intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo cử nhân du lịch tại Đại học Thăng Long – Những mục tiêu thực tế

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

90
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc mở ngành đào tạo du lịch của Đại học Thăng Long vào thời điểm hiện nay tuy có muộn so với các trường, các trung tâm đào tạo khác, song xét về bối cảnh thực tế, việc mở đào tạo ngành du lịch vào lúc này lại gần như khá đúng lúc, bởi vì đây đang là “thời điểm bước ngoặt” quan trọng của ngành du lịch Việt Nam – bước ngoặt từ phát triển rộng sang phát triển chuyên nghiệp, có chiều sâu. Mời các bạn cùng tìm hiểu vấn đề này qua bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo cử nhân du lịch tại Đại học Thăng Long – Những mục tiêu thực tế

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br /> <br /> ĐÀO TẠO CỬ NHÂN DU LỊCH TẠI ĐẠI HỌC THĂNG LONG<br /> – NHỮNG MỤC TIÊU THỰC TẾ<br /> TS. Nguyễn Văn Bình<br /> Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Thăng Long<br /> Tóm tắt: Ngày 09 tháng 7 năm 2015, Bộ GD& ĐT đã ban hành Quyết định<br /> số2414/QĐ-BGDĐT cho phép Trường Đại học Thăng Long đào tạo trình độ đại học hệ chính<br /> quy ngành Quản trị dịch vụ du lịch - Lữ hành, mã số 52340103. Như vậy sau 27 năm thành<br /> lập, xây dựng và phát triển, trường Đại học Thăng Long đã tiến thêm một bước, mở rộng quy<br /> mô đào tạo bằng việc mở thêm một ngành đào tạo mới. Việc mở ngành đào tạo du lịch của<br /> Đại học Thăng Long vào thời điểm hiện nay tuy có muộn so với các trường, các trung tâm<br /> đào tạo khác, song xét về bối cảnh thực tế, việc mở đào tạo ngành du lịch vào lúc này lại gần<br /> như khá đúng lúc, bởi vì đây đang là “thời điểm bước ngoặt” quan trọng của ngành du lịch<br /> Việt Nam – bước ngoặt từ phát triển rộng sang phát triển chuyên nghiệp, có chiều sâu. Trong<br /> bối cảnh như thế, việc định hướng đào tạo của Đại học Thăng Long cần có những mục tiêu<br /> hết sức thực tế.<br /> Từ khóa: đào tạo cử nhân du lịch, đại học thăng long, mục tiêu đào tạo, nguồn nhân<br /> lực ngành du lịch, quản trị dịch vụ du lịch - lữ hành.<br /> 1. Bối cảnh<br /> Như chúng ta đã biết, du lịch là một ngành kinh tế đặc thù và mặc dù thời gian qua<br /> luôn chịu nhiều tác động trước những biến động về kinh tế, bất ổn về chính trị, song vẫn<br /> không ngừng phát triển. Báo cáo của Tổ chức du lịch thế giới cho thấy mức tăng trưởng lượt<br /> khách du lịch trên thế giới dù có biến động, nhưng luôn có chỉ số tăng trưởng dương trong 2<br /> năm gần đây, ngoại trừ khu vực Trung tâm củaTây Âu và Trung Đông là những nơi có khủng<br /> hoảng chính trị lớn xảy ra.<br /> Biểu đồ 1: Tỷ lệ tăng trưởng khách quốc tế các khu vực trên toàn cầu đến 2014<br /> <br /> Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới<br /> Thu nhập từ du lịch cũng cho thấy xu hướng gia tăng ngày càng lớn. Nếu năm 2000,<br /> thu nhập từ du lịch thế giới mới đạt 494 tỷ USD, thì đến năm 2014, con số đó đã là 1.245 tỷ.<br /> Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), tổng số đóng góp của Du lịch cho nền kinh tế đã<br /> đạt khoảng 9,5% GDP toàn cầu.<br /> Trư ng Đ i h c Thăng Long<br /> <br /> 237<br /> <br /> K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br /> <br /> Biểu đồ 2:Thu nhập từ du lịch quốc tế toàn cầu(đơn vị tỷ USD)<br /> <br /> Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới<br /> Điều đáng nói là trong sự phát triển mạnh mẽ đó, châu Âu và Đông Á – Thái Bình<br /> Dương là hai khu vực phát triển mạnh nhất. Hai sơ đồ dưới đây cho thấy rõ điều đó.