NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
17
ĐO GIÁO DÂN GIAN
VIỆT NaM QUñ BiểU
TƯỢNG CHỬ ĐỒNG TỬ
ĐỖ LAN PHƯƠNG”)
ĐẠT VẤN ĐỀ
Trong thần điện của người Việt, Chử
Đồng Tử đã được tôn vinh là một trong
"Ƒứ bất tử": Thánh Tân (Tản Viên Sơn
Thánh), Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên
Vương), Thánh Chử Đồng Tử (Chử Đạo
Tô), và Thánh Mẫu Liễu Hạnh (có thuyết
cho vị thánh bất tử thứ tư là Từ Đạo
Hạnh, hay là thần Độc Cướóc, Khổng
Minh Không, Đức Thánh Trần), bộ "tứ
bất tử" này đã thu hút sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội, đặc
biệt là những người muốn tìm hiểu sâu
đời sống văn hoá tâm linh của người Việt.
Vào thập kỉ 30 - 40 của thế kỉ XX,
GS. Nguyễn Văn Huyện đã mở đầu cho
việc nghiên cứu về bốn vị thánh bất tử
này qua sưu tầm Hội Phù Đổng và
truyền thuyết về Chứ Đồng Tử- ông tổ
của các thần tiên Việt Nam`. Trên cơ sỏ
đó, những nhà nghiên cứu văn hoá Việt
Nam sau này đã có thể lí giải được ý
nghĩa lịch sử, ý nghĩa văn hoá trong các
sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt.
Những năm 1960 - 1970, hai nhà nghiên
cứu triết học Nguyễn Đăng Thục, Trần
Văn Giàu đã chọn thánh Chử Đồng Tử
làm đối tượng nghiên cứu lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Hai ông phân tích văn
bản và các tình tiết diễn ra trong truyền
”' Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu Văn hoá nghệ
thuật.
thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung để tìm
hiểu ý nghĩa đích thực của nó qua quan
điểm nhân sinh vô cùng nhân bản của
câu chuyện, xem đó là một biểu hiện của
hệ tư tưởng bình dân với một triết lí giản
đơn mà các ông gọi là "đạo lí tự nhiên"”.
Tới năm 1991, cuốn Tứ bất tử - công
trình đầu tiên nghiên cứu về bốn vị
thánh này ra đời, đối tượng nghiên cứu
được tiếp cận dưới góc độ tín ngưỡng dân
gian. Hai tác giả Vũ Ngọc Khánh, Ngô
Đức Thịnh đã có nhiều đóng góp trong
việc sưu tầm, phân tích những truyền
thuyết (cùng dị bản), sự tích về những vị
thánh này cùng những sinh hoạt văn hoá
liên quan đến họ. Đó là những kết quả
nghiên cứu bước đầu để các tác giả khẳng
định trong những nghiên cứu sau này,
rằng: Tứ bất tử là một hệ thống biểu
tượng (symbol) chứa đựng ý thức, tâm
thức của dân tộc hình thành 0à tồn tại
trong giai đoạn lịch sử nhất định, và Chủ
Đồng Tử là một biểu tượng trong hệ biểu
tượng này”. Đặc biệt, thánh Chử lại có
một tôn danh nữa là "Chử Đạo Tổ" đã
làm các nhà nghiên cứu tín ngương dân
gian người Việt quan tâm hơn. Năm
1996, cuốn sách Từn uề bản sốc uăn hoá
Việt Nam của Trần Ngọc Thêm đã đề cập
tới vấn đề này khi viết về Đạo giáo Việt
Nam, tác giả cho rằng: Chử Đồng Tử là
ông tổ của Đạo giáo Việt Nam (phái tu
tiên, nội tu)”.
Từ những nghiên cứu về truyền
thuyết, thần điện cũng như về sinh hoạt
văn hoá - tín ngưỡng liên quan tới Chử
Đạo tổ - Chử Đồng Tử ở Hưng Yên (vùng
thờ chính), tôi muốn nghiên cứu của
mình có thể góp phần làm rõ một lớp
nghĩa văn hoá với những yếu tố Đạo giáo
nổi trội ở một biểu tượng văn hoá của
người Việt. Và, trong bài viết này, tôi
l8
ĐỖ LAN PHƯƠNG
không cố ý tách riêng ảnh hướng của Đạo
giáo khoi môi trường tam giáo hoà quyện
đã cùng gây anh hưởng lớn tới văn hoá
Việt Nam cũng như tới hiện tượng văn
hoá này.
1. Đạo giáo Trung Quốc du nhập
và sự hinh thành Đạo giáo dân gian
Việt Nam
1.1. Sơ lược uề Đạo giáo Trung Quốc
Đạo giáo là một tôn giáo lớn ra đời ở
Trung Quốc, được hình thành trên cơ sở
lí luận của triết thuyết về Đạo - được
xem là cội nguồn sinh thành và tồn tại
của vũ trụ, do Lão Tử để xướng (ông sống
vào khoang thế kỉ V - IV tr.CN: có tài
liệu lại cho rằng ông sống vào khoảng thế
kỉ VỊ - V tr.CN. Đây còn là triết thuyết
về đạo đức cũng như để cao lẽ fự nhiên -
là sự tương hợp giữa Đạẹạo và Đức (Đức là
cái biểu hiện của Đạo, Đức hoàn thiện sẽ
đạt tới go) trong quá trình vận động nội
tại của sự vật trong vũ trụ. Đạo của Lão
Tử đã trở thành một trường phái triết
học cô đại Trung Hoa với tên gọi Đạo gia
(hay Lão gia) và sau được Trang Tử (360
- 280 tr.CN) phát triển và thần bí hoá nó.
Đạo giáo được hình thành là quá trình
kết hợp dần dần giữa tư tưởng Đạo gia
với những tín ngưỡng cổ Trung Hoa như
các thực hành ma thuật, phù phép bùa
chú, cúng quỷ thần. xem sao, đoán mộng,
bói mai rùa, nhập đồng thần bí (từ dùng
của Henri Maspero, ông cho đây là đặc
trưng trong nghỉ lễ của những đạo sĩ Đạo
giáo nguyên thủy).
