
24
Chương 3: TƯ DUY
(Lý thuyết: 9; Thảo luận, thực hành: 2; KT: 1)
Môc tiªu häc tËp
1. VÒ kiÕn thøc: Sau khi học xong SV trình bày được bản chất phản ánh
của tư duy, các đặc điểm, vai trò của tư duy và chứng minh được tư duy là
một quá trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng..
2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện,
phát triển tư duy.
3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình
thành, phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục.
NỘI DUNG
3.1. Khái niệm chung về tư duy
3.1.1. Tư duy là gì ?
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện
tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có vô số những thuộc tính và vô số
những mối liên hệ, quan hệ. Trong đó có những thuộc tính, những mối liên
hệ, quan hệ bên ngoài; có những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ bên
trong, bản chất.
- Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh các thuộc
tính bên ngoài (như hình dáng, màu sắc...) là những thuộc tính có thể thay đổi,
và nhận thức được bằng các giác quan khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp
tác động. Nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính và vượt xa giới hạn của
nhận thức cảm tính, tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất.
+ Đó là những thuộc tính (đặc điểm) cố hữu (vốn có) tương đối ổn định
(có thể mất) gắn liền với sự vật hiện tượng, nhưng nếu mất sẽ không còn sự
vật hiện tượng.
+ Đây là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng
khác về phương diện bản chất.

25
+ Những thuộc tính bản chất không phải là bản thân vật chất bên trong
mà nó là những thuộc tính tương đối trừu tượng chỉ có thể nhận thức được
chủ yếu thông qua tư duy.
+ Những thuộc tính bản chất này tương đối ổn định, tiềm tàng ở bên
trong, nhưng nó được bộc lộ ra bên ngoài. Tuy nhiên, cái bên trong, bản chất
đó không bộc lộ hoàn toàn mà tùy theo từng điều kiện, từng hoàn cảnh, tức là
cái bên ngoài chỉ là một mặt, một biểu hiện của cái bản chất. (nó nói lên một
phần nào cái bản chất bên trong).
+ Những thuộc tính bản chất rất trừu tượng và cũng rất cụ thể tức là cái
bên ngoài nói lên một phần nào cái bên trong.
+ Cái bản chất có tính chất độc lập tương đối, tức là nhiều khi sự vật,
hiện tượng thay đổi nhưng về bản chất chưa thay đổi.
Vậy: giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ gắn bó với nhau có
tính chất biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn (cái bên trong ổn định,
khó mất mâu thuẫn với cái bên ngoài thường thay đổi).
Các Mác: “Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật trùng khớp nhau thì
mọi thứ khoa học đều trở nên thừa”.
(Tư bản quyển III - 1963 trang 281)
Vì nếu bản chất bộc lộ ra toàn bộ bằng cái bên ngoài thì con người sẽ
nhận biết được bằng các giác quan tức là con người không cần suy nghĩ, tìm tòi.
+ Một sự vật hiện tượng có vô số những thuộc tính bản chất (tuy rằng
trong đó có những thuộc tính bản chất nhất) tùy theo góc độ mà ta phản ánh,
tùy theo mức độ mà ta đi sâu.
+ Do phản ánh cái bản chất, cái bên trong mà tư duy giúp ta nhận thức
sâu sắc, đúng đắn hơn nhiều so với nhận thức cảm tính.
- Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh được
những mối liên hệ, quan hệ về mặt không gian, thời gian và trạng thái vận
động - Đó là mối quan hệ bên ngoài trực quan, cảm tính nói lên sự tồn tại của
vật trong không gian, thời gian, trạng thái vận động cụ thể. Nhưng đến tư duy
đã phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ bản chất, bên trong của hàng

26
loạt những sự vật, hiện tượng, những mối quan hệ ấy mang tính quy luật. Đó
là mối liên hệ bên trong và tất yếu giữa các hiện tượng, mối liên hệ có tính
quy luật, rất trừu tượng chỉ có thể nhận thức được thông qua tư duy.
- Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người chỉ phản ánh những cái đang
có trong hiện thực, trực tiếp tác động vào giác quan ta, đến tư duy con người
hường vào việc tìm kiếm cái mới, cái bản chất, cái khái quát, những cái mà
con người chưa biết. Đó là những thuộc tính bản chất, bên trong, những mối
liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà bằng
giác quan và phương thức nhận thức cảm tính con người chưa thể phản ánh
được, con người cần phải tìm kiếm và nắm được để tiếp tục nhận thức, cải tạo
và sáng tạo thế giới.
Tóm lại: Tư duy là một quá trình tâm lý thuộc bậc thang nhận thức lý
tính, cao hơn hẳn so với cảm giác, tri giác.
3.1.2. Bản chất xã hội của tư duy
Mặc dù tư duy được tiến hành trong bộ óc của từng người cụ thể, được
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản
thân mỗi người, nhưng tư duy bao giờ cũng có bản chất xã hội. Bản chất xã
hội của tư duy được thể hiện ở những mặt sau:
- Tư duy của con người nảy sinh từ tình huống có vấn đề được đặt ra do
nhu cầu của cuộc sống, học tập và hoạt động xã hội. Nói cách khác, tư duy của
con người bị quy định bởi nguyên nhân xã hội, do nhu cầu xã hội quy định.
- Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội, tư duy của con người không
dừng lại ở trình độ tư duy bằng thao tác tay chân, bằng hình tượng mà con
người còn đạt tới trình độ tư duy bằng ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, tư duy
khái quát - hình thức tư duy đặc biệt của con người.
- Trong quá trình tư duy, con người sử dụng phương tiện ngôn ngữ, sản
phẩm có tính xã hội cao để nhận thức tình huống có vấn đề, để tiến hành các
thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa để
đi đến những khái niệm, phán đoán, suy lý, những quy luật - những sản phẩm
khái quát của tư duy.