<br /> Bảng1: Tỷ trọng lượt khách du lịch và thu nhập từ du lịch<br /> Lượt khách<br /> Khu vực<br /> <br /> (lượt<br /> khách/%)<br /> <br /> Thu<br /> nhập(tỷUSD/%)<br /> <br /> Thế giới<br /> <br /> 1.138/100<br /> <br /> 1.245<br /> <br /> Châu Âu<br /> <br /> 584/51<br /> <br /> 509/41<br /> <br /> Đông Á – Thái Bình Dương<br /> <br /> 263/23<br /> <br /> 377/30<br /> <br /> Châu Mỹ<br /> <br /> 182/16<br /> <br /> 274/22<br /> <br /> Châu Phi<br /> <br /> 56/5<br /> <br /> 36/3<br /> <br /> Trung Đông<br /> <br /> 50/4<br /> <br /> 49/4<br /> <br /> Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới<br /> <br /> Trư ng Đ i h c Thăng Long<br /> <br /> 238<br /> <br /> K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br /> <br /> Biểu đồ 3:Tương quan khách du lịchquốc tế năm 2014 (lượt khách & tỷ trọng %)<br /> <br /> Biểu đồ 4:Tương quan thu nhập từ du lịchquốc tế năm 2014<br /> (tỷ USD và tỷ trọng %)<br /> <br /> Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới<br /> Đối với Việt Nam, trong suốt hơn 2 thập kỷ qua, số lượng khách quốc tế đến du lịch<br /> Việt Nam tăng trưởng mạnh với tốc độ trung bình trên 12% mỗi năm (ngoại trừ suy giảm do<br /> dịch SARS 2003 (-8%) và suy thoái kinh tế thế giới 2009 (-11%). Nếu năm 1990 Việt Nam<br /> mới chỉ đón được 250.000 lượt khách quốc tế thì đến nay chúng ta đã đón được 8 triệu lượt<br /> khách quốc tế. Khách du lịch nội địa cũng tăng mạnh liên tục trong suốt giai đoạn vừa qua, từ<br /> 1 triệu lượt năm 1990 đến 2014 đạt con số 38 triệu lượt. Sự tăng trưởng không ngừng về<br /> khách đã thúc đẩy mở rộng quy mô hoạt động của ngành du lịch trên mọi lĩnh vực.<br /> Sự đóng góp của du lịch vào nền kinh tế nước ta giai đoạn vừa qua rất đáng khích lệ.<br /> Tổng thu trực tiếp từ khách du lịch năm 2014 đạt 230 nghìn tỷ đồng (tương đương 11,5 tỷ<br /> USD), chiếm khoảng 6% GDP, tăng trung bình hơn hai con số (đạt bình quân 18,7%/năm).<br /> Xét về cơ cấu doanh thu ngoại tệ trong xuất khẩu dịch vụ, doanh thu của ngành du lịch<br /> chiếm trên 50% trong xuất khẩu dịch vụ của cả nước, đứng đầu về doanh thu ngoại tệ trong<br /> Trư ng Đ i h c Thăng Long<br /> <br /> 239<br /> <br /> K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br /> <br /> các loại hoạt động dịch vụ “xuất khẩu”, đồng thời có doanh thu ngoại tệ lớn, trên cả các ngành<br /> vận tải, bưu chính viễn thông và dịch vụ tài chính.<br /> Mặc dù vậy, nếu so sánh với khu vực và thế giới, Ngành du lịch Việt Nam vẫn còn ở<br /> vị trí chưa cao. Chúng ta nhớ rằng, từ sau khi Đảng và Nhà nước ta bắt đầu chính sách Đổi<br /> mới đầu thập niên 90, du lịch bắt đầu phát triển mạnh mẽ và đến giũa những năm 90, chúng ta<br /> đã vượt Phillipines để trở thành nước có nền kinh tế du lịch phát triển lớn thứ 5 trong khu vực<br /> Đông Nam Á, sau Thái Lan. Malaysia, Singapore và Indonesia. Nhưng từ đó đến nay, chúng<br /> ta vẫn dậm chân tại chỗ và các nước dẫn đầu tốp 5 đã dần bỏ xa chúng ta. Không những thế,<br /> có nguy cơ chúng ta bị chính đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Phillipines vượt qua, thậm chí một<br /> số nước trong tốp sau cũng có khả năng bắt kịp và vượt như Campuchia, Myanmar hoặc ngay<br /> cả Lào. