
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Ngoại Thương
------------------o0o------------------
Công trình dự thi Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học trường Đại học Ngoại Thương
năm 2008
Tên công trình:
ĐÁNH GIÁ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
THUẾ NHẬP KHẨU ÔTÔ CỦA VIỆT NAM
VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nhóm ngành: XH1a
Hà Nội, tháng 7 năm 2007

http://svnckh.com.vn
2
Mục Lục
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 2: Giải quyết vấn đề
I-Một số vấn đề lý luận về thuế nhập khẩu
1.Khái niệm thuế nhập khẩu
2.Vai trò của thuế nhập khẩu
2.1.Góp phần vào bảo hộ và phát triển sản xuất nội địa
2.2.Hướng dẫn tiêu dùng trong nước
2.3.Tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước
2.4.Là công cụ quan trọng trong đàm pháp quốc tế, góp phần thúc đẩy tự
do hóa thương mại
3.Các phương pháp tính thuế nhập khẩu
3.1.Thuế tính theo giá
3.2.Thuế tuyệt đối
3.3.Thuế hỗn hợp
II- Chính sách thuế nhập khẩu ô tô của Việt Nam từ năm 2001 đến nay và những tác
động của chính sách đó.
1.Tính cần thiết phải có thuế nhập khẩu ô tô
2.Chính sách thuế nhập khẩu ô tô của Việt Nam từ năm 2001 đến nay
2.1.Đối tượng chịu thuế
2.2.Đối tượng nộp thuế
2.3.Thời điểm tính thuế
2.4.Thời điểm nộp thuế
2.5.Phương pháp tính thuế
2.6.Thuế suất
3.Tác động của chính sách thuế nhập khẩu ô tô từ năm 2001 đến nay.
3.1.Từ năm 2001 đến tháng 1/2007
3.2.Tác động của 3 lần giảm thuế nhập khẩu ô tô trong năm 2007
3.2.1.Tác động đến người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu
3.2.2.Tác động đến các nhà sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước
3.3.Tác động của việc tăng thuế nhập khẩu ô tô năm 2008
3.3.1.Tác động đến người tiêu dùng
3.3.2.Tác động đến nhà nhập khẩu ô tô
3.3.3.Tác động đến các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước và tới ngành
công nghiệp ô tô của Việt Nam
3.3.4.Tác động tới thị trường ô tô
4.Một số đánh giá về chính sách thuế nhập khẩu ô tô của Việt Nam
III-Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ô tô của
Việt Nam
1.Chỉ coi thuế nhập khẩu ô tô là công cụ hỗ trợ
2.Chính sách thuế nhập khẩu ô tô phải đảm bảo tính dự báo được
Phần 3: Kết thúc vấn đề.
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

http://svnckh.com.vn
3
Việt Nam, một quốc gia đang phát triển nhanh chóng ở khu vực kinh tế năng động
nhất thế giới – khu vực Châu Á Thái Bình Dương, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên
tục trong nhiều năm (tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5/năm trong 5 năm 2001-
2005 và 8,17% năm 2006 và 8,44% năm 2007)1 , mức sống của nhân dân ngày càng được
cải thiện. Vì vậy, thị trường ôtô của Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm
năng. Minh chứng rõ nhất cho điều này là việc xuất hiện trên thị trường hàng loạt những
thương hiệu xe nổi tiếng thế giới như: Porsche, Ferrari, Audi, Bentley, Rolls-
Royce….Tuy nhiên, sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của dòng xe nhập khẩu đã khiến
cho xe sản xuất và láp ráp trong nước trở nên yếu thế. Để điều tiết thị trường nhằm thực
hiện những mục tiêu dài hạn cũng như để bảo hộ nền sản xuất ôtô còn non trẻ, Nhà Nước
(mà cụ thể là Bộ Tài Chính) đã sử dụng đến công cụ thuế nhập khẩu. Chỉ trong vòng
chưa đầy hai năm đã có tới năm lần Bộ Tài Chính điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu
ôtô. Hiện nay, chính sách thuế nhập khẩu ô tô đã trở thành vấn đề được dư luận hết sức
quan tâm bởi chính sách ấy có tác động to lớn đến người tiêu dùng, thị trường ô tô, ngành
công nghiệp ô tô của Việt Nam cũng như tới các doanh nghiệp nhập khẩu và sản xuất lắp
ráp ô tô trong nước.