Có thể nói, Đạo giáo Trung Quốc ra
đời vào cuối thời Đông Hán (35 - 3990),
xuất phát từ sự ra đời Thứi Bình đạo của
Trương Giác - một lãnh tụ của khởi nghĩa
nông dân (năm 184), sau là Ngủ Đấu Mê
đạo của Trương Đạo Lăng. Trương Đạo
Lăng (chịu ảnh hưởng của Trang Tử) đã
thần bí hoá Đạo của Lão Từ, xem nó như
thần, là nguồn gốc của trời đất và là chủ
các thần linh (từ tín ngưỡng thời cổ), tôn
Lão Tử làm giáo chủ. Từ đây các đạo sĩ
đã chủ trương tu luyện để đạt đến cái
Đạo của các thánh thần và được trường
sinh bất tử. Biện pháp tu luyện là dùng
phép Nội đan (nội tu): luyện khí, nhịn
ăn, hoặc Ngoại đan (ngoại tu, ngoại
dưỡng): luyện thuốc uống (từ các chất
như thuỷ ngân, vàng, nhân sâm hay được
thảo quý, một số khoáng chất...) và tiến
hành hàng loạt những nghỉ lê như sám
hối. thanh lọc tội lỗi, cầu thọ bằng các
phép ma thuật, bùa chú”. Sự tu luyện
thành tiên là hạt nhân của Đạo giáo.
Đến đời Nguy Tấn, Cát Hồng (283-
363) đã đưa Đạo giáo phát triển lên
thành một tôn giáo chính thức với việc
lập hệ giáo thuyết (thể hiện trong tác
phẩm Bão Phác tử), giáo hột (với thứ bậc:
Sư - thầy, người giảng kinh và hướng
dân đạo dân thực hành nghĩ lễ; Chư
quữn - quan nam, quan nữ; Chủ gia - ông
chủ); Tế fu - quan Ìo tiệc rượu; và Lực
sinh - thày làm bùa chú, cha truyền con
nối), giáo khu của Đạo dân (do Sư - thầy
đứng đầu). Thần điện Đạo giáo thời kì
này (gọi là Đạo giáo nguyên thuỷ) mới chỉ
dành cho Tœm Thanh, gồm: Thượng
Thanh (Nguyên thuỷ thiên tôn), Ngọc
Thanh (Linh bảo nguyên quân, sau này
là Ngọc Hoàng Thượng đế) và Thi
Thanh (Thai thượng Lão quân - Lão Tử).
Hệ thống giáo hội này thịnh hành tới đời
Đường (thế kỉ VỊ - X). Bên cạnh các nghỉ
lễ chính của Đạo giáo, đạo đân vẫn duy
trì tín ngưỡng cổ (thờ các thần tự nhiên)
được kết hợp với tư tưởng Đạo giáo trong
lễ Tam hội - còn gọi là lễ Tam quan: Trồi,
Đất và Nước”... Chính sự kết hợp này mà
người ta gọi đó là Đạo giáo dân gian.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
19
Đến đời Tống. Nguyên, Đạo giáo rất
thịnh hành và phát triển với hai giáo
phái chính: Đạo giáo Phù thuy (hành đạo
chủ yếu băng ma thuật, phù phép bùa
chú. cúng quỷ thần...) và Đạo giáo Thần
tiên (tủ đạo với hai hình thức: Nội đan-
Nội tu; và Ngoại đan - ngoại tu, ngoại
dưỡng). Một số học giả trong đó có G6.
Trần Văn Giàu, cho răng: Trương Đạo
[Lãng là người mở đầu Đạo giáo Phù thuỷ
và Cát Hồng là người để ra Đạo giáo
Thân tiên. Nhưng trong quá trình phát
triển, hai phái này luôn có những ảnh
hưởng lẫn nhau và nhiều lúc xen lẫn rất
khó phân đôi.
Về thần điện. dù các nhà nghiên cứu
đã tìm ra bảy cấp bậc nhưng ngay cả khi
Đạo giáo phát triển thần điện này cũng
thiếu sự tập trung và thống nhất. Nó đã
tiếp nhận nhiều thần linh cũ của tín
ngưỡng thời cổ như các thần tự nhiên, các
nhân thần có nguồn gốc là các thày lang,
tướng sĩ, đạo s1 (Trương Đạo Lãng, Lã
Đồng Tân...). do vậy, thần điện ngày càng
đông thêm ngoài những vị thần chính
được kế tục từ thần điện Đạo giáo nguyên
thuỷ (Tam thanh). Bên cạnh đó, sự thở
phụng ở các địa phương cũng rất khác
nhau, vì thế, các nhà nghiên cứu Đạo
giáo Trung Quốc thường tìm hiểu các
thản điện khác nhau (nhưng cùng thở
Tam Thanh) theo từng triều đại trong
lịch sư.
1.9. Đạo giao Trung Quốc du nhập uà
sự hình thành Đạo giáo dân gian Việt
Nam
Đạo giáo được truyền vào nước ta
ngay từ thế kỉ II, với ca hai giáo phái:
thần tiên và phù thủy. Lúc đó Việt Nam
(còn trong thời Bắc thuộc) năm trên đất
Giao Châu (gồm Giao Chỉ, Hợp Phố, Cửu
Chân và Nhật Nam) của nhà Hán. Đạo
giáo Trung Quốc theo chân các quan cai
trị. các học giả như Sĩ Nhiếp, Trương
Tân, Mâu Tử (vừa theo Nho học vừa là
tín đồ đạo giáo) và đặc biệt là các đạo sĩ
đi lánh nạn đã đến đất này”.
Đạo Giáo phù thuỷ đã nhanh chóng
phát triển vì tìm được môi trường thích
ứng ở Giao Châu với những hình thức ma
thuật, bùa chú chữa bệnh, cúng quỷ
thần. đồng cốt. Hàng loạt truyện dân
gian, dù là hư hư thực thực (được sưu
tầm sau này trong sách Lĩnh Nam chích
quái - thế kì XV) như Nhất Dạ Trạch, Lý
Ông Trọng, truyện thần Tô Lịch và thần
Tản Viên của đất Việt làm cho phép
thuật của Cao Biển hết linh nghiệm,
truyện Từ Đạo Hạnh tu luyện phép
thuật”... đã phản ánh sự hình thành Đạo
giáo phù thuỷ ở Đại Việt. Nó dựa trên các
hình thức phương thuật của các "pháp
sư" đất Việt, phản ánh sự đụng chạm
giữa các đạo sĩ Đại Việt và Trung Hoa.