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, ngành du lịch đang đối diện với những thách thức rất<br /> lớn trước thềm hội nhập cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015. Dự báo cạnh tranh giữa các<br /> điểm đến du lịch trong khu vực và trên thế giới ngày càng gay gắt. Để đảm bảo cho ngành du<br /> lịch có được năng lực cạnh tranh và bứt phá vượt lên, yếu tố quan trọng hàng đầu là nguồn<br /> nhân lực chất lượng cao. Vậy hãy xem thực trạng nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam ra<br /> sao.<br /> a) Về số lượng, hiện nay toàn ngành có trên 570.000 lao động trực tiếp trong tổng số<br /> 1,8 triệu lao động du lịch, chưa tính đến lao động liên quan và lao động không chính thức,<br /> chiếm 3,6% tổng lao động toàn quốc. Theo dự báo trong Chiến lược, đến năm 2015, du lịch<br /> Việt Nam cần 2,2 triệu lao động, trong đó 620 ngàn lao động trực tiếp; năm 2020 là trên 3<br /> triệu lao động, trong đó 870 ngàn lao động trực tiếp. Với nhu cầu như vậy, mỗi năm, hệ thống<br /> giáo dục và đào tạo chuyên ngành du lịch phải đáp ứng khoảng 30.000 người tốt nghiệp ở các<br /> trình độ khác nhau, trong khi đó, con số đào tạo nghề liên quan đến lĩnh vực này chỉ đạt<br /> khoảng 18.000 người.<br /> b) Về chất lượng, lao động trong ngành du lịch còn thấp và mất cân đối, với tỷ lệ:<br /> + Đại học và sau đại học: 7,4% tổng số lao động toàn ngành,<br /> + Trung cấp và sơ cấp:47,30% tổng số lao động toàn ngành,<br /> + Lao động quản lý: 1,9% so với 98,1% lao động hoạt động trong kinh doanh.<br /> (nguồn: Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,tầm nhìn 2030)<br /> Những thống kê trên đây mới chỉ thể hiện bức tranh bên ngoài của nguồn nhân lực du<br /> lịch Việt Nam. Trong thực tế, chất lượng thực của nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề đáng<br /> quan tâm hơn. Có nhiều ý kiến cho rằng, lao động ngành du lịch Việt Nam còn xa mới đạt<br /> chuẩn trong khu vực, đặc biệt là nguồn lao động chất lượng cao. Một hình ảnh thực tế là hầu<br /> hết các khách sạn cao cấp ở nước ta đều do chuyên gia nước ngoài quản lý.Ông Philip Jones Giám đốc khách sạn Movenpick Hà Nội - nhận định: “Ưu điểm của lao động ngành du lịch tại<br /> thị trường Việt Nam là tinh thần học hỏi và trau dồi kiến thức luôn ở mức cao. Tuy nhiên khả<br /> năng sử dụng ngoại ngữ hiện đang là rào cản và là một trong những hạn chế của lao động<br /> ngành này. Mỗi đợt tuyển dụng của chúng tôi thường thu hút rất nhiều hồ sơ tham gia nhưng<br /> chất lượng thường không đạt được yêu cầu. Hiện nay, tại Việt Nam cũng có rất nhiều cơ sở<br /> chuyên đào tạo nhân lực cho ngành du lịch nhưng những học viên sau khi tốt nghiệp vẫn thiếu<br /> những điều rất cơ bản đó là sự chuyên nghiệp, bài bản và khả năng ngoại ngữ”(trích nguồn:<br /> NCSEIF,Tác giả: La Hoàn (tổng hợp)<br /> Trư ng Đ i h c Thăng Long<br /> <br /> 240<br /> <br /> K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br /> <br /> Như vậy chúng ta đang đối diện với nguy cơ quản lý nguồn nhân lực du lịch sẽ thua<br /> ngay trên sân nhà, một khi Cộng đồng ASEAN sẽ đươc thành lập vào cuối năm nay. Sẽ không<br /> còn những hạn chế quốc gia đối với nguồn lao động này. Điều đó đồng nghĩa với việc người<br /> lao động của chúng ta và các nước ASEAN sẽ có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn những doanh<br /> nghiệp nào họ muốn ở bất cứ quốc gia nào trong cộng đồng ASEAN. Ở chiều ngược lại, các<br /> doanh nghiệp cũng làm điều tương tự.