intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư

Chia sẻ: Conan Edowa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:27

2.731
lượt xem
61
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giá trị thăng dư là mục tiêu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và phát triển của tư bản, bất kỳ một nền sản xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng nhu cầu của con người về điều kiện sống đều phải tái sản xuất, mở rộng và phải tạo ra được sản phẩm thặng dư, vậy giá trị thặng dư là gì mời các bạn cùng tham khảo đề tài Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư để hiểu hơn về vấn đề này.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư

  1. A ­ LỜI MỞ ĐẦU ****** Giá trị thăng dư là mục tiêu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và  phát triển của tư bản. Bất kỳ một nền sản xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng nhu  cầu của con người về  điều kiện sống đều phải tái sản xuất, mở  rộng và  phải tạo ra được sản phẩm thặng dư. Bởi mức độ  giàu có của xã hội tuỳ  thuộc vào khối lượng sản phẩm thặng dư. Xã hội càng phát triển thì sản   phẩm thặng dư càng nhiều. Song trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán  trên thị trường đều có giá trị, nhưng chỉ có ở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa  thì giá trị của sản phẩm thặng dư mới là giá trị thặng dư. Từ đó có thể khẳng định sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế  cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Cho nên để nghiên cứu giá trị thặng dư, ta chỉ  nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vậy vấn đề cần đặt ra là giá trị  thặng dư  là gì ? Nguồn gốc và bản chất của giá trị  thặng dư  ? Các hình  thức chuyển hoá của giá trị thặng dư ? ... Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Việc nghiên cứu nó phải  được xuất phát từ  các quan điểm đúng đắn của học thuyết Mác và thực   tiễn. Quá trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được các câu hỏi luôn tự đặt ra   trong lý luận cũng như trong thực tế của kinh tế học TBCN. Với những hiểu biết đang còn nhiều hạn chế  và trong phạm vi đề  tài   cho phép, em rất mong nhận được sự giúp đỡ chỉ dẫn của thầy cô giáo về  những sai sót trong bài làm để bài viết sau của em được tốt hơn. 1
  2. B ­  NỘI  DUNG PHẦN I GIÁ TRỊ THẶNG DƯ  LÀ GÌ ? 1 ­ KHÁI NIỆM Giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công   nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Sản xuất ra giá trị  thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị  được kéo dài   quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại   bằng vật ngang giá mới. 02 ­ VÍ DỤ KÉO BÔNG THÀNH SỢI Bây giờ  chúng ta nghiên cứu một cách ngắn gọn quá trình sản xuất tư  bản chủ nghĩa trong sự thống nhất của nó như là quá trình lao động và quá   trình tăng thêm giá trị qua ví dụ về sản xuất sợi. Giả  định sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 đôla.  Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và   hao mòn máy móc là 2 đôla; giá trị sức lao động trong một ngày của người  công nhân  là 3 đôla; trong một giờ lao động người công nhân đã tạo ra một   giá trị là 0.5 đôla; cuối cùng, ta giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi đã  hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Với giả định như vậy, nếu như quá trình lao động kéo dài đến cái điểm  mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao  động cần thiết thì chưa có sản xuất giá trị  thặng dư, do đó tiền chưa biến  thành tư bản. Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức   lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động có thể  tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà nhà tư bản đã tính đến   điều đó trước khi mua sức lao động. Nhà tư  bản đã trả  tiền mua sức lao  
  3. động trong ngày. Vậy việc sử  dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về  nhà tư bản. Chẳng hạn, nhà tư  bản bắt công nhân lao động trong 1 giờ  một ngày  thì : Chi phí sản xuất Giá trị của sản phẩm mới (20 kg sợi) ­ Tiền mua bông là 20 đôla. ­ Giá trị của bông được chuyển  vào sợi là 20 đôla. ­ Hao mòn máy móc là 4 đôla. ­ Giá trị của máy móc được  chuyển vào sợi 4 đôla. ­ Tiền mua sức lao động trong  ­ Giá trị do lao động của công  một ngày là 3 đôla. nhân tạo ra 12h lao động là 6  đôla.  Cộng : 27 đôla. Cộng : 30 đôla. Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức  lao động là 27 đôla. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm  mới (20 kg sợi) có giá trị bằng 30 đôla, lớn hơn giá trị ứng trước là 3 đô la.   Vậy 27 đôla  ứng trước thành 30 đôla, đã đem lai một giá trị  thặng dư  là 3  đôla. Do đó tiền biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức  lao động gọi là giá trị thặng dư.  3