Đó cũng chính là quá trình bản địa hoá
Đạo giáo Trung Quốc ở Việt Nam.
Đến thế kỉ VII, Đạo giáo phù thuỷ rất
thịnh hành (trong khi đó, Phật giáo phải
đến đời Lý - thế kỉ XI mới trở thành
chính giáo, Nho giáo là quốc giáo phải đợi
đến đời Lê - thế kỉ XV), bằng chứng là
Bạch Hạc Thông thánh quán ”- được đạo
sĩ Lý Thường Minh xây dựng vào khoảng
năm 650 - 655, ghì nhớ việc ông dùng
phép thuật trị tà ma tại rừng Bạch Hạc.
Vào thời Lý Thái Tông, sự kiện đạo sĩ Lý
Giác dùng uy danh của phép "biến có
thành người" để tập hợp nông dân nổi
đậy (năm 1042) chống lại triều đình'° đã
cho thấy ảnh hưởng của đạo giáo trong
đời sống tâm linh cư dân Đại Việt giai
đoạn này. Trên phương diện quốc gia,
khoa thi tam giáo (Nho, Phật, Đạo: bài
thi có các câu hỏi về thuật phù thuỷ, bùa
20
ĐÔ LAN PHƯƠNG
chú) đầu tiên đã được mở dưới thời vua
Lý Cao Tông, năm 1195.
Đến đời nhà Trần, Đạo giáo càng
được sùng bái, nhà Trần đã cho tổ chức
thì tam giáo vào các năm 1227, 1247,
Hoạt động của các đạo sĩ phù thuỷ thâm
nhập sâu trong đời sống của hoàng gia:
vua Trần Thái Tông đã nhờ đạo sĩ ở Thái
Thanh cung làm lễ cầu sinh con trai, sau
đó Trần Nhật Duật ra đời. Khi đã thành
một danh tướng, ông đã kết thân và
thường đàm đạo với đạo sĩ Hứa Tông Đạo
về thuật bùa chú, ăn chay. Trong cung
nhà Trần thường có việc đạo sĩ cúng cầu
an, cầu siêu cho các công chúa. Khi xuất
hiện sự khủng hoang xã hội vào cuối thời
Trần, một số đạo sĩ phù thuỷ cũng đã sử
dụng vũ khí ma thuật phù phép, bùa chú
để vận động nhân dân nổi dậy chống lại
triều đình như đạo sĩ Nguyễn Bổ (năm
1379, xưng vương và lấy hiệu là Đường
Lang Tử Y). Trần Đức Huy (thời nhà
Hồ)''... Như vậy, chúng ta đã thấy rõ sự
phổ biến của đạo giáo phù thuỷ không chỉ
trong tầng lớp quý tộc, hoàng gia mà
trong cả tầng lớp bình dân.
Đến đời Lê - Nguyễn, Nho giáo là hệ
tư tưởng thống trị trong xã hội, việc thì
Tam giáo không còn được tổ chức như các
đơi trước, nhưng sự xuất hiện việc thờ
cúng tướng Trần Hưng Đạo như một vị
thần của Đạo giáo phù thuỷ, cho Ông có
khả năng dùng phép thuật trị những
bệnh nan y; hay việc thờ Mẫu Liễu Hạnh
với tục cầu cúng, lên đồng để cầu tài, cầu
lộc, cầu tình duyên, xin bùa chú chữa
bệnh đã như một bằng chứng cho thấy sự
phát triển "âm thầm" của đạo phái phù
thuỷ. Như vậy, trong dân gian Đạo giáo
phù thuỷ vân thịnh hành. Cho tới thời
kháng chiến chống pháp, nhiều lãnh tụ
khởi nghĩa như thủ lĩnh Mạc Đình Phúc
ở Nam Định đã sử dụng "vũ khí" ma
thuật của Đạo giáo phù thuỷ để kêu gọi
và tập hợp quần chúng '”.
Đồng thời, sự xuất hiện tục thờ thần
thành hoàng làng (có thể từ thế kỉ XV,
theo kết quả nghiên cứu về thần tích của
Nguyễn Duy Hinh)'”- là một hình thức
"thần hoá" sức mạnh tự nhiên, những
ngươi có công lao dựng nước và giữ nước
trở thành các thần có khả năng diệt trừ
ma quỷ, bảo trợ cộng đồng, cũng phản
ánh sự ảnh hưởng theo tỉnh thần Đạo
giáo phù thuỷ.
Nội Đạo Tràng (trường Nội Đạo, theo
phái phù thuỷ) do Trần Toàn sáng lập tại
Thanh Hoá vào thế kỉ XVII cũng được
xem như một minh chứng cho sự bản địa
hoá Đạo giáo phù thuỷ ở Đại Việt. Theo
truyền thuyết, ông được Sư Phật truyền
đạo và trở thành một đạo sĩ rất nổi tiếng
với hàng vạn môn đồ, ông có khả năng
diệt trừ ma quý, trợ giúp dân làm ruộng
và đi biển. Với công lao chữa bệnh mọc
lông cọp cho vua Lê Thần Tông nên tên
gọi trương đạo này được vua đặt cho. Nội
Đạo Tràng không chỉ phát triển ở vùng
Thanh Hoá, Nghệ An mà còn lan rộng ra
ở hầu hết các tỉnh châu thổ sông Hồng,
đặc biệt là ở Hải Dương với trung tâm
Nhật Tảo và ở Hưng Yên với trung tâm
Huệ Lai, hay ở làng Giảng Võ - Hà Nội'!
và tồn tại cũng khá dài...