<br /> Đây rõ ràng là bài toán khó đối với việc đào tào nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao<br /> nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và cạnh tranh với các nước trong khu vực. Chúng ta không<br /> phủ nhận những đóng góp to lớn của các cơ sở đào tạo trong nước thời gian qua như đã nêu ở<br /> trên. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy những bất cập, hạn chế tồn tại. Việc đào tạo của<br /> chúng ta vẫn nặng về lý thuyết, ít thực hành. Vì vậy, mặc dù bản chất sinh viên Việt Nam rất<br /> thông minh, nhưng hiểu biết thực tế yếu, bên cạnh những điểm yếu cố hữu về khả năng giao<br /> tiếp, làm việc nhóm và khả năng ngoại ngữ.<br /> Phải chăng những yếu kém này của sinh viên có một phần nguyên nhân từ cách đào<br /> tạo của chúng ta. Chúng ta thường đặt ra những mục tiêu lớn lao, trong khi cách làm của<br /> chúng ta còn thiếu bài bản, chưa gắn kết chặt chẽ với thực tế.<br /> Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam cũng đã nhận định:Các cơ sở đào tạo hiện có<br /> từ dạy nghề đến Đại học trong nước chưa có được chương trình, giáo trình đào tạo thống nhất,<br /> nhiều cơ sở đào tạo còn nặng về lý thuyết. Nhiều cơ sở đào tạo còn chưa xây dựng được các<br /> chương trình đào tạo chuyên môn về khách sạn, nhà hàng ở trình độ Đại học chuyên ngành.<br /> “Chương trình, giáo trình và chuyên ngành đào tạo du lịch đang trong quá trình xây dựng và<br /> thống nhất.Chưa xây dựng được những tiêu chí cụ thể về chuyên môn làm căn cứ cho các cơ<br /> sở đào tạo xây dựng chương trình, giáo trình dẫn đến nội dung đào tạo của các cơ sở đào tạo<br /> không thống nhất, không có quy chuẩn tối thiểu về nội dung … Nhiều trường đào tạo du lịch<br /> vẫn còn tình trạng đào tạo lý thuyết là chính, phương tiện thực hành hạn chế”. (tr. 20)<br /> Trong bối cảnh đó, đào tạo nguồn nhân lực du lịch buộc phải điều chỉnh kịp thời các<br /> mục tiêu hết sức thực tế để bắt kịp tình hình.<br /> 2. Mục tiêu<br /> Với tình hình thực tế trên, đào tạo cử nhân du lịch của Đại học Thăng Long nên định<br /> hướng theo những mục tiêu thực tế sau:<br /> a) Đào tạo du lịch Thăng Long cần hướng đến mục tiêu cung cấp cho thị trường lao<br /> động du lịch những cử nhân vừa có năng lực quản trị, vừa có khả năng thực hành nghề. Nghĩa<br /> là sinh viên du lịch Thăng Long tốt nghiệp ra trường vừa có khả năng làm thầy, vừa có khả<br /> năng làm thợ. Lâu nay dường như chúng ta đã quen với quan niệm rằng, việc đao tạo “thợ” đã<br /> có các trường trung cấp hoặc các trung tâm dạy nghề đảm trách, còn các trường đại học thì<br /> phải chú trọng đến đào tạo các nhà quản trị với các kiến thức chung về lý thuyết là chính, việc<br /> thực hành nghiệp vụ có đưa vào chương trình cũng chỉ để mang tính minh họa cho những vấn<br /> đề lý thuyết mà thôi. Rất hiếm các trường đại học có các cơ sơ sở thực hành đi kèm. Quan<br /> niệm này cần phải thay đổi. Sinh viên ra trường nếu chỉ giỏi lý thuyết mà năng lực thực hành<br /> yếu, sẽ khó trở thành nhà quản lý giỏi.<br /> b) Mục tiêu thứ hai là: Sinh viên du lịch Thăng Long tốt nghiệp ra trường phải có<br /> khả năng hội nhập cao. Nghĩa là sinh viên phải sử dụng thành thạo được ít nhất một ngoại ngữ<br /> - quốc tế ngữ. Bên cạnh đó có khả năng sử dụng thanh thạo vi tính với kiến thức cập nhật mới<br /> Trư ng Đ i h c Thăng Long<br /> <br /> 241<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2