  4. Phần II NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ I ­ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRƯỚC MÁC 1. QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế phong   kiến bước vào thời suy thoái  và nền kinh tế TBCN bắt đầu hình thành. Nó  ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản và nó được  phát triển rộng rãi ở  các nước Tây Âu. Mặc dù thời kỳ  này chưa biết đến  quy luật kinh tế  và còn hạn chế  về  tính quy luật nhưng hệ  thống quan  điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã   hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể  hiện  ở  chỗ  họ  đưa ra quan điểm sự  giàu có không phải là giá trị  sử  dụng  mà là giá trị tiền Học thuyết kinh tế trọng thương coi lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông  mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ  bán đắt mà có. 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN Trong thời kỳ  chủ  nghĩa trọng thương, sự  hoạt động của tư  bản chủ  yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển cuả công trường  thủ công, tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất. Lúc này các vấn đề  kinh tế  của sản xuất đã vượt quá khă năng giải thích của lý thuyết chủ  nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế  cổ  điển xuất hiện. Các nhà  kinh tế  học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên   cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên, họ  xây   dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường.   Tiêu biểu là các quan điểm của Kene, A.Đ Smith, Ricacdo.
  5.      a)Quan điểm của Kene : Kene được CacMac đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển   và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho  việc nghiên cứu sản phẩm, tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ  thặng dư sau này. Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê   phán chủ  nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn   thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang   giá cả. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp   không thể đẻ  ra tiền được. Theo ông, sản phẩm thặng dư chỉ được tạo ra  từ sản xuất­ nông nghiệp kinh doanh theo kiểu TBCN bởi vì trong lĩnh vực   sản xuất nông nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ  có sự  giúp đỡ  của tự  nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu   tìm ra được nguồn gốc của giá trị  thặng dư. Ông cho chi phí sản xuất là  tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số  chênh lệch giữa thu hoạch và tiền  lương, đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra. b)Quan điểm của A.Đ Smith  Theo ông địa tô là khoản khấu trừ  đầu tiên vào sản phẩm lao động, lợi   nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng  đều   có   chung   nguồn   gốc   là   lao   động   không   được   trả   công   của   công  nhân.Về mặt chất, nó phản ánh quan hệ bóc lột. Xuất phát từ sự phân tích  giá trị  hàng hoá do người công nhân tạo ra A.Đ Smith thấy một thực tế  là   công nhân chỉ  nhận  được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và   lợi nhuận của tư bản. Ông cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là do toàn bộ  tư bản đầu tư đẻ ra trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông.  Ông thấy địa tô chênh lệch I do màu mỡ  đất đai và vị  trí gần xa quyết   định nhưng không nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt  5
  6. đối. Những tư tưởng kinh tế của A.Đ Smith tuy còn hạn chế và mâu thuẫn,  song cũng gây tiếng vang lớn trong giới học giả kinh tế cổ điển. Ông được  nhiều tác giả hậu bối coi là "cha đẻ của kinh tế học". c)Quan điểm của Ricacdo Nếu như A.Đ Smith  sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển   mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó  là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Đ Smith   dừng lại. Ông là người kế  tục xuất sắc của A.Đ Smith. Theo C.Mac, A.