
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 1
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt nam
II. TIẾN TRÌNH CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
1. Chặng đường đến năm 2010
2. Chặng đường từ năm 2010 đến 2020
III. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CÁC NGÀNH, CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Chủ trương, biện pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn
2. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành công nghiệp
3. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành dịch vụ
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ RÚT
NGẮN VỚI TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 2
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
I.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản
xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học
của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh
nghiệm của thế giới và thời đại
Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện
đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản
vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là
công nghiệp hoá theo hướng hiện đại
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ:
“CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cuộc
cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế- xã
hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối
đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Tại Đại hội
này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Cùng với những thành tựu phát triển
quan trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ ràng hơn về chủ trương
đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 3
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế
tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có
nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng
có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể
được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được
thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và
có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ
công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước
đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
I.2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô,
cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể
hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn,
phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước
đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu,
kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia
quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo
đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước “dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 4
mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như
một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá
trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (i) thứ nhất, đó là quá trình xây dựng
nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật
(lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và (ii) thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ
thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách
làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội
nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
- Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”.
Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi
tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như
trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về
cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai
mặt: (i) thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi
trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); và (ii) thứ hai,
lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số
bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế
có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải
pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể
thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con
đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn
khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với
phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi
ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và
đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo
điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược
lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH,
HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để
hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển
nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 5
nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri
thức.
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH,
HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
(1) Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững;
(2) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của
các ngành công nghiệp và dịch vụ;
(3) Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp
và các ngành kinh tế hiện có;
(4) Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức,
khoa học và công nghệ; và
(5) Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
I.3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt
nam
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi
nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa
cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi
và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội
dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm
vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở
một số điểm sau đây:
I.3.1. Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay
đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai
trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu
thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn.