Do tính cấp thiết của vấn đề, nhóm tác giả đã xác định đối tượng nghiên cứu trong
đề tài là chính sách thuế nhập khẩu ôtô của Việt Nam từ năm 2001 trở lại đây (bao gồm
cả thuế với xe mới, xe cũ và linh kiện phụ tùng nhập khẩu). Nhóm tác giả đã chỉ ra những
tác động to lớn và nhiều mặt của chính sách thuế nhập khẩu ô tô trên cơ sở nghiên cứu
thực tế, phân tích so sánh số liệu, đánh giá, tổng hợp vấn đề. Đồng thời cũng đưa ra
những giải pháp với hy vọng nhằm hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả của chính sách
thuế nhập khẩu ô tô. Với đề tài này nhóm tác giả không có tham vọng phân tích được hết
những chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam từ trước đến nay mà chỉ đề cập đến chính
sách thuế nhập khẩu ôtô của Việt Nam từ năm 2001 trở lại đây khi mà Việt Nam đã mở
của và hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới
Trong quá trình nghiên cứu nhóm tác giả đã chia đề tài thành 3 nội dung lớn:
Một là, một số lý luận về thuế nhập khẩu.
Hai là, Chính sách thuế nhập khẩu ôtô của Việt Nam từ năm 2001 đến nay và
những tác động của chính sách đó.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn chính sách thuế nhập khẩu ô
tô.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, nhóm tác giả mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé nhằm làm lành mạnh hóa thị trường ô tô cũng như xác định những bước đi
thích hợp cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong tương lai.
PHẦN 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I-Một số vấn đề lý luận về thuế nhập khẩu.
1. Khái niệm thuế nhập khẩu.
1 Theo Bộ Ngoại Giao Việt Nam

http://svnckh.com.vn
4
Trong những năm vừa qua thuế nhập khẩu luôn được coi là công cụ hữu hiệu
trong việc thực hiện chính sách quản lý hàng nhập khẩu, bảo về thị trường trong nước,
góp phần tăng thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước và thuế quan còn là công cụ quan
trọng trong việc thực hiện công tác đối ngoại của một quốc gia.Vậy thuế nhập khẩu là gì?
Có khá nhiều khái niệm khác nhau về thuế nhập khẩu xuất phát từ những cách
tiếp cận khác nhau: từ quan điểm về kinh tế chính trị, từ góc độ cái nhìn của người thu
thuế tới người nộp thuế, rồi trên khía cạnh pháp luật…
Nhìn chung, chúng ta có thể hiểu:
Thuế nhập khẩu là một loại thuế quan đánh vào hàng mậu dịch, phi mậu dịch, khi
hàng hóa đi qua khu vực hải quan của một nước.2
Từ phát biểu trên chúng ta có thể hiểu thuế nhập khẩu ô tô của Việt Nam là một
loại thuế gián thu đánh vào mặt hàng ôtô được phép nhập khẩu qua biên giới của Việt
Nam mà chủ hàng nhập khẩu phải nộp cho cơ quan hải quan khi lô hàng ô tô vào lãnh thổ
hải quan của Việt Nam.
2. Vai trò của thuế nhập khẩu:
2.1.Góp phần vào việc phát triển và bảo hộ sản xuất nội địa.
Thuế nhập khẩu có xu hướng làm tăng giá trên thị trường nội địa, do đó có tác
dụng bảo hộ sản xuất và thường được coi là một chính sách để bảo vệ ngành công nghiệp
non trẻ.
Việc áp dụng thuế nhập khẩu gây ra tổn thất cho toàn bộ xã hội. Điều này được
phản ánh trong hai khái niệm: Tác động bảo hộ và tác động chuyển nhượng.
Tác động bảo hộ: Gọi là bảo hộ vì với giá bán cao hơn sẽ tạo cơ hội kinh doanh
cho các nhà sản xuất trong nước kém hiệu quả. Thêm mỗi đơn vị sản xuất ra là tăng thêm
một mức độ kém hiệu quả.
Tác động chuyển nhượng: Giá bán cao hơn (do có thuế nhập khẩu) được tính cho
mỗi đơn vị của toàn bộ số lượng cung ứng trong khi tác động bảo hộ chỉ ứng với phần
cung ứng gia tăng. Do đó, phần thu hoạch thêm của các nhà sản xuất có hiệu quả là phần
thặng dư so với chi phí sản xuất. Đây chính là phần chuyển nhượng hay tái phân phối lợi
tức từ giới tiêu thụ sang giới sản xuất.
Tóm lại, một mức thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu cạnh tranh với hàng hóa
trong nước sẽ làm cho giá cả trong nước tăng lên. Giá cả tăng lên làm giảm nhu cầu tiêu
dùng, tăng sản xuất trong nước và giảm nhập khẩu. Do vậy, có thể nói thuế quan là một
công cụ hữu hiệu để phát triển và bảo hộ sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, những luận cứ bảo vệ cho một chính sách bảo hộ chỉ thích hợp trong
ngắn hạn và trên phương diện phi kinh tế, hay chỉ nên áp dụng trong một số trường hợp
cụ thể mà thôi. Bởi vì bảo hộ làm giảm và có thể làm mất hẳn những lợi ích do phân công
lao động quốc tế mang lại.