Đ  Smith là nhà kinh tế  của thời kỳ công trường thủ  công còn Ricacdo là nhà  tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp   khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các   phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để  nghiên cứu kinh tế chính trị học. Về  lợi nhuận, Ricacdo cho rằng "Lợi nhuận là số  còn lại ngoài tiền  lương mà nhà tư  bản trả cho công nhân". Ông đã thấy xu hướng giảm sút   tỷ xuất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự  vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ, công nhân và nhà tư  bản. Về  địa tô, Ricacdo dựa vào quy luật giá trị  để  giải thích địa tô, rằng  địa tô hình thành không trái với quy luật giá trị. Ông bác bỏ  quan niệm cho   rằng địa tô là sản phẩm của những lực lượng tự nhiên hoặc năng xuất đặc  biệt trong nông nghiệp. Ông đã nhận thức rằng giá trị  nông phẩm được   hình thành trong điều kiện ruộng đất xấu nhất, nếu kinh doanh trên ruộng  đất trung bình sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch và lợi nhuận này rơi vào tay địa  chủ dưới hình thức địa tô ( địa tô chênh lệch I). nhưng ông không biết địa tô  chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối.     II ­ QUAN ĐIỂM CỦA HỌC THUYẾT MÁC
  7. Mác viết :"Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao   động biểu hiện trong hàng hoá. Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử  dụng và giá trị  lao động vì lao động sản xuất hàng hoá  có tính hai mặt là  lao động cụ thể và lao động trừu tượng.  Theo Mác, lao động cụ  thể  là lao động hao phí dưới một hình thức cụ  thể  của một nghề  nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối  tượng riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Kết quả  của lao động cụ  thể  tạo ra giá trị  sử  dụng của hàng hoá. Lao  động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng có nhiều loại. Tất cả  các lao động cụ  thể  hợp thành hệ  thống phân công xã hội ngày càng chi  tiết. Lao động cụ  thể  là một phạm trù vĩnh viễn, là điều kiện không thể  thiếu được trong mọi điều kiện của xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hoá nếu coi là hao phí sức lực của   con người nói chung, không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là   lao động trừu tượng. Lao động bao giờ  cũng là hao phí sức óc, sức thần  kinh và bắp thịt của con người. Nhưng bản thân sự lao động về mặt sinh lý  đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá   mới có sự  cần thiết khách quan phải quy các loại lao động cụ  thể  khác   nhau vốn không thể  so sánh được với nhau thành một thứ  lao động đồng   nhất có thể  so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ  thể  thành   lao động trừu tượng. Vì vây lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử.  Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá đơn giản, tính chất hai mặt của lao động  sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và   lao động xã hội của  những người sản xuất hàng hoá. Đó là mâu thuẫn cơ  bản của sản xuất hàng hoá đơn giản. Mâu thuẫn này còn biểu hiên   ở  lao  động cụ thể với lao động trừu tượng  ở giá trị sử dụng với giá trị hàng hoá.  7
  8. "Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để  hiểu biết kinh tế chính trị học". Nó là sự phát triển vượt bậc so với các học  thuyết kinh tế cổ đại.        1. CÔNG THỨC CHUNG CỦA TƯ BẢN VÀ MÂU THUẪN CHUNG  CỦA CÔNG THỨC TƯ BẢN           Mác và Ănghen cũng là người đầu tiên xây dựng nên lý luận về giá trị  thặng dư  một cách hoàn chỉnh. Vì vậy, lý luận về  giá trị  thặng dư  được  xem là hòn đá tảng to nhất trong toàn bộ học thuyết của Mác. Qua thực tế  xã hội tư  bản lúc bấy giờ  Mác thấy rằng giai cấp tư  bản ngày càng giàu  thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ  và ông đã đi tìm hiểu   nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này.  Cuối cùng ông phát hiện rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền T đưa   vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số  tiền ứng ra.    Ta gọi là : T' (T' > T) hay T' = T + ΔT. C.Mác gọi ΔT là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu   thông tiền tệ  với tư cách là tư  bản không phải là giá trị  sư  dụng mà là giá  trị. Mục đích của lưu thông T­H­T' là sự lớn lên của giá tri thặng dư nên sư  vận động T­H­T' là không có giới hạn. Công thức này được Mác gọi là  công thức chung của tư bản. Qua nghiên cứu, Mác đi đến kết luận: "Tư bản không thể  xuất hiện từ  lưu thông mà cũng không xuất hiện  ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện  trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông ". Đây chính là  mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này Mac đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá  trị hàng hoá­ sức lao động .