Đạo giáo Thần tiên (nội tu - nội đan;
ngoại dưỡng - ngoại đan) không mấy
phát triển ở Việt Nam, nhất là nhánh
ngoại dưỡng (luyện đan), nhánh này chỉ
phổ biến trong tầng lớp quan lại, quý tộc
hoàng gia, ví dụ, vào đời Trần có vua
Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu Phật
và tu tiên (luyện đan) dấu tích còn lại tới
ngày nay là am sách đạo và am chứa
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
14]
được liệu dùng để luyện thuốc trương
sinh. Hay dưới triều Lê, có Tiến sĩ -
Quận công Nguyễn Hoàn (Thượng sư) đã
dựng gác 13 tầng làm nơi tu đạo, nơi ông
có thể "hóp bóng mặt trời, mặt trăng mà
luyện khí. luyện thần"; thời Nguyễn Huệ
có nhà nho nổi tiếng Nguyễn Thiếp đã
từng luyện thuốc trường sinh”... Nhánh
"nội tu" có lẽ phổ biến hơn, tuy nhiên, sự
phức tạp và khó khăn trong những quy
tắc mà nó để ra như cách luyện khí,
dưỡng thần. phép tịch cốc đã làm cho
những người muốn theo nó cảm thấy khó
thực hiện. Do vậy, họ đã đưa ước mơ của
mình vào những truyền thuyết, những
sáng tạo văn học. Đó là truyện về đạo sĩ
Pham Viên dưới thời vua Lê Thần Tông,
quê ở Nghệ An đã tu luyện đắc đạo, có
phép biến hoá thần thông, ông có những
đồng xu "thần" giúp bà dì sống được trọn
đời; truyện Lộc Giác chân nhân (ở Cao
Bàng) đã biến mình thành con hươu để
. truyện Từ Thức gặp
Hiên (dưới triều vua Trần Thuận Tông
l
-., ^ “ ]
lày sừng cứu mẹ
12388 - 1398), giấc mơ này còn được vật
thê hoá với địa danh hang Từ Thức ở Nga
(Thanh Hóa); hay truyện
Thánh Tông (1460 - 1497), một ông vua
Đơn vua Lê
hoàn toàn theo tư tưởng Nho giáo đã gặp
Tiên và cho xây "Vọng Tiên lâu" (thuộc khu
vực Cửa Nam - Hà Nội. nay không còn);
truyện Tú Uyên gặp Giáng Kiều (cũng đời
Lê Thánh Tông) với dấu tích đến Bích Câu
đạo quản còn tới ngày nay ở phố Cát Linh
(Hà Nội)'” tất cä đã phần ánh ước mơ tu
tiên của tầng lớp quý tộc Đại Việt.
Giống Trung Hoa, thần điện Đạo giáo
ở Việt Nam cũng thiếu tập trung và
thống nhất. Tư liệu còn lại cho biết việc
vua Lý Thần Tông cho dựng tượng Tam
Thanh (băng vàng. là Thượng Thanh,
Ngọc Thanh, và Thái Thanh) ö Ngũ Nhạc
quán trong kinh thành Thăng Long'” và
việc thờ Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan
Thánh đế (Quan Công) cho thấy thần
điện Đạo giáo ở Việt Nam thời kì đầu có
lẽ chỉ đơn giản như vậy. Dưới các triều
đại Lê - Nguyễn, thần điện Đạo giáo có
thêm Đức Thánh Trần, chúa Liễu Hạnh,
Bành (Tam Danh), Độc Cước và
Huyền Đàn, Năm Dinh (Ngũ Dinh quan
lớn, Ngũ hổ) và Quan lớn Tuần Tranh””.
Tam
Nhưng trong các đạo quán ở các địa
phương, thần điện không phải lúc nào
cũng có đầy đủ các vị thần trên và sự bố
trí hoặc "chọn" thần để thờ thường khác
nhau.
Cùng với việc thờ cúng những vị thần
Đạo giáo có nguồn gốc Trung Hoa, người
Việt còn lớn lượt sáng tạo những ông
thánh, ông tổ riêng của mình để thờ cúng,
để trừ tà diệt quỷ, mà phần lớn hay hầu
hết là các thánh các tổ đều có công giúp
nước đánh giặc” như Trần Hưng Đạo,
thánh mẫu Liễu Hạnh, hoặc là những
tiền hiển khai khẩn đất đai. mở mang
nghề nghiệp nhự Chử Đồng Tử, họ đã
được thờ như các thần Đạo giáo và còn là
thần thành hoàng của nhiều làng ở vùng
châu thổ sông Hồng... Trong dân gian,
truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung
và việc phụng thờ cặp vợ chồng huyền
thoại này có thể được xem như một cứ
liệu lịch sử cho thấy ảnh hưởng của Đạo
giáo Trung Quốc tới tín ngưỡng dân gian
người Việt như thế nào. Đây cũng là một
đặc điểm Đạo giáo ở người Việt (phân
biệt với Đạo giáo tồn tại trong các cộng
đồng dân tộc ít người ở phía bắc Việt
Nam) với cách "tạo thần" từ sự kết hợp
những yếu tố của cả ba tôn giáo Đạo -
Phật - Nho với tín ngưỡng thờ thần bản
địa. Phải chăng đó chính là Đạo giáo dân
gian Việt Nam.
29
ĐỒ LAN PHƯƠNG
2, Biểu tượng Chử Đồng Tử và
danh phong "Chử Đạo tổ"
32.1. Chử Đồng Tử - một biếu tượng
uăn hoá của người Việt
Chứử Đồng Tử hay Chủ Đồng Tử -
Tiên Dung là một truyền thuyết về mối
tình "thiên định” giữa một chàng trai
đánh cá nghèo ven sông với nàng công
chúa Tiên Dung, con gái thứ hai của vua
Hùng thứ III (hoặc thứ XVIII'). Có lẽ
trong tất cả các truyền thuyết, thần tích
về các thần linh của người Việt, chưa có
truyền thuyết nào lại thấm đầm chất
lãng mạn đến vậy.
