
Tiểu luận
Môn: Kinh tế thương mại
Đề tài:
Vận dụng lý luận và thực tiễn
về thương mại quốc tế, phân tích hóa quá trình
toàn cầu hóa kinh tế và quan điểm chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế Việt Nam: Liên hệ thực tiễn.

Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế lớn, khách quan của thế giới đương đại đang
tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực đời sống nhân loại cũng như mỗi quốc gia, xu thế đó
làm cho mối liên hệ quốc tế, khu vực ngày càng chặt chẽ với những hình thức ngày càng
đa dạng. Sự hình thành và phát triển tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự thực hiện
của xu thế toàn cầu hóa đồng thời thúc đẩy sự phát triển xu thế đó. Công cuộc đổi mới
đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành
tựu lớn lao, đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục
tiêu nói trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối, chính sách vừa phát triển sức
mạnh toàn dân tộc, vừa tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc và thời đại. Việc Việt Nam gia nhập WTO phản ánh một xu thế lớn của thời đại và
khẳng định chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và
đang tổ chức hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là:
Xu hướng đi tới sự hình thành một nền kinh tế thế giới thống nhất trên phạm vi
toàn cầu, trong đó có sự tham gia của hầu hết quốc gia trên thế giới, các quốc gia liên kết
chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và hợp tác kinh tế, có sự lưu thông
các luồng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân lực... dưới sự điều tiết của những
nguyên tắc chung mang tính toàn cầu.
Toàn cầu hóa kinh tế, là giai đoạn phát triển cao của quốc tế hóa tự nó cùng chứa
đựng nhiều mâu thuẫn vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh giữa các quốc gia, giữa các vùng
và giữa các tầng lớp dân cư trong cùng một
quốc gia.
Quan hệ kinh tế quốc tế là mua bán theo thông lệ trong mối quan hệ thương mại
quốc tế, chính sách phát triển và quản lý thương mại quốc tế phải đảm bảo quan điểm chỉ
đạo. Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu hàng
hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng
xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ

thương mại, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả
năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết
bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất.
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và
tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, nhập
khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã
hội của đất nước, đồng thời để quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước
phải ban hành những văn bản quy định cụ thể nhằm thúc đẩy quá trình phát triển thương
mại quốc tế.
Theo tinh thần cơ bản của những quy định pháp lý, nhà nước quản lý thống nhất
mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bằng luật pháp và các chế độ chính sách có
liên quan, mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh của các doanh nghiệp và tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động đúng hướng, đạt hiệu quả
cao. Nhà nước quản lý các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm những hình
thức cơ bản sau:
- Xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hóa, dịch vụ.
- Tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hóa.
- Gia công, chế biến hàng hóa và bán thành phẩm cho nước ngoài hoặc thuê nước
ngoài gia công, chế biến.
- Đại lý bán hàng hóa, ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu cho các
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát
triển và mở rộng thị trường mới và xuất khẩu những mặt hàng mà nhà nước khuyến khích
xuất khẩu.
Hiện nay ở nước Lào, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, chất lượng tốt hơn
hàng hóa sản xuất trong nước. Nhưng nếu ỷ lại vào nhập khẩu sẽ không mở mang được
sản xuất thậm chí còn làm cho sản xuất trong nước bị trì trệ. Vì vậy, cần tính toán và
tranh thủ các lợi thế của đất nước trong từng thời kỳ để tập trung đầu tư sản xuất một số