  9. Quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị  mới lớn hơn giá trị  của  bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là  quá trình sản xuất ra giá trị  sử  dụng và quá trình sản xuất ra giá trị  thặng  dư. C.Mác viết : ''Với tư cách là sự  thống nhất giữa quá trình lao động và  quá trình sáng tạo ra giá trị  thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra   hàng hoávới tư  cách là tăng giá trị  thì  quá trình sản xuất là một quá trình  sản xuất TBCN, là hình thái TBCN của nền sản xuất hàng hoá. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị  sức lao động, nó được tính bằng giá trị  sức lao động cộng thêm giá trị  thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần   giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị các nhà   tư  bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư  bản là giá trị  đem lại giá trị  thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. 2.  BẢN CHẤT QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ   Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình   sản xuất của các nhà tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra hai bộ phận : Tư  bản bất biến và tư bản khả biến. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị  được  bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi  về  lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và gọi là   kí hiệu là c. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong   quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và kí hiệu   là v. Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được thì phải có  một tư bản bất biến đã được ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự  phân chia ta rút ra tư  bản khả  biến tạo ra giá trị  thặng dư  vì nó dùng để  mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc trong  9
  10. việc tạo ra giá trị  thặng dư. Từ  đây ta có kết luận: "Giá trị  của một hàng   hoá của một hàng hoá  bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng   với giá trị của tư bản khả  biến (Tức là giá trị  thặng dư  đã được sản xuất  ra). Nó được biểu diễn bằng công thức : Giá trị = c + v + m. Sự phân chia tư bản thành tư bản khả biến và tư bản bất biến đã vạch  rõ  thực chất bóc lột TBCN, chỉ  có lao động của công nhân làm thuê mới   tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản. Tư bản đã bóc lột một phần giá trị  mới do công nhân tạo ra. Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn  qua quá  trình  Giá trị = c + v + m. Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người   công nhân) : v. M =  m'.V = (m.V) : v Giá trị mới do người công nhân tạo ra : v + m. Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v. Nhưng   giá trị mà nhà tư bản thu vào là c + v + m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản  bóc lột của công nhân.   Trên đây chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị  thặng dư. Các  phạm trù tỉ  xuất giá trị  thặng dư  và khối lượng giá trị  thặng dư  mà ta  nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt lượng của sự bóc lột. Tỉ xuất giá trị thặng dư là tỉ  số  giữa hai giá trị  thặng dư  và tư  bản khả  biến. Kí hiệu của tỉ xuất giá trị thặng dư là m ta có : m' = (m.100%):v
  11.                 Tỉ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công  nhân. Thực chất đây là tỉ  lệ  phân chia ngày lao động thành thời gian lao   động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện   lượng tuyệt đối của sự  bóc lột tức là khối lượng giá trị  thặng dư. Khối   lượng giá trị  thặng dư   là tích số  giữa tỷ  suất giá trị  thặng dư  và tổng tư  bản khả biến(v). Nó nói lên quy mô bóc lột của tư bản.        3. PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ            Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều   cách, bằng nhiều thủ  đoạn. Trong đó Mác chỉ  ra hai phuơng pháp mà chủ  nghĩa tư bản thường dùng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản   xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngoài ra còn phương pháp sản suất giá trị  thặng dư siêu ngạch.          Mác đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ  nghĩa tư bản khi  kỹ thuật còn thấp thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài  tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không  thay đổi. nhưng phương pháp này còn hạn chế  về  mặt thời gian, về  thể  chất và tinh thần người công nhân. sự  bóc lột này đã dẫn đến nhiều cuộc   bãi công, đấu tranh của các nghiệp đoàn.            Nhà tư bản sản xuất ngày càng nhiều giá trị thăng dư bằng các rút ngắn   thời gian lao động cần thiết do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư  trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. phương pháp này không có  giới hạn.         Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày nay đang tìm cách cải tạo kỹ thuật,   đưa kỹ  thuật mới vào, nâng cao tay nghề  công nhân, tạo điều kiện về  11
  12. tinh thần tốt để tạo ra năng suất lao động cá biệt lớn hơn năng xuất lao  động xã hội. Phần giá trị  thăng dư  dôi ra ngoài giá trị  thặng dư  thông  thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời  gian lao động xã hội   cần thiết gọi là giá trị  thặng dư  siêu bền. Phương pháp này là phương   pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch.  4.CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ      4.1 TIỀN LƯƠNG Công nhân làm việc cho nhà tư  bản một thời gian nào đó, sản xuất ra  một lượng thời gian nào đó thì nhận được một số  tiền công nhất định.  Tiền trả công đó được gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm người ta lầm  tưởng rằng tiền công là giá cả lao động. Sự  thật thì tiền công không phải là giá trị  hay giá cả  lao động. Vì lao   động không phải hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Sở dĩ như  vậy là vì: a) Nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật hoá   trong một số trường hợp cụ thể nào đó. Tiền đề để  cho lao động  có thể "vật hoá" là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao   động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất,   chứ không bán "lao động". b) Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu  thuẫn về  lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hoá và được trao  đổi ngang giá, thì nhà tư  bản không thu được lợi nhuận (giá trị  thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của qui luật giá  trị thặng dư trong chủ nghĩa tư  bản. Còn nếu hàng hoá được trao  đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ  phủ nhận quy luật giá trị.
