
Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước
ASEAN

Câu 1: Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước ASEAN
1. Thái Lan
Trong những năm gần đây nền kinh tế Thái Lan có xu hướng tăng trưởng
mạnh tuy vẫn hàm chứa nhiều rủi ro. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới và cũng là nước có ngành kinh doanh du lịch rất phát triển.
GDP: Năm 2005, GDP đạt 183,9 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng là 4,5%,
thu nhập bình quân đầu người là 2.736 USD. Tăng trưởng kinh tế năm 2005 phụ
thuộc chủ yếu vào nhu cầu nội địa gia tăng. Năm 2005 ở khu vực tư nhân tiêu
dùng tăng 5,1%, đầu tư tăng 16,3%, trong khi ở khu vực công tiêu dùng tăng 6,9%
và đầu tư tăng 24%.
Việc làm: Tình hình thất nghiệp liên tục được cải thiện. Số người có việc
làm tăng từ 33,8 triệu người năm 2003 lên 34,7 triệu người năm 2004, tỷ lệ thất
nghiệp giảm từ 3% năm 2002 xuống 2,1% năm 2004 và 1,4% năm 2005.
Xuất nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây tăng liên
tục từ 68,6 tỷ USD năm 2002 lên 96,1 tỷ USD năm 2004 và 105,8 tỷ USD năm
2005, chủ yếu nhờ vào sự hồi phục kinh tế của của các bạn hàng lớn nhất của Thái
Lan như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Ngoài ra xuất khẩu của Thái
Lan còn được đẩy mạnh nhờ các thỏa thuận tự do thương mại song phương như
với Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Peru, Bahrain. Những sản phẩm
xuất khẩu chủ yếu của Thái Lan là vải sợi, giày dép, các sản phẩm từ cá, gạo, đồ
trang sức, máy vi tính và các thiết bị điện tử. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng từ
64,3 tỷ USD năm 2002 lên 94,4 tỷ USD năm 2004 và 107 tỷ USD với các mặt
hàng chủ yếu là nguyên liệu thô, hàng tiêu dùng, nhiên liệu. Thị trường nhập khẩu
chính từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaysia, Các Tiểu vương quốc A rập
thống nhất, Singapore.
Lạm phát: Tỷ lệ lạm phát năm 2004 là 2,8%, năm 2005 là 4,1%.
Dự trữ ngoại hối: 52,07 tỷ USD (năm 2005).
Nợ nước ngoài: 52,46 tỷ USD (năm 2005).

Cán cân thương mại: Kể từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997, cán cân
thương mại luôn đạt thặng dư (xuất siêu), tuy nhiên mức độ thặng dư có khuynh
hướng giảm dần do nhu cầu trong nước tăng mạnh. Thặng dư trong cán cân
thương mại năm 2004 là 1,4 tỷ USD.
Tỷ giá hối đoái: 1 USD = 40,2 baht (2005).
Chi tiêu ngân sách: Trong năm tài khóa 2004 tổng thu ngân sách là
1.127,153 tỷ baht (chiếm 17,6% GDP), chi ngân sách là 1.140,110 tỷ baht (chiếm
16,5% GDP), thâm hụt 12,957 tỷ baht (chiếm 0,2% GDP).
Chính sách tiền tệ: Do Ủy ban Chính sách Tiền tệ hoạch định, với mục
tiêu bình ổn giá cả, kiểm soát lạm phát nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững,
thông qua việc áp dụng tỷ giá mua lại 14 ngày làm tỷ giá chủ yếu.
Triển vọng trung hạn: Trong giai đoạn trung hạn (2005-2009), theo dự
báo của Bộ Tài chính Thái Lan, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ đứng ở mức
5,9%/năm với tỷ lệ lạm phát là 3,2%/năm. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này
chủ yếu nhờ vào sự phát triển ổn định của nhu cầu tiêu dùng khu vực tư nhân, xuất
khẩu gia tăng, đầu tư tăng mạnh ở cả khu vực công và tư nhằm nâng cao năng lực
sản xuất.
2.Indonexia
Indonesia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú với trữ lượng lớn dầu
lửa, khí đốt, thiếc, đồng và vàng. Indonesia là thành viên của tổ chức các Quốc gia
Xuất khẩu Dầu lửa OPEC và đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu khí đốt. Mặc
dù Indonesia xuất khẩu dầu thô nhưng vẫn phải nhập khẩu dầu lọc, do đó Chính
phủ phải trợ giá xăng dầu để giữ giá nhiên liệu ở mức thấp (năm 2004 mức trợ giá
xăng dầu của Chính phủ là 7 tỷ USD). Gần đây Chính phủ Indonesia đang thực
hiện cắt giảm dần sự trợ giá này. Indonesia là một trong những nền kinh tế chịu
hậu quả nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực cuối thập niên 90
của thế kỷ XX. Tuy nhiên hiện nay, nền kinh tế Indonesia đang trong giai đoạn
phục hồi tốt.

Tăng trưởng GDP: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực tháng 7-
1997 đã làm cho nền kinh tế của Indonesia lâm vào khủng hoảng trầm trọng: năm
1998 mức tăng GDP là -12,2% (trước khủng hoảng GDP trung bình tăng 7-8%).
Tuy nhiên, từ năm 1999, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi. Năm 2004, nền kinh
tế tăng trưởng nhanh, đạt mức 5,13% và 2005 ở mức 6%, bằng mức trước khủng
hoảng. Mức tăng trưởng này diễn ra trên hầu khắp các khu vực trong nền kinh tế,
đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo, giao thông và viễn thông; và được đi kèm với sự
tăng nhanh của đầu tư và xuất khẩu. Để tạo đà tăng trưởng ổn định, Chính phủ đã
cam kết tạo một môi trường thuận lợi cho đầu tư và giảm thâm hụt ngân sách
xuống dưới 1% GDP. Năm 2005 GDP đạt mức 270 tỷ USD, tính theo đầu người
đạt mức 3.600 USD/năm.
Lạm phát: Trong năm 2004, tiền tệ cơ sở được kiểm soát tốt và tỷ giá hối
đoái đồng Rupiah ổn định đã giúp Ngân hàng Trung ương kìm hãm lạm phát giá
tiêu dùng (CPI) ở mức 6,4%, và vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu là 5,5% +/- 1%.
Những yếu tố chính tạo sức ép lạm phát là sự tăng giá nhà, thực phẩm, giao thông,
viễn thông và đặc biệt là giá năng lượng. Trong thời gian tới, lạm phát dự đoán sẽ
tiếp tục tăng do kế hoạch của chính phủ giảm trợ cấp xăng dầu cộng với xu hướng
giảm giá của đồng nội tệ.
Việc làm: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, số lượng việc làm mới
được tạo ra cũng tăng, song thị trường lao động vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp là 9,9% (tương đương khoảng 10,3 triệu người). Tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao là do số lượng việc làm mới được tạo ra thấp hơn so với số
lượng người mới tham gia vào thị trường lao động, cộng với việc một số ngành
công nghiệp dệt may, giày da và hàng không cắt giảm số lượng công nhân.
Thương mại: Indonesia xuất khẩu khí đốt đứng hàng thứ hai trên thế giới
và cũng xuất khẩu dầu thô với số lượng lớn. Bên cạnh dầu khí, Indonesia còn xuất
khẩu các mặt hàng nông nghiệp như dầu cọ, gạo, chè, cà phê, tiêu và cao su. Mặt
hàng nhập khẩu chính là dầu lọc, máy móc thiết bị… Các đối tác thương mại lớn
là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Australia.

Cán cân thanh toán: Tình hình cán cân thanh toán của Indonesia năm
2004 tiếp tục được cải thiện. Tài khoản vãng lai thặng dư ở mức kỷ lục nhờ tăng
xuất khẩu. Tài khoản vốn năm 2004 cũng đạt mức thặng dư nhờ dòng vốn đổ vào
của khu vực tư nhân. Nhìn chung, cán cân thanh toán năm 2004 đạt mức thặng dư
và dự trữ ngoại hối tăng lên 36,3 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2005, cán cân thanh
toán xấu đi do nhập khẩu tăng mạnh trong khi xuất khẩu tăng không đáng kể đồng
thời thặng dư tài khoản vốn cũng giảm; dẫn tới dự trữ ngoại hối giảm xuống còn
khoảng 30,6 tỷ USD.
Tỷ giá hối đoái: Năm 2004, tỷ giá hối đoái của đồng Rupiah tương đối ổn
định, nhất là sáu tháng cuối năm, đứng ở mức 8.940 Rupiah/1 USD, so với năm
2003 giảm 3,9%. Năm 2005, tỷ giá hối đoái là 9.704,7 Rupiah/1 USD. Sự ổn định
tỷ giá hối đoái một phần nhờ vào các biện pháp quản lý tiền tệ nhằm ổn định kinh
tế vĩ mô của chính phủ, sự tăng cường và thống nhất trong các chính sách quản lý,
hệ thống ngân hàng phục hồi tốt và sự kỳ vọng tích cực của các nhà đầu tư vào
triển vọng nền kinh tế.
Chính sách thu chi ngân sách: Chính sách thu chi ngân sách được thiết
lập để phục vụ kế hoạch phát triển trung hạn, nhằm đảm bảo tính bền vững của
ngân sách thông qua việc giảm thâm hụt ngân sách và phấn đấu đạt được cân bằng
ngân sách vào năm 2008. Để giảm thâm hụt ngân sách, Chính phủ có một số chính
sách cụ thể như cải thiện kỷ luật thu chi tài chính, giảm dần trợ cấp và nợ nước
ngoài, tăng dần doanh thu từ thuế, cải cách chi tiêu của chính phủ. Quyết tâm cải
thiện cán cân ngân sách được thực hiện kiên quyết và cũng đang phát huy tác
dụng. Năm 2004, dự kiến mức thâm hụt là 26.300 tỷ rupiah (1,3% GDP) nhưng
thực tế là 28.600 tỷ (1,4% GDP) do giá dầu tăng và thiên tai; so với năm 2003 là
giảm được 1,9%.
Nợ nước ngoài: Nợ nước ngoài khu vực công là khoản nợ nước ngoài của
Chính phủ và Ngân hàng Trung ương. Năm 2004, 85,5% nợ nước ngoài khu vực
công là của Chính phủ. Nợ nước ngoài có xu hướng tăng từ 69,4 tỷ USD năm
2001, lên 74,5 tỷ USD năm 2002 và 80,9 tỷ USD năm 2003. Năm 2004, nợ giảm

