
1
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
MODULE 1
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON
ThS. NGUYỄN THỊ TRẦM CA
Quảng Trị, 2022

2
Module 1:
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM
NON
A. MỤC TIÊU
- Hiểu được khái niệm đạo đức và đạo đức nghề nghiệp.
- Phân tích được các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp của
người GVMN.
- Vận dụng các kiến thức được trang bị vào tự đánh giá mức độ đáp ứng
của bản thân đối với các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp, quy tắc
ứng xử trong nhà trường.
- Đề xuất được một số biện pháp tự rèn luyện và trau dồi đạo đức trong
hoạt động nghề nghiệp.
B. MÔ TẢ NỘI DUNG
Module Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non (GVMN) sẽ
cung cấp những nội dung cơ bản về:
- Khái niệm Đạo đức; Đạo đức nghề nghiệp; Đạo đức nghề nghiệp của
người giáo viên mầm non.
- Đặc thù lao động nghề nghiệp và yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của
GVMN
- Các quy định pháp luật về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN.
- Rèn luyện đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc,
giáo dục trẻ của người GVMN.
C. NỘI DUNG CỤ THỂ
I. LÝ THUYẾT (10 tiết): ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI
GVMN
1. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI

3
GVMN
1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.1.1. Đạo đức
Từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh có nghĩa là lề thói, còn xét theo
nguồn gốc ở chữ Hy Lạp có nghĩa là lề thói, tập tục. Ở Phương Đông, các học
thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo
và đức. Là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc
cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi. Đức dùng để nói đến nhân đức,
đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc
luân lý. Từ đó, có thể hiểu đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc
do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức xuất hiện sớm trong
quá trình phát triển của xã hội, nó phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội. Đạo đức luôn là một trong
những phương thức hữu hiệu điều chỉnh hành vi của con người, góp phần quan
trọng trong việc duy trì trật tự xã hội trong các chế độ xã hội. Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội. Bản chất của hành vi đạo đức là
tính tự nguyện, tự giác của chủ thể, là hành động vì lợi ích của người khác và
có sự thống nhất với lợi ích xã hội nói chung. Vì vậy, các hiện tượng đạo đức
thường được biểu hiện dưới hình thức khẳng định một lợi ích chính đáng hay
không chính đáng theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đạo đức bắt
nguồn từ cuộc sống, phản ánh tồn tại xã hội, thực tiễn lao động sản xuất, điều
kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người một giai đoạn lịch sử nhất
định. Do phản ánh các yêu cầu của xã hội, do phương thức điều chỉnh tự giác,

4
tự nguyện nên đạo đức có vai trò to lớn, độc đáo đối với sự phát triển xã hội và
con người. Với tư cách một hiện tượng xã hội, đạo đức gắn liền với tất cả các
lĩnh vực hoạt động của con người và là phương diện cấu thành của tất cả các
lĩnh vực đó. Chính con người (chứ không phải một sức mạnh siêu nhiên nào
đó) trong hoạt động sinh sống mang tính xã hội của mình đã tạo ra các nguyên
tắc, các chuẩn mực đạo đức; đồng thời tự giác và tự nguyện điều chỉnh các hoạt
động của mình theo các nguyên tắc, các chuẩn mực đó nhằm giải quyết một
cách hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Nói cách khác, chính
con người là chủ thể của các quan hệ, các hoạt động được điều chỉnh bởi đạo
đức.
Tóm lại: Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, những tiêu
chuẩn sinh hoạt chung trong xã hội nhằm điều chỉnh sự ứng xử của con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống, đảm bảo cho xã hội một trật tự nhất định, cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển của nó.
1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp
Trong hoạt động nghề nghiệp, những lợi ích cơ bản của con người được
thực hiện. Nhưng khi thực hiện lợi ích của mình, mỗi cá nhân hoặc một nhóm
người không thể không có quan hệ về mặt lợi ích với người khác, với xã hội.
Khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì hoạt động nghề
nghiệp của con người chứa đựng giá trị đạo đức.
Như vậy có thể thấy, những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp là sự thể hiện đặc thù những yêu cầu đạo đức chung của xã hội trong
những lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Những chuẩn mực này bị quy
định bởi tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất định. Tuy
nhiên, tính đặc thù này không có nghĩa là mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội và
con người có những đòi hỏi và do đó, có những chuẩn mực hoàn toàn riêng
biệt. Thực ra, tính đặc thù của đạo đức nghề nghiệp là ở chỗ, mức độ và quy

5
mô những yêu cầu, những đòi hỏi của xã hội đối với con người trong những
lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp khác nhau là khác nhau. Do đó, với mỗi loại
hình hoạt động nghề nghiệp nhất định có một số chuẩn mực đạo đức nhất định
thể hiện nổi bật làm thành tính đặc thù về mặt đạo đức của nghề nghiệp đó.
Những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp một mặt, là sự phản
ánh những đòi hỏi của xã hội, mặt khác, lại là động lực tinh thần để con người
hoạt động hiệu quả hơn trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Trong xã hội có
bao nhiêu nghề nghiệp thì cũng có bấy nhiêu đạo đức nghề nghiệp. Từ đây có
thể khái quát, đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức của một nghề nghiệp cụ thể mà các thành viên của ngành nghề
đó tự đánh giá, điều chỉnh nhận thức và hành vi của bản thân mình cho phù
hợp với nhu cầu, lợi ích, mục đích và sự tiến bộ xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp có thể được xem là tài sản vô hình quý giá nhất tạo
nên thương hiệu của mỗi cá nhân. Nó không phụ thuộc vào trình độ học vấn
hay địa vị xã hội, mà chính là xuất phát từ nội tâm luôn biết nghĩ cho người
khác, không vụ lợi cho riêng mình.
1.2. Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non (GVMN)
Trong xã hội có nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Mỗi lĩnh vực, ngành nghề
cần có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đặc trưng, nhất là những hoạt động
mang tính chuyên môn hoá cao, liên quan đến con người càng cần có những
yêu cầu về đạo đức hơn. Giáo dục là một lĩnh vực đặc biệt, có nhiệm vụ “trồng
người”, là hoạt động truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm xã hội, giá trị lịch
sử cho các thế hệ kế tiếp, đào tạo ra những nhân cách phát triển toàn diện. Đặc
trưng của nghề nghiệp luôn đòi hỏi người làm công tác giáo dục cần phải có hệ
thống phẩm chất đạo đức đảm bảo cho họ hoàn thành sứ mệnh cao cả.
Với vai trò là người “bắc cầu” chuyển giao những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và nhân loại đến cho học sinh; từ xưa đến nay khi nghiên cứu