  13. c) Nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị.  Nhưng thước đo nội tại của giá trị  là lao động. Như  vậy giá trị  của lao động lại được đo bằng lao động là một điều luẩn quẩn,  vô nghĩa. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho  nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho   công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy, bản chất của tiền công dưới   chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu   hiện ra bề ngoài giá trị hay giá cả của sức lao động. Hình thức chuyển hoá gây ra sự  nhầm lẫn đó do những tình hình sau  đây: a)  Đặc điểm của hàng hoá ­ sức lao động là không bao giờ tách khỏi  người bán, nó chỉ  nhận được giá cả  khi đã cung cấp giá trị  sử  dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư  bản, do đó nhìn  bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho sức lao động. b)  Đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện   để có tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng  mình bán lao động. Còn đối với nhà tư  bản bỏ  tiền ra để  có lao   động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. c)  Lượng của tiền công phụ  thuộc vào thời gian lao động hoặc sản   phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta tưởng lầm rằng tiền  công là giá cả công lao động. Tiền công che đậy mọi giấu vết của sự phân chia ngày lao động thành   thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, thành lao  động được trả  công và lao động không được trả  công, do đó tiền công  che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.  13
  14. Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền  công tính theo sản phẩm. a) Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số  lượng  của nó phụ  thuộc vào thời gian lao động của công nhân ( giờ,  ngày, tuần, tháng ). Vậy cần phân biệt tiền công giờ, công ngày,  công tháng. Tiền công ngày và công tuần chưa nói rõ được mức  tiền công đó thấp hay cao, vì còn tuỳ  theo ngày lao động dài hay   ngắn. Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền công không chỉ căn cứ  vào lượng tiền  mà còn căn cứ  vào độ  dài của ngày lao động và   cường độ  lao động. Giá cả  của một giờ  lao động là thước đo  chính xác mức tiền công theo thời gian. thức hiện chế  độ  tiền  công theo thời gian, nhà tư  bản có thể  không thay đổi công ngày,  công tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao động do kéo dài ngày   lao động hoặc tăng cường độ  lao động. Trả  công theo thời gian  còn có lợi cho các nhà tư  bản khi tình hình thị  trường thuận lợi,   hàng hoá tiêu thụ dễ dàng, thực hiện lối làm việc thêm giờ, tức là   làm việc ngoài số  giờ  quy định của ngày lao động. Còn khi thị  trường không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản xuất, nhà tư  bản  sẽ  rút ngắn ngày lao động và thực hiện lối trả  công theo giờ, do   đó hạ thấp tiền công xuống rất nhiều. Như vấy, công nhân không  những bị thiệt thòi khi khi ngày lao động bị kéo dài quá độ, mà còn  bị thiệt hại khi phải làm việc bớt giờ. b) Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số  lượng  của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ  phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra, hoặc tuỳ  theo  lượng của công việc đã hoàn thành. Mỗi sản phẩm được trả công  theo một đơn giá nhất định. Đơn giá là giá trả  công cho mỗi đơn  
  15. vị sản phẩm đã sản xuất ra, theo giá biểu nhất định. Khi quy định  đơn giá, nhà tư bản tính đến hai yếu tố: tiền công trung bình của  công nhân trong ngày, và số  lượng sản phẩm mà công nhân sản   xuất ra trong ngày. Ví dụ, tiền công tính theo thời gian trong ngày  trung bình là 5USD, và số  lượng sản phẩm do công nhân làm ra   trong ngày là 50 sản phẩm, thì đơn giá của mỗi sản phẩm là:  5USD : 50 = 0,1USD. Do đó, về  thực chất đơn giá tiền công là   tiền công trả  cho thời gian cần thiết sản xuất một sản phẩm. Vì  thế, tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của  tiền công tính theo thời gian. Hình thức tiền công tính theo sản   phẩm che dấu và xuyên tạc bản chất của tiền công hơn cả so với   hình thức tiền công tính theo thời gian. Nó làm cho người ta lầm  tưởng cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là lao động thể  hiện trong sản phẩm và toàn bộ  lao động đã được trả  công. Chế  độ tiền công theo sản phẩm của chủ nghĩa tư bản làm cho cường   độ lao động tăng lên không ngừng. Công nhân buộc phải lao động  khẩn