
cháu họ Ngô Thời, một dòng dõi có tiếng đỗ đạt cao và có tài văn thơ ở làng Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông
(nay là Hà Nội).
b) Hoàng lê nhất thống chíviết vào những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX và bao quát những biến cố
lớn lao xảy ra trong lòng chế độ vua Lê, chúa Trịnh, từ thời Trịnh Sâm lên ngôi đến lúc Quang Trung đánh đuổi
quân Mãn Thanh. Hai nét căn bản của thời đại đã được làm nổi bật: sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong
kiến Lê - Trịnh và khí thế sấm chớp vũ bão của phong trào Tây Sơn.
2.c) Lê Hiển Tông suốt bốn mươi năm làm vua, biết mình là bù nhìn, nhưng vẫn thích thú với thân phận bù
nhìn ấy. Trịnh Sâm thì xa xỉ, kiêu căng, hoang dâm vô độ. Lê Chiêu Thống thì đúng là hiện thân của sự bất tài và hèn
hạ, nhất là sự phải bội. Không câu nói nào xứng đáng với y bằng lời kết án của một người trong truyện: Nước Nam
ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy có vua nào hèn hạ đến thế!.
d) Vua chúa đã vậy, văn thần võ tướng cũng chẳng hơn gì. Danh tướng như Ðinh Tích Nhưỡng, gia đình mười
tám đời quận công, khi nghe quân Tây Sơn ra Bắc, liền vội vàng bỏ trốn. Văn quan làm đến chức Tham tụng như Bùi
uy Bích mà lúc nước nhà rối ren, vua hỏi đến, không dám nói một câu, chỉ một mực xin lui về vườn, lẩn trốn trách
nhiệm.
c) Kiêu binh là chỗ dựa của nhà chúa từ xưa, hồi này lại lưu manh hoá, trở thành một lực lượng phá hoại từ
bên trong, làm cho cơ nghiệp nhà chúa xiêu đổ.
f) Phản ánh tất cả sự suy sụp, rối ren ấy vào trong ý thức con người là sự rời rã của các giềng mối xã hội.
Quan hệ vua tôi chẳng còn gì là thiêng liêng nữa khi Nguyễn Cảnh Thước lột áo Lê Chiêu Thống. Quan hệ thầy trò
cũng chẳng còn sức mạnh gì đối với lương tâm một kẻ như Tuần huyện Trang. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em
trong gia đình Trịnh Sâm chỉ là một trò cười não nuột.
(*) Một chế độ mục ruỗng từ trên chí dưới như thế nhất định phải diệt vong, phong trào Tây Sơn sẽ thổi lên
cơn lốc lật nhào chế độ đó.
g) Sự thật về phong trào này và vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ chưa được hiểu đúng đắn và dựng lên đầy
đủ. Nhưng một chân lí vĩ đại không ai chối cãi nổi đã được ghi lại một cách thích đáng, đó là cái khí thế mãnh liệt,
hi thường của đoàn quân chính nghĩa và lãnh tụ của nó.
Chúa Trịnh mấy trăm năm lấn hiếp vua Lê, nắm cả quyền hành trong tay, làm mưa làm gió ở Ðàng Ngoài,
Tây Sơn chỉ một lần tiến quân ra Bắc là ngôi chúa sụp đổ ngay và nhà chúa cũng không tránh được cái chế nhục
nhã. Xứ Bắc mấy năm lùng nhùng với loạn kiêu binh, với phe đảng đánh nhau không ngớt, Tây Sơn kéo quân ra một
lần là quét sạch. Hai mươi vạn quân Thanh hống hách, chỉ mấy ngày đã bị dẹp tan. Dưới mắt tác giả, chiến dịch này
là một bản anh hùng ca bất diệt và hình ảnh Quang Trung đẹp như hình ảnh thần kì.
h) Hoàng lê nhất thống chí kể rất nhiều chuyện của rất nhiều người. Chuyện rất sát sự thực, nhưng vẫn đầy đủ
tính chân thật của nghệ thuật. Người thì chưa mấy ai được xây dựng thành tính cách đặc sắc, nhưng mỗi người đều
một hành động, một tâm lí riêng, khá sinh động. Nhiều chỗ, ngòi bút lại pha chất hài hước khá kín đáo, có chỗ lại có
không khí trang trọng của anh hùng ca.
3.i) Hoàng lê nhất thống chí không khỏi có những hạn chế do tư tưởng phong kiến của tác giả gây ra. Tuy
nhiên, nó vẫn mãi mãi là bức tranh hài hước về sự tàn lụi của chế độ phong kiến cũng như mãi mãi là tiếng vọng hồ
hởi của một phong trào tiêu biểu cho sức mạnh của nông dân và sức mạnh của dân tộc, phong trào Tây Sơn. (Văn
học lớp 11 phổ thông, tập 1)
Văn bản trên có nội dung bàn luận về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Văn bản bao gồm ba phần: Phần Mở
đầu được cấu tạo bằng hai đoạn văn (a) và (b), trong đó đoạn văn (a) và câu thứ nhất của đoạn văn (b) có chức năng
dẫn nhập; câu thứ hai - câu cuối - của đoạn (b) nêu lên chủ đề của toàn văn bản. Chủ đề bao gồm hai mặt: sự sụp đổ
không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến Lê - Trịnh và khí thế sấm chớp, vũ bão của phong trào Tây Sơn. Như vậy,
câu cuối của đoạn (b) là câu chủ đề của văn bản.
Phần Khai triển (Thân bài) bao gồm các đoạn (c), (d), (e), (f), (g) và (h). Troan các đoạn văn này, đoạn (c),
(d), (e) và (f) có chức năng triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề thứ nhất. Ðoạn (g) triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề
thứ hai. Riên
đo
n
h
, m
c
ù khôn
t
ực tiế
đề c
đến chủ đề của to
n v
n b
n, nhưn
v
n có vai t
ò nh
t định:
htt
://tieulun.ho
to.or