Để thấy rõ được tác động bảo hộ của thế quan, chúng ta đi xem xét một số khái
niệm:
2 Theo giáo trình Chính Sách Thương Mại Quốc Tế-NXB Lao Động Xã Hội 2006

http://svnckh.com.vn
5
Tỷ suất bảo hộ danh nghĩa (Nominal Protection Rate – NPR):
Có hai loại NPR: là tỷ suất bảo hộ danh nghĩa thuế quan và tỷ suất bảo hộ danh
nghĩa thực
Bảo hộ thuế quan cho ta biết sự bảo hộ giá trị danh nghĩa là như thế nào nếu
không có hạn chế về số lượng, không có buôn lậu và những nhân tố khác có thể làm cho
thuế nhập khẩu trở nên méo mó (thừa hoặc thiếu).
Trên thực tế, khi ta thu một mức thuế đối với hàng nhập khẩu, không nhất thiết
xảy ra việc tăng giá cả tương ứng trên thị trường nội địa đối với hàng hóa đó. Vì vây, tỷ
lệ bảo hộ danh nghĩa thuế quan thường không trùng với bảo hộ danh nghĩathực. Bảo hộ
danh nghĩa thực được hiểu là chênh lệch tính bằng phần trăm (%) mà người sản xuất nội
địa nhận được và giá quốc tế. Bảo hộ thực chịu tác động của tất cả các nhân tố như: hàng
rào thuế quan, phi thuế quan, buôn lậu….
Bên cạnh tỷ suất bảo hộ danh nghĩa NPR, còn có tỷ suất bảo hộ hiệu quả
(Effective Protection Rate – EPR) khi thuế đánh vào thành phần nhập khẩu chênh lệch so
với thuế đánh vào các đầu vào nhập khẩu.
Trong tình huống không co méo mó về thuế nếu thuế nhập khẩu càng cao thì sự
bảo hộ sản xuất nội địa càng lớn. Nhưng chúng ta biết rằng, một điều quan trọng đối với
các nhà sản xuất không chỉ là giá bán hàng của mình trên thị trường mà còn là giá mua
những đầu vào cho sản xuất. Giá mua ấy cũng bị những biện pháp bảo hộ tác động đến.
Tỷ suất bảo hộ hiệu quả cho phép tính đến các tác động phối hợp của những biện pháp
bảo hộ đối với các đầu ra và các đầu vào. Tỷ suất bảo hộ hiệu quả chính là sự biến đổi
phần trăm của giá trị gia tăng vào giá nội địa so với giá trị ấy được tính theo giá quốc tế.
Bảo hộ hiệu quả thật sự càng cao thì khả năng sản xuất hàng có hiệu quả càng cao và do
vậy, nên công nghiệp đó càng được củng cố ở trong nước.
Sự kiện bảo hộ thật sự có thể khác biệt với bảo hộ thuế quan danh nghĩa mang lại
nhiều hàm ý lý thú. Sự bảo vệ thực sự mà một ngành công nghiệp được hưởng có thể gia
tăng chỉ vì có sự giảm thuế đánh trên các đầu vào mà ngành công nghiệp đó được sử
dụng. Việc giảm thuế cho các đầu vào lại dễ thực hiện hơn tăng thuế đầu vào. Và có vẻ
như khuyến khích tự do mậu dịch hơn. Các quốc gia có thể gia tăng bảo vệ đối với các
nhà sản xuất trong nước thông qua đặc quyền thuế quan như vậy. Các ngành công nghiệp
hướng về xuất khẩu thường không thể hưởng lợi trên thị trường quốc tế, nếu thuế quan
bảo vệ lại đánh cả vào những đầu vào nhập khẩu mà ngành công nghiệp đó sử dụng. Vì
vậy, đánh thuế thấp hoặc không thu thuế các đầu vào nhập khẩu có thể vừa là biện pháp
bảo hộ hữu hiệu sản xuất nội địa, vừa là giải pháp khuyến khích xuất khẩu.
2.2 Thuế quan góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước:
Để xem xét tác động của thuế nhập khẩu đối với giới tiêu dùng nội địa như thế
nào, trước hết chúng ta giả thiết rằng, thu nhập của mỗi người tiêu dùng là cố định, và
người tiêu dùng đó có thể lựa chọn mua một trong hai hàng hóa A và B.
Khi chưa có thuế nhập khẩu, người tiêu dùng vừa mua sản phẩm A và B theo một
tỷ lệ nào đó. Giả sử nhà nước đánh thuế nhập khẩu đối với một mức thuế nào đó theo giá
của sản phẩm A, khi đó đường giới hạn ngân sách sẽ thu hẹp lại. Người tiêu dùng sẽ hạn
chế việc mua sản phẩm A và sẽ mua nhiều sản phẩm B. Và để cân đối lại ngân sách,
người tiêu dùng sẽ phân chia phần thu nhập cố định của mình.