trương hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn để nhận được   số tiền để mua tư liệu sinh hoạt cần thiết. Nhưng, khi đa số đông   công nhân đã đạt được mức cường độ  lao động mới cao hơn, thì  nhà tư  bản lại hạ  thấp đơn giá của mỗi sản phẩm xuống. Đồng  thời, chế dộ tiền công tính theo sản phẩm làm cho nhà tư bản dễ  dàng kiểm soát công nhân, đẻ  ra sự  cạnh tranh giữa công nhân,  buộc công nhân phải nâng cao cường độ lao động, và như vậy làm  tăng giá trị  thặng dư  cho nhà tư  bản. Một trong những chế  độ  quan trọng nhất của tiền công  dưới chủ nghĩa tư bản  là lao động  khẩn trương quá mức. Khi cường độ  lao động vượt quá mức lao  động nào đó, thì bất cứ một sự  bù đắp nào cũng không ngăn cản  15
  16. được sự  phá hoại sức khoẻ  của người lao động. Cái gọi là "tổ  chức lao động" chẳng hạn như chế độ Tay lo (Taylor), và chế độ  Pho (Ford) xét về  mặt phương pháp tiến hành là khoa học, song  xét về thực chất là chế độ tiền công làm kiệt sức người lao động.   Về  mặt lịch sử, tiền công tính theo thời gian được áp dụng rộng  rãi trong giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, còn ở giai  đoạn sau tiền công tính theo sản phẩm được áp dụng rộng rãi.  Hiện nay, hình thức tiền công tính theo thời gian ngày càng được  mở rộng. 4.2 LỢI NHUẬN     Quá trình sản ra giá trị thặng dư chỉ là sự tiêu biểu qua sản phẩm còn   thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào.  Vì công thức chung của tư  bản là T­H­T'  nên mục đích cuối cùng của  nhà tư bản là thu được T' còn m là nền tảng để thu được T' (T' > T). Mác   đã giúp chúng ta giải quyết vấn đề  này vì ông đã tìm ra một đại lượng  biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P). Vậy:  "Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản  ứng trước thì  mang giá trị hình thức biến tướng thành lợi nhuận" từ đó ta có thể thấy P   chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước  c + v. Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu và phân tích chi phí thực tế  xã hội và chi phí sản xuất TBCN xuất phát từ giá trị hàng hoá  c + v + m. Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi   phí cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra   giá trị  mới  (c + m). Đứng trên quan điểm xã hội, quan điểm của người   lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (c + v +  m). Nhưng đối với các nhà tư  bản thì họ  không hao phí thực tế  để  sản  xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không 
  17. tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế, họ chỉ ứng ra   số  tư  bản để  mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí  đó được C.Mác gọi là chi phí tư  bản chủ  nghĩa có sự  chênh lệch nhau  một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần   lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận. Giá trị  hàng hoá lúc này bằng   chi phí sản xuất TBCN cộng   với lợi   nhuận:  Giá trị = k + P. Về mặt lượng, P có nguồn gốc là kết quả của lao động không công của   công nhân làm thuê. Về  mặt chất, P có nguồn gốc như  toàn bộ  tư  bản  ứng trước đẻ ra. Do đó P che giấu quan hệ bóc lột TBCN. che giấu quan   hệ nguồn gốc thực sự của nó. Do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế  cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN   và có thể  thấp hơn giá trị  hàng hoá. Nếu như  nhà tư  bản bán hàng hoá  với giá trị của nó thì  P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá trị của nó thì   P > m , nếu bán với giá trị  nhỏ  hơn giá trị  của nó thì P
  18. vào đâu thì có lợi . Do đó việc thu P và theo đuổi P là động lực thúc đẩy   nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.  Do  mục tiêu là đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư  bản   luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của các  nhà tư  bản được Mác phân chia thành 2 loại : cạnh tranh trong nội bộ  ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong  cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu  thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.  Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt   giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ  tư hữu về  tư liệu   sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và  tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các  xí nghiệp giảm giá trị  cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị  xã hội để  giành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình  quân trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.  Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư  bản  ở  các  ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Ở các ngành  sản xuất  khác nhau có  những  điều kiện khác nhau, do đó tỉ  suất lợi  nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư  bản chọn ngành có lợi nhuận cao để  đầu tư.  C.Mác viết :"Do  ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ  xuất lợi nhu ận   khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số  bình quân của tất cả những tỉ xuất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của   một tư  bản có một lượng nhất định thu được, theo tỉ  xuất lợi nhuận  chung đó, không kể  cấu tạo hiện có như  thế  nào gọi là lợi nhuận bình   quân".
  19. Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật  tỉ  suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư  bản. Sự  hoạt động của quy  luất tỉ  suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ  thể  của sự  hoạt động  của quy luật giá trị thặng dư trong thời kì tự do cạnh tranh của chủ nghĩa  tư bản.  Sự hình thành tỉ xuất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che  giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P' và  P không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư  bản, trái lại   cạnh tranh vẫn tiếp diễn. 4.4 LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP  Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm   được nhờ bán hàng hoá, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. và quá trình   bán này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi  nhuận đó sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp. Khác với tư  bản thương nghiệp trước TBCN, tư  bản thương nghiệp   dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ  phận của tư bản công nghiệp tách rời   ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản  thương nghiệp chỉ hạn chế  ở chức năng mua và bán, nó không sáng tạo  ra giá trị và giá trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ giá trị và giá trị thặng  dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu   thông tạo ra. Nhưng thực chất " lợi nhuận thương nghiệp là một phần  nhường   cho     nhà   tư   bản   thương   nghiệp   ".   Nhà   tư   bản   công   nghiệp  nhường cho nhà tư  bản thương nghiệp một phần bởi vì tư  bản thương   nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai  đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản   xuất không thể  tiếp diễn tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư  bản thương  nghiệp cũng không phải là hoạt động không công được mà họ  cũng đòi  19
  20. hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư  bản công nghiệp phải  nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp.  Vậy "lợi nhuận thương nghiệp là số  chênh lệch giữa giá bán và giá  mua hàng hoá ".   Nhưng điều đó không có nghĩa là  tư bản thương  nghiệp bán hàng hoá  cao hơn giá trị  của nó, mà là nhà tư  bản thương  nghiệp mua hàng hoá  thấp hơn giá trị  và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị  của nó. Vì nhà tư  bản thương  nghiệp tham gia vào việc phân chia m nên đời sống của xã   hội tư bản hình thành hai loại giá cả  sản xuất : giá cả  sản xuất thương  nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che  giấu thêm một bước quan hệ bóc lột TBCN. Do việc phân phối P giữa tư  bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất   lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh  4.5. LỢI TỨC Tư  bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một   người khác sử  dụng trong một thời gian để  nhận được một số  lời nào   đó. số lời đó gọi là lợi tức. Tư bản cho vay dưới thời CNTB  là một bộ phận của tư bản công ngiệp   tách ra . Sở dĩ như vậy là vì sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay   vừa là sự  cần thiết và vừa có khả  năng thực hiện. điều đó được thực  hiện  ở  chỗ  : trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư  bản công  nghiệp , luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà tư bản nhàn rỗi  không sinh lời. Nhưng đối với tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà  tư bản cho vay để kiếm lời , cũng chính trong thời gian đó , có những nhà  tư  bản khác cần tiền. Từ hai mặt trên tất yếu sinh ra sự  vay mượn lẫn   nhau, sinh ra quan hệ tín dụng TBCN.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2