Với nhân sinh quan, thế giới quan
của thời huyền thoại, người Việt đã sáng
tạo những hình ảnh vừa thực vừa ảo
(người trần với việc tiên) mang đậm màu
sắc Đạo giáo huyền bí, làm nên một
truyền thuyết đầy những tình tiết hấp
dân. Truyền thuyết lần lượt cho ta những
hình ảnh thơ mộng về sự gặp gỡ "kì lạ"
giữa nàng tiên trên núi (Tiên Dung,
người con gái có vẻ đẹp như tiên) với
chàng đánh cá nghèo Chử Đồng Tử ở bến
sông Chử Xá, một vùng đất trũng ở hạ
lưu sông Hồng. Truyền thuyết cũng cho
ta những hình ảnh sinh động về cuộc
sông vất và nhưng ấm áp tình người của
cặp vợ chồng không môn đăng hộ đối này.
Cùng khai phá đất mới và mở mang nghề
nghiệp (trồng lúa, nuôi tằm dệt vải, buôn
bán...), Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã
trưởng thành và được Phật Quang truyền
phép cải tử hoàn sinh để giúp dân chống
lại bệnh tật, đói nghèo. Khi đắc đạo (về
trời) họ tiếp tục giúp vua (móng rồng)
đẹp giặc, v.v...
Truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên
Dung được sưu tầm sớm nhất vào thế kỉ
XV (qua sách lĩnh Nam chích quát của
Vũ Quỳnh và Kiều Phú). Dưới hình thức
truyền miệng, chắc chắn truyền thuyết có
sớm hơn nhiều và nội dung chưa hoàn
chỉnh như vậy. Truyền thuyết viết ra đơi
là sự công nhận quá trình "sáng tạo” (các
lớp tích truyện) của nhân dân để hình
tượng tín ngưỡng chung này phù hợp với
ước nguyện của một vùng dân cư rộng lớn
nhưng vẫn phản ánh được sắc thái tỉnh
thần của các địa phương. Đó cũng là thời
điểm hoàn tất quá trình khai phá vùng
trung châu thổ sông Hồng của các cư dân
thời Hùng Vương và hậu duệ của họ từ
khoảng vài thế kỉ tr.CN (thời kì QIV3 =
Holoxen muộn = 4000 - 2000 tr.CN) đến
thế kỉ XV “'. Truyền thuyết ấy là để ngợi
ca những con người như Chử Đồng Tử -
một tên danh xưng chỉ những con người
mới đến sinh sống ở vùng bến sông (theo
tiếng Việt cổ "Chử " là " bến sông", còn
"Đồng Tủ" là "người trẻ tuổi" - người mới
đến) đã khai phá và biến vùng lầy trũng
dọc sông Hồng thành đồng ruộng, họ đã
chỉnh phục vùng cửa sông - biển, thành
lập thương cảng Phố Hiến sầm uất một
thời (trong thế kỉ XVI- XVII).
Theo thống kê (có lẽ còn chưa đủ) đến
năm 1998, có 68 làng thờ Chử Đồng Tủ ở
khắp các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Hà
Tây, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình”,
nhưng việc thờ phụng Chử Đồng Tử tập
trung nhất ở tỉnh Hưng Yên: 49 làng,
trong đó trung tâm thờ tự nằm ở làng
Vĩnh (Dạ Trạch - Khoái Châu) và làng
Đa Hoà (Bình Minh - Khoái Châu). Ngoài
ra, thánh Chử còn được thờ ở nơi sinh là
làng Chử Xá thuộc xã Văn Đức (Gia Lâm
- Hà Nội) trước đây cũng thuộc đất Hưng
Yên. Thần điện và lễ hội về các vị thánh
được thờ ở những di tích này đã phản ánh
đời sống văn hoá tỉnh thần của cư dân
trong vùng, cũng như môi trường cảnh
quan của vùng đất và phương thức kinh
tế mà cư dân ở đây chọn để sinh tồn.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
23
Ở những nơi thờ tự chính này, các
nghiên cứu cho thấy: những cư dân vùng
đầm lấy ven sông trước khi tôn vinh
thánh Chử làm thành hoàng, họ đã có tục
thờ cá, thờ thuỷ thân ””. Đó là sự phối thờ
thánh Chử với Càn Hải Đại Vương Tứ Vị
Thánh Nương - một hình thức thở cá của
ngư dân ven biển ở đình Chử Xá (Hà
Nội), với Bế Ngư Thần Quan (thần cá
chép) tại đền Dạ Trạch (Hưng Yên), cùng
thánh Dí (Lý - thần cá chép) tại đền Đa
Hoà (Hưng Yên) và thờ cúng Hà Bá ở khu
đến Hạ - Tự Nhiên (Hà Tây). Dù biết
huyền thoại, thần thoại, hay cổ tích đều
không phải là những cứ liệu lịch sử,
nhưng chúng ta phải thừa nhận đó là
một phương tiện cảm thụ, nhận thức của
người xưa (khi chưa có các tri thức khoa
học) về thế giới và cuộc sống quanh họ.
Họ đã sử dụng phương tiện đó kết hợp với
những sự việc có thực diễn ra trong cuộc
sống để "sáng tạo" những truyền thuyết
truyền miệng (sau được sưu tầm lại) kế
lại cho hậu thế về lịch sử phát triển của
cộng đồng. Như vậy, ít nhiều các truyền
thuyết đó cũng có giá trị lịch sử (mặc dù
mang tính phi thơi gian). Bên cạnh các
cứ liệu văn học dân gian ấy (cố tích,
truyền thuyết...), chúng ta còn có thể tìm
thấy các cứ liệu điền đã khác như sự bố
trí thần điện, các lễ thức, lễ vật (cúng cá,
tước tượng cá, thị bơi chai...) trong sinh
hoạt lễ hội thờ cúng thánh Chử, tư liệu
thực tế về tàn dư của kinh tế ngư nghiệp
còn hiện hữu trong đời sống đương đại
của cư dân trong vùng, các dấu vết của
cảnh quan môi trường cũ... đã cho thấy
vùng đất thờ phụng Chử Đồng Tử là dải
đất lầy trũng ven sông, là vùng cửa sông
- biển. và cư đân ở đây đã từng sinh sống
bằng nghề đánh cá. Điều đó cũng cho
thấy ngư nghiệp đã theo họ và con châu
họ suốt nhiều thế kỉ chỉnh phục và cải
tạo dải đất ven sông ấy thành một vùng
đồng ruộng rộng lớn, cũng như vai trò
của những chàng đánh cá Chử Đồng Tử
trong công cuộc khai phá này.