27
- Trong quá trình phát triển của mình, con người không chỉ tư duy
nhằm giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra mà con người còn
tiến hành tư duy nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành và phát triển
nhân cách của mình, trên cơ sở đó đóng góp những kết quả hoạt động của
mình vào kho tàng văn hóa của loài người.
- Trong điều kiện phát triển cao của xã hội loài người, hoạt động tư duy
của con người mang tính tập thể cao hơn, tức là tư duy phải sử dụng các tài liệu
thu được trong các lĩnh vực tri thức liên quan nếu không sẽ không giải quyết
được các nhiệm vụ đặt ra. Tư duy của tập thể, tư duy của nhiều nhà khoa học ở
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cùng góp phần đem lại những
thành tựu vĩ đại, góp phần cải tạo thế giới, phục vụ cuộc sống con người.
3.1.3. Đặc điểm của tư duy
Thuộc bậc thang nhận thức cao - nhận thức lý tính, tư duy có những
đặc điểm mới về chất so với cảm giác, tri giác. Tư duy có những đặc điểm cơ
bản sau:
a) Tính có vấn đề của tư duy
Đây là đặc điểm rất quan trọng nói lên nguyên tắc quyết định luận duy
vật biện chứng về tư duy.
Quan niệm duy tâm: Tư duy là do ý thức bản ngã, do cái tôi quyết định.
Do vậy tư duy không xuất phát từ thực tế khách quan.
Quan niệm duy vật: Tư duy dù có trừu tượng, cao siêu đến đâu cũng
xuất phát từ thực tiễn khách quan (xuất phát từ đòi hỏi của lao động sản xuất,
nhu cầu xã hội ...).
Theo Lê Nin: “Thực ra thì mục đích hoạt động của con người là do thế
giới khách quan sản sinh ra, lấy thế giới khách quan làm tiền đề”.
(V.I. Lê nin - Bút ký triết học 209 - 210)
Song không phải hoàn cảnh nào cũng gây được tư duy của con
người. Muốn kích thích được tư duy, phải đồng thời có hai điều kiện:
- Trước hết phải gặp hoàn cảnh (hay tình huống) có vấn đề.
+ Vấn đề: Là một câu hỏi, một thắc mắc nào đó về mặt lý thuyết hoặc
về mặt thực tiễn, một điều ta chưa hiểu, hay một nhiệm vụ mà ta cần giải
quyết, nó chứa đựng những dữ kiện và những điều cần tìm.

28
+ Tình huống có vấn đề: Là một tình huống chưa có đáp số nhưng đáp
số đã tiềm tàng ở bên trong. Nghĩa là, đã chứa đựng những cái chưa biết từ
những cái đã biết. Con người có nhu cầu cần nhận biết những cái chưa biết.
+ Tình huống có vấn đề xuất hiện khi con người cảm thấy không có
khả năng giải thích bản chất vấn đề, hoặc không có khả năng giải quyết vấn
đề bằng vốn hiểu biết cũ, bằng phương thức hành động cũ, lúc đó buộc con
người phải có nhu cầu tìm phương thức hành động mới, tìm cách giải quyết
mới. Trạng thái đó dẫn đến tình huống có vấn đề nảy sinh trong đầu ta.
Vậy: Tình huống có vấn đề đó là tình huống (hoàn cảnh) có chứa đựng
một mục đích mới, một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới, mà bằng
vốn hiểu biết cũ, những phương tiện cũ, phương pháp hoạt động cũ đã có
(mặc dù vẫn cần thiết) nhưng không đủ sức giải quyết vấn đề mới đó, để đạt
mục đích mới đó. Con người phải tìm cách giải quyết mới tức là phải tư duy.
- Thứ hai: Hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy
đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân. Tức là, cá nhân phải xác định
được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì chưa biết (phải tìm) đồng thời
phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó và phải có tri thức cần thiết để giải
quyết (trên cơ sở đó tư duy nảy sinh). Những điều kiện quen thuộc hoặc nằm
ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy không xuất hiện.
Như vậy: Tư duy chỉ nảy sinh khi đứng trước tình huống (hoàn cảnh)
có vấn đề.
b) Tính gián tiếp của tư duy
Chức năng của tư duy là đi vào cái bản chất và quan hệ có tính quy luật
của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà trước đó bằng các giác quan,
bằng nhận thức cảm tính chưa phản ánh được (cái không trực tiếp tác động
vào các giác quan). Do vậy, buộc tư duy phải phản ánh gián tiếp.
Tính gián tiếp của tư duy thể hiện:
+ Tư duy phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan thông qua ngôn ngữ.
Ở con người đến tư duy là phản ánh bằng ngôn ngữ, tư duy phản ánh
thế giới bằng ngôn ngữ là chủ yếu, hay lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Tư duy