mặt hàng thực sự có đủ khả năng cạnh tranh tại thị trường trong nước và thị trường khu
vực, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước.
Nhưng phải có các công cụ quản lý thương mại là hình thức vận động và biểu
hiện cụ thể của các phương pháp quản lý thương mại, được chủ thể quản lý vĩ mô sử
dụng để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên các quá trình thương mại hoặc điều chỉnh
hoạt động của các chủ thể kinh tế tham gia vào lĩnh vực thương mại. Hệ thống các công
cụ quản lý thương mại bao gồm: công cụ pháp luật thương mại, công cụ kế hoạch hóa
phát triển thương mại, các công cụ tài chính (lãi suất, thuế, thuế quan, tỷ giá hối đoái, giá
cả, tín dụng, các loại quỹ...). Các công cụ của các chính sách thương mại, các công cụ tổ
chức hành chính thương mại. Công cụ pháp luật thương mại là những đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển thương mại đã được pháp luật
hóa. Trong đó, trước hết và chủ yếu là quy định rõ địa vị pháp lý của các thương nhân,
quy định các điều kiện, thủ tục thành lập, giải thể, phá sản của doanh nghiệp; xác định
các định chế về hình thức hoạt động thương mại, điều chỉnh hành vi thương mại của các
thương nhân; quy định các cơ quan tài phán để xử lý các tranh chấp trong hoạt động kinh
doanh thương mại, bảo vệ lợi ích chính đáng của các thương nhân, của người tiêu dùng...
Công cụ kế hoạch hóa định hướng phát triển thương mại được chủ thể quản lý
kinh tế vĩ mô sử dụng để hướng dẫn thị trường và hoạt động thương mại của các thương
nhân, hướng thị trường và các quá trình thương mại trong nước và nước ngoài tiến tới thế
cân bằng mới theo yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Đồng thời,
công cụ này cũng định hướng hoạt động của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh
tế, thông qua sử dụng các đòn bảy kinh tế và lực lượng vật chất để đảm bảo tổng cung,
tổng cầu của nền kinh tế quốc dân, xác lập thể chế cân bằng hợp lý trong cán cân thương
mại quốc tế.
Các công cụ tài chính được nhà nước sử dụng để quản lý và định hướng phát
triển thương mại theo các phương diện và mục tiêu như: các công cụ lãi suất ngân hàng,
lãi suất đầu tư và sử dụng vốn vay ưu tiên phát triển các ngành hàng định hướng xuất
khẩu hoặc thay thế nhập khẩu, các ngành hàng thiết yếu và có tác động đến những cân
đối lớn của nền kinh tế, ổn định thị trường trong nước. Công cụ ngân sách nhà nước được

sử dụng trực tiếp đầu tư hoặc gián tiếp đầu tư bằng chi tiêu hoặc mua sắm của Chính phủ
cũng như phát triển các dịch vụ công hỗ trợ hoạt động thương mại của các thương nhân.
Thuế và thuế quan vừa là công cụ tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa là công cụ
để điều chỉnh kinh tế vĩ mô, điều tiết kinh doanh, lưu thông hàng hóa trong nước và điều
tiết xuất nhập khẩu, công cụ phân phối thu nhập được nhà nước sử dụng để phân phối lợi
nhuận trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh
tế.
Công cụ giá cả được nhà nước sử dụng để quy định mức giá hoặc khung giá, giá
giới hạn (giá trần, giá sàn) đối với một số hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất thiết yếu, là
yếu tố đầu voà như điện, nước, xăng dầu, cước phí bưu chính viễn thông, cước phí giao
thông... đồng thời công cụ này cũng được nhà nước sử dụng để trợ giá, bù giá cho các
doanh nghiệp khi gặp rủi ro hoặc khó khăn. Công cụ tỷ giá hối đoái được sử dụng để ổn
định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường trong nước, kích thích xuất khẩu, xác lập cán cân
thương mại hợp lý trong từng thời kỳ.
Các công cụ của chính sách thương mại: Để thực hiện chính sách thương mại,
nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau, công cụ của chính sách
thương mại là các mô thức đã được lượng hóa để thể hiện và thực hiện các nội dung và
mục tiêu cụ thể của chính sách thương mại. Theo tính chất có thể chia thành công cụ và
biện pháp mang tính chất kinh tế, hành chính và kỹ thuật. Theo mục đích sử dụng có thể
chia thành các công cụ, biện pháp nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển
thương mại, kích thích thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, hạn chế kinh doanh hoặc
kinh doanh có điều kiện. Đối với các công cụ của chính sách ngoại thương, thông thường
người ta chia thành công cụ thuế quan (biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu) và các
công cụ, biện pháp phi thuế.
Các công cụ thường được sử dụng để thực hiện chính sách và quản lý thương mại
là:
- Công cụ thuế, bao gồm các loại biểu thuế như biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu, biểu thuế VAT, biểu thuế tiêu thụ đặc biệt và biểu thuế thu nhập doanh
nghiệp.