Cuộc hôn nhân truyền thuyết Tiên
Dung - Chử Đồng Tử đã như một ảnh xạ
về cuộc di dân của cộng đồng người Việt
từ vùng đồng bằng cao (quê Tiên Dung là
Phú Thọ) xuống vùng đồng bằng thấp
(Chử Đồng Tử sống ở dải đất hạ lưu sông
Hồng) để khai thác đất mới. Sử sách đã
viết về các trận thuỷ chiến diễn ra trên
các bến sông, cửa biển như Đằng Châu,
Chương Dương, Tây Kết, Hàm Tử của
vùng đất này suốt các thời Ngô, Đinh,
Tiền Lê, Lý, Trần đã làm rõ hơn lịch sử
phát triển vùng đất mà truyền thuyết đã
phản ánh bằng một ngôn ngữ riêng. Lợi
thế của vùng sông nước đã được người
dân ở đây khai thác để gây dựng nên
những bến chợ như Hà Lương, Mạn Trù
làm nơi trao đổi nông sản, phát triển
kinh tế - xã hội của cả vùng. Trong công
việc này, những ngư dân như Chử Đồng
Tử đã đóng vai trò chính khi những kinh
nghiệm sông nước và chiếc thuyền của họ
trở thành một nguồn thương vốn. Họ đã
đóng góp những kinh nghiệm đó cho phát
triển giao thông đường thuỷ và cho sự ra
đời Phố Hiến (Hưng Yên),
thương cảng sầm uất nhất của phía bắc
Đại Việt thế kỉ XVI - XVII. Phố Hiến đã
là cầu nối trong giao lưu và phát triển
kinh tế - văn hoá giữa kinh thành Thăng
Long với các vùng của Đại Việt cũng như
với nước ngoài: Trung Quốc, Nhật Bản,
Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan... Công lao đó
đã được con cháu họ tôn vinh, "Người trẻ
tuổi ở bến sông" hay "Chử Đồng Tử" đã đi
vào truyền thuyết và trở thành thần
của một
thành hoàng của dải đất ven hai bở sông
Hồng từ Gia Lâm (Hà Nội) đến Khoái
Châu (Hưng Yên), Thường Tín (Hà Tây).
ĐỒ LAN PHƯƠNG
Nếu dưa khái niệm mà nhà nghiên
cứu văn hoá Việt Nam Đoàn Văn Chúc đã
dùng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình
anh, bằng con uật sống động hay bằng đồ
bật, nó biêu hiện một điều trừu tượng, nó
là hình anh cụ thê của một sự hay mội
điều gi đó"”' để soi rọi vào hành trình
cuộc sống của cặp vợ chồng truyền thuyết
Chử Đồng Tử - Tiên Dung, ta sẽ thấy một
hình ảnh khá thực về một giai đoạn lịch
sử của vùng châu thổ sông Hồng dù nó có
bị đấu che trong bức màn huyền thoại hư
ao. Nhân vật trong truyển thuyết không
chỉ là thân thành hoàng của nhiều làng
Việt mà còn trở thành biểu tượng văn
hoá của người Việt ở vùng đất này.
3.2. Chử Đồng Tủ - Chử Đạo Tổ
Khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt
Nam cũng như nghiên cứu đời sống văn
hoá - tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt,
các nhà nghiên cứu như Trần Văn Giàu,
Nguyên Đăng Thục, Nguyễn Duy Hinh,
Ngô Đức Thịnh, Bùi Văn Nguyên, Trần
Ngọc Thêm, v.v... đều để cập tới việc Chử
Đồng Tử được phong là Chử Đạo Tổ. Vậy
thì, Nội Đạo Tràng - hình thức Đạo Giáo
Việt Nam, do đạo sĩ Trần Toàn sáng lập
(thế kỉ XVII) ở Thanh Hoá đã từng gây
anh hưởng và phát triển ra nhiều tỉnh
đồng bằng châu thổ sông Hồng (đã trình
bày trong phần Nội Đạo Tràng) là như
thể nào.
Vào cuối đời Lê, chế độ phong kiến
tập quyển theo giáo lí Nho gia cùng việc
duy trì chính sách quân điển không còn
mang yếu tố tích cực như ban đầu. sự suy
yêu của triều đình, sự tham nhũng của
quan lại đã gây nên tình trạng đân bị
mất đất, phân hoá giàu nghèo diễn ra
mạnh mẽ trong xã hội, các cuộc khởi
nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, trở
thành nội chiến, kéo dài suốt 10 năm
(1511 - 1521) đã làm cho kinh tế đất nước
kiệt quệ. Triều Mạc lên thay thế (1527 -
1599) cũng không làm cho đất nước được
thống nhất, kinh tế đất nước chưa kịp ổn
định thì lại diễn ra sự tranh quyển giữa
hai tập quyền phong kiến Mạc - Trịnh
gây nên tình trạng Nam - Bắc triều: họ
Mạc cai quản vùng đất từ Thanh Hoá trở
ra, họ Trịnh kiểm soát đất từ Thanh Hoá
vào, cản trở sự phát triển kinh tế quốc
gia suốt thế kỉ XVỊ. Đến năm 1592, tập
đoàn họ Trịnh thắng thế và chiếm cứ
được toàn bộ đất Bắc, lập lại nhà Lê gọi
là Lê trung hưng nhưng thực tế nhà Lê
chỉ là bù nhìn (theo giám sát của chúa
Trịnh). Đời sống xã hội lúc này không ổn
định, nhân dân không còn tin vào những
tín điều của Nho giáo: trung, lễ, nghĩa,
trí, tín trong một xã hội mà bọn địa chủ
và quan lại tham nhũng, người lao động
bị bóc lột nặng, do đó, Phật giáo và Đạo
giáo bị hạn chế trong thế kỉ XV đã phục
hồi ””.
