ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA TRÀN DỊCH MÀNG TIM

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: tràn dịch màng tim là vấn đề về tim phổ biến nhất trong

bệnh lý ác tính. Khi có chèn ép tim thì biểu hiện lâm sàng thường nặng nề,

ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân. Mục đích điều trị là nhanh chóng cải

thiện lâm sàng cho bệnh nhân, đồng thời tránh tái phát. Có nhiều biện pháp

điều trị từ nội khoa đến can thiệp tối thiểu như chọc hút đến phẫu thuật.

Mục tiêu nghieân c#ùu: đánh giá kết quả sớm phẫu thuật mở cửa sổ

màng tim điều trị tràn dịch màng tim.

Phương pháp: nghiên cứu hồi cứ caét ngang

Kết quả: từ tháng 10/2003 đến tháng 08/2006, tại khoa ngoại lồng

ngực – mạch máu bệnh viện Nhân Dân Gia Định, chúng tôi đã phẫu thuật

được 18 bệnh nhân. Tất cả đều do di căn từ ung thư nơi khác. Kết quả đạt tốt

gặp ở 10 bệnh nhân, trung bình 7 bệnh nhân, có 1 trường hợp tử vong.

Kết luận: phẫu thuật mở cửa sổ màng tim điều trị có hiệu quả các

trường hợp tràn dịch màng tim, giúp bệnh nhân cải thiện triệu chứng lâm

sàng, tránh tái phát.

ABSTRACT

Introduction: Pericardial effusion (PE) is the most common cardiac

problem among the cardiac complications of malignant diseases. The

clinical presentation is often severe and even life threatening in the presence

of cardiac tamponade. The goal of treatment is to promptly reduce the

cardiac compression for the patient and to prevent recurrence of effusion.

There are many options for treatment of PE, such as medicines solely,

pericardialcentesis, pericarditomy, and pericardiectomy.

Objective: Evaluate the early results of partial pericardiectomy for

treatment of malignant pericardial effusion (pericardial effusion due to

malignant causes).

Method: descriptive retrospection.

Results: 18 patients underwent partial pericardiectomy from October,

2003 to August, 2006 at the Thoracic and Vascular Surgery Department of

the Nhan Dan Gia Dinh Hospital, HCMc. All the cases of PE were

secondary from cancers of other organs (mostly from cancer of the lungs and

breasts). The good result was found in 10 patients, moderate in 7 patients,

death was found in one patient.

Conclusion: Partial pericardiectomy surgery is effective for

malignant pericardial effusion, it helps ameliorate the patients’ clinical states

and prevent effusive recurrence.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tràn dịch màng tim (TDMT) là do tốc độ tạo dịch màng tim lớn hơn

tốc độ tái hấp thu. TDMT có thể là tơ huyết, mủ, hoặc máu hoặc kết hợp của

cả ba loại này. Hơn 75% TDMT thứ phát từ ác tính, hầu hết là ung thư phổi,

vú, lymphoma. Các nguyên nhân lành tính gây TDMT gồm: viêm màng tim

cấp (đặc biệt do virus, nguyên phát, sau phẫu thuật tim, chấn thương), vỡ

phình động mạch chủ lên hoặc bóc tách, xạ trị, nhồi máu cơ tim, bệnh lý

đông máu (2).

Chức năng bình thường của tim và tuần hoàn bị ảnh hưởng khi dịch

làm tăng áp lực trong khoang màng tim ảnh hưởng đến đổ đầy tâm trương.

Chèn ép tim trung bình chỉ làm tăng áp lực tĩnh mạch trung ương với huyết

áp động mạch còn bình thường, do suy chức năng tâm trương có thể bù trừ

đầy đủ nhờ tăng tần số tim. Chèn ép tim nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến đổ

đầy tâm trương vượt quá khả năng bù trừ của tim, biểu hiện trên lâm sàng là

hội chứng chèn ép tim cấp với tam chứng Beck.

Tràn dịch màng tim và nhất là khi có chèn ép tim đe dọa mạng sống

bệnh nhân cho nên phải điều trị cấp cứu và hữu hiệu. Rút dịch qua chọc dò

xoang màng tim bằng kim lớn là hành động cấp cứu đầu tiên, tiếp theo có

thể mổ mở màng tim để dẫn lưu dịch. Có nhiều phương thức để mổ dẫn lưu

khoang màng tim: qua đường ngực trái, đường giữa dưới mũi ức, nội soi

lồng ngực có hỗ trợ video. Sự lựa chọn phương pháp nào tùy thuộc vào tình

trạng bệnh nhân, ê kip phẫu thuật viên – phòng mổ, thói quen phẫu thuật

viên.

MỤC TIÊU NGHiên cứu

Nghiên cứu đánh giá kết quả sớm phẫu thuật mở cửa sổ màng tim

điều trị tràn dịch màng tim.

ĐỐI TƯỢNG–PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu hồi cứu, mô tả các trường hợp tràn dịch màng tim có điều

trị phẫu thuật tại khoa ngoại Lồng ngực-mạch máu- tiết niệu bệnh viện Nhân

Dân Gia Định từ tháng 10/2003 đến tháng 08/2006.

KẾT QUẢ

Trong thời gian từ tháng 10/2003 đến tháng 08/2006, chúng tôi đã

phẫu thuật được 18 trường hợp tràn dịch màng tim, ghi nhận các kết quả sau:

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng

Giới tính

Gồm có 9 nữ và 9 nam

Tuổi bệnh nhân

Độ tuổi Số BN

20 – 40 2

40 – 60 10

> 60 6

Bệnh lý gốc

Bệnh gốc Số BN

Ung thư vú 7

Ung thư phổi 9

U ác tuyến ức 1

Ung thư thực quản 1

Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng Số

BN

Mệt, khó thở 18

Đau ngực 6

Nhịp tim > 100l/phút 13

Tiếng tim mờ 11

6 Tĩnh mạch cổ nổi

4 Mạch nghịch

3 Tụt huyết áp

Hình ảnh X quang ngực

Bóng tim lớn:18/18

Tràn dịch màng phổi: một bên: 8/18 hai bên: 7/18

Tổn thương phổi: 6/18

Điện tâm đồ ECG

Tất cả 18 BN đều có bất thường trên ECG (điện thế QRS thấp)

Siêu âm tim:

Lượng trung bình:5/18

Lượng nhiều: 13/18

Có fibrin:1/18

Dấu đè sụp thất P: 7/18

Điều trị

Chọc hút dịch màng tim: có 12 trường hợp được chọc hút dịch