ thống giao thông
thông minh; bảo mật thông tin (Barreto, L., Amaral, A., và Pereira, T., 2017). Con người cần tăng
cường tiềm năng phân tích của họ trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Do đó, năng lực của nguồn nhân
lực cũng phải thay đổi theo hướng nhấn mạnh tầm quan trọng của các kỹ năng phân tích, tính
toán và tích hợp được hệ thống công nghệ 4.0.
KỶ YẾU HI THO KHOA HỌC QUỐC GIA
200
- Ảnh hưởng của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến trình độ nhân lực ngành
Logistics chuỗi cung ứng: Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu từ việc áp dụng chính sách tự
do hóa thương mại và hội nhập quốc tế. Việc gia nhập vào CPTPP và EVFTA tạo cho Việt Nam
hội hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Để đáp ứng được nhu cầu
và yêu cầu theo tiêu chuẩn chất lượng châu Âu, ngoài các yếu tố về sản xuất, thương mại, hàng
hóa... thì nhân lực trong lĩnh vực logistics, ngoài ngoại ngữ, IT, kiến thức chuyên môn logistics
chuỗi cung ứng, còn phải đáp ứng được các yêu cầu về am hiểu pháp luật, thị trường các
tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường.
- Yêu cầu, tiêu chuẩn của các doanh nghiệp đối với nguồn nhân lực logistics và chuỗi cung
ứng: Kết quả khảo sát của Bộ Công Thương (2018) về tiêu chuẩn của doanh nghiệp khi tuyển
dụng nhân sự logistics theo thang điểm 5 cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam thường nhấn
mạnh đến năng lực thực tế của ứng viên hơn là các tiêu chuẩn về bằng cấp khi tuyển dụng nhân
lực logistics.
Hình 2. Tiêu chuẩn của doanh nghiệp khi tuyển dụng nhân sự logistics
Nguồn: Bộ Công Thương (2018)
Do đó, bên cạnh đào tạo kiến thức chuyên môn, các doanh nghiệp Việt Nam thường nhấn
mạnh đến năng lực thực tế của ứng viên hơn các tiêu chuẩn về bằng cấp khi tuyển dụng nhân lực
logistics. Từ đó thể thấy rằng, bên cạnh đào tạo kiến thức khoa học hàn lâm, để đáp ứng được
yêu cầu của doanh nghiệp, các sở đào tạo cần nhấn mạnh đến việc hình thành kỹ năng nghề
nghiệp cho sinh viên, học viên; tạo điều kiện để sinh viên, học viên được tiếp cận môi trường thực
tế ngay trong quá trình đào tạo. Có như thế, sau khi tốt nghiệp, nguồn nhân lực từ các cơ sở đào tạo
mới đảm bảo được những yêu cầu, tiêu chuẩn của doanh nghiệp (Bộ Công Thương, 2018).
- Khả năng đáp ứng yêu cầu do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19: Từ năm 2020, lĩnh vực
logistics chuỗi cung ứng đã sự chuyển số đổi hiệu quả khi chịu sự tác động của đại dịch
COVID-19 khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy. Để duy trì hoạt động, nhiều doanh nghiệp
logistics Việt Nam đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT, thương mại điện tử, khai thác khá hiệu quả
phương thức vận hành E-logistics (hậu cần trực tuyến). Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực ngoài
đáp ứng được các yêu cầu phòng, chống dịch bệnh chung còn phải có trình độ chuyên môn, kiến
thức, kỹ năng xử lý các thay đổi liên tục và khả năng ứng dụng công nghệ đáp ứng yêu cầu trong
thời kỳ mới.