Tuy trong giai đoạn này có xuất hiện
sự phát triển kinh tế hàng hoá, nổi lên sự
phồôn thịnh của các thành thị ở Đại Việt,
phía bắc có Thăng Long với Phố Hiến,
phía nam có Hội An... làm cho kinh tế đất
nước được khôi phục một bước, nhưng hệ
tư tưởng Nho giáo mà triều đình sử dụng
làm kỉ cương đất nước không phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế lúc đó, kìm
hãm sự phát triển, đói nghèo và nổi loạn
vẫn xảy ra khắp nơi. Đất nước sau thời kì
nội chiến tranh giành quyền lực Lê - Mạc
- Trịnh - Lê chưa kịp hưng thịnh trở lại
đã tiếp tục phải chịu cảnh loạn lạc, mất
ruộng đất, li tán và không nghề nghiệp,
mất niềm tin ở chính quyền, sự khủng
hoảng tư tưởng đã làm cho người dân tìm
đến sự cứu cánh ở tôn giáo, tín ngưỡng.
Họ cầu cúng các thần linh mong có được
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
sự che chở. Với Phật giáo, giáo lí tu tâm
để lên cõi Niết bàn hư vô đã không thể
thu hút mạnh mẽ các tầng lớp xã hội
muốn giải quyết các vấn để đói nghèo,
bệnh tật ở hiện tại. Họ đã tìm đến với
những bùa phép, cúng bái ám thị để
'được” thoát khỏi hoàn cảnh của mình.
Œó lẽ chính vì thế mà trường phái Nội
Đạo đã ra đời. Tài liệu nói về Đạo giáo
Việt Nam sau thể kỉ XVII (sau khi Nội
Đạo Tràng ra đời) còn lại rất ít, chúng chỉ
sho biết là phái Nội Đạo sau đó cũng tan
vỡ. chỉ còn lại các "mảnh vỡ" của nó được
duy trì qua hoạt động của một vài thày
súng - thày phù thuy. Tuy nhiên. họ cũng
đã ít nhiều gây ảnh hưởng tới xã hội khi
dùng ngọn cơ Đạo giáo để tập hợp quần
chúng nổi dậy dánh Pháp thế kỉ XIX
(như đã trình bày cuối phần 1).
Giáo phái phù thủy mà Nội Đạo
Tràng theo đã không đáp ứng cho nhu
cầu tỉnh thần của mọi tầng lớp nhân dân
lúc đó, không chỉ là những ngươi dân
nghèo mà cä tầng lớp nho quan thất thế
hoặc bất mãn triều đình, từ quan VỀ quê
tìm thú vui trong việc dạy chữ, chữa
bệnh... hay ở ẩn. Họ thấy hình thức tu
tiên phù hợp với hoàn cảnh ở ân của
mình hơn (các quan lại vừa theo Nho vừa
theo Đạo tu tiên - chủ yếu là theo cách
luyện khí dưỡng thần - nuôi dưỡng tỉnh
thần khoẻ mạnh, chứ không theo phái
luyện đan). Hơn thế nữa, tư tưởng yếm
thế của Đạo giáo thể hiện rõ nhất trong
hành vi ở ẩn thực chất là hành động
chống chiến tranh, phản kháng xã hội
(nhưng không tích cực) rất phù hợp với
những ai muốn chống chiến tranh, loạn
lac lúc đó. Tỉnh thần ấy họ có thể tìm
thấy ở nhân vật truyền thuyết Chử Đồng
Tử (hai vợ chồng quyết không dùng vũ
25
lực để đánh lại quân triểu đình mà "bay
VỀ trời"...).
Với tầng lớp bình dân, hình ảnh về
một thời quá khứ huy hoàng của những
ngư dân tự do, giỏi giang như Chử Đồng
Tử, đã từng dọc ngang trên các tuyến
đường thuỷ của vùng châu thổ hạ lưu
sông Hồng để phát triển ngoại thương,
công lao của chàng được đưa vào truyền
thuyết, được phong thần thành hoàng
làng và được thờ ở khắp tỉnh Hưng Yên.
Khi so sánh công trạng của Ngài với các
vị thần linh khác ở trong vùng châu thổ
hạ lưu sông Hồng ”” (theo thần tích là các
thuỷ thần, tướng sĩ, quan lại các triều từ
Hùng Vương đến Trần), ta thấy thần tích
về thánh Chử chuyển tải được bao quát
và đầy đủ hơn diện mạo phát triển của
vùng đất trong một giai đoạn lịch sử có
nhiều biến động. Hơn nữa Chử Đồng Tử
và cuộc sống của vợ chồng Ngài còn như
một biểu tượng cho sự hoà bình và ổn
định. cho sự thịnh vượng của đất nước -
một nhu cầu mong đợi của mọi tầng lớp
nhân dân Đàng ngoài thế kỉ XVII- XVIH,
cũng như cho sự dung hoà tư tưởng của
cả Nho - Phật - Đạo lúc này. Do vậy,
Thánh Chử đã được tôn phong là Chử
Đạo Tổ - ông tổ của các thần tiên Việt
Nam, nhưng tính chất "thần tiên" hay
tỉnh thần bất tử trong biểu tượng này
luôn là tỉnh thần lớn nhất của Đạo giáo.
Cũng vì vậy mà Chử Đạo Tổ có thể được
xem như một biểu hiện của Đạo giáo dân
gian Việt Nam.
Kết luận
Đạo giáo Trung quốc du nhập vào
Việt Nam với cả hai giáo phái Phù thuy
và Tu tiên nhưng phái Phù thuỷ đã phát
triển nổi trội hơn vì tìm được sự tương
26
ĐỒ LAN PHƯƠNG
đồng trong môi trường tồn tại với các
hình thức phương thuật. Nhưng với
những đặc trưng riêng của quá trình
khai phá đất đai và phát triển cộng đồng
và các tục thờ thần trong dân gian, Đạo
giáo Trung Quốc đã được cư dân Việt bản
địa hoá để hình thành nên Đạo giáo dân
gian Việt Nam. Với tỉnh thần đó, cư dân
Việt đã "tạo" thêm những vị thần trong
thần điện Đạo giáo của mình như các
thân Độc Cước, Tam Bành, Huyền Đàn,
Năm Dinh (Ngũ Dinh quan lón, Ngũ Hồi),
Trần Hưng Đạo, Liễu Hạnh, Chử Đồng
Tử, và cùng với sự ra đời của Nội Đạo
Tràng.
Qua nghiên cứu ý nghĩa truyền
thuyết Chử Đồng Tử và các sinh hoạt văn
hoá liên quan, chúng ta thấy ở đây sự
anh hưởng lớn của Đạo giáo, như luyện
phép thuật thần tiên, ước nguyện xoá đói
nghèo, bệnh tật bằng chiếc gậy thần,
bằng các phép ma thuật bùa chú, bảo vệ
cộng đồng bằng "vũ khí" thần (móng
rồng)... Thánh Chử được xem như một vị
thân Đạo giáo Việt Nam. Tuy chỉ trên
danh nghĩa và không có các thực hành
của nghi lễ Đạo giáo nhưng sự sáng tạo
biểu tượng Chử Đồng Tử của người Việt
đã phan ánh sự dung hoà tư tưởng của
Nho - Phật - Đạo (tỉnh thần hiếu nghĩa,
trung quân, sự bác ái, bao dung, tu luyện
đắc đạo; cả hai phái thần tiên và phù
thuy) với tín ngưỡng thờ thần trong dân
gian. Sự hoà hợp ấy là một đặc trưng của
Đạo giáo dân gian Việt Nam. Vì vậy,
thánh Chử đã được phong là Chử Đạo Tổ
- ông tổ của các thần tiên Việt Nam và
ước nguyện trở thành thần tiên luôn là
tỉnh thần lớn nhất của Đạo giáo.
1). 1.E
_ CHÚ THÍCH VÀ „
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần
nghiên cứu uăn hoá Việt Nam, (Trần Đỉnh. Đỗ
Trong Quang và Phạm Thuy Ba dịch; Hà Văn
Tấn và Diệu Bình hiệu đính), tập I- II, Nxb.
IEH2H.,, H.
(2) Nguyễn Đăng thục (1964), Tư tưởng
Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, Tr.
149.
(5) Ngõ Đức Thịnh (2000), "Phụng thở
Chử Đồng Tử trong biểu tượng Tứ bất tử",
Chử Đồng Tử - Tiên Dung (Rỉ yếu hội thảo),
Sơ VHTT Hưng Yên, Tr. 97.
(4) Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm uề bản
sắc uăn hoá Việt Nam. Nxb Tổng hợp Tp. Hồ
Chí Minh, Tr. 542.
(5) Henri Maspero, Đạo giúo 0à các tôn
giáo Trung Quốc, Lê Diên (dịch, 2000), Nxb.
KHXH, Hà Nội, Tr. 71.
(6) Đạo giáo uà các tôn giáo Trung Quốc,
Đđd, Tr. 69.
(7) Vương Khả (3000), "Sơ lược về Đạo
giáo ở Việt Nam", Đạo gia uà uăn hoá (kỉ yếu
hội thảo), Đại học Sư phạm, Trung tâm Trung
Quốc học, Nxb. Văn học, H., Tr. 353 - 355.
(8) Vũ Quỳnh - Kiểu Phú, Lĩnh Nam
chích quái, Đình Gia Khánh (chủ biên),
Nguyễn Ngọc San (biên khảo và giới thiệu,
1990), Nxh. Văn học, H., Tr. 4B - B1, 63 - 65,
75 - B2, 85 - 9ã.
(9) Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo
Uới uăn hoá, Nxb. H., Tr. 61.
(10) Đạo giáo uớt uăn hoa Việt Nam,
Tr. 62 - 64.
(11) Đạo giáo uới uăn hoá Việt Nam,
Tr. 66 - 68.
(12) Đạo giúo uới uăn hoa Việt Nam.
TẾ. LÚT.
(13) Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng
thành hoàng Việt Nam, Nxb. KHXH., H., Tr.
320 - 412.
(14) Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam
từ thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám (tập
1), Sđd., Tr. 467.
dd,
dd,
dd,
(Xem tiếp trang 13)
15
ĐẠO GIÁO DÂN GIAN VIỆT NAM...
(Tiếp theo trang 36)
(15) Trần Văn Giàu (1973), Sự phát
triển của tư tưởng Việt Nam từ thế bì XIX
đến Cách mạng tháng Tám (tập 1), Nxb.
E.EHIÁH., H., TY. 405.
(16) Đạo giáo uới uăn hoa Việt Nam,
Sdd, Tr. 95- 106.
(17) Đạo giáo uới uăn hoá Việt Nam,
Đdd, Tr. 77- 90.
(18) "Sơ lược về Đạo giáo ở Việt Nam",
Tỉd.,, Tr. 36838.
(198) Sự phát triển của tư tưởng Việt
Nam từ thế bú XIX đến Cách mạng tháng
Tám (tập 1), Sđd., Tr. 461.
(20) Sự phát triển của tư tưởng Việt
Nam từ thế hỉ XIX đến Cách mạng tháng
Tám (tập 1), Sảd., Tr. 468.
(21) Vũ Tự lập (chủ biên, 1998), Văn
hoá uà cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb.
EK]HXH.,H, Tr. 140.
(23) Đỗ Lan Phương (1998), Việc phụng
thờ Chử Đồng Tử ở Chử Xá, Luận văn Thạc
sĩ, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian, Hà
Nội, Tr. 123- 126 (phụ lục).
(23) Việc phụng thờ Chử Đồng Tử ở chứ
Xa, Sdd, chương ÍÏT.
(24) Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hodá
học, Nxb. VHTT, H., Tr. 78 (dẫn theo tác
giả, của Petit Larouse, 1981).
(25) Uỷ ban KHXH (1971), Lịch sử Việt
Nam (tập 1), Nxb. KHXH.,H., Tr. 292- 304.
(26) Vũ Thanh Sơn, (2009), Thần linh
đất Việt, Nxb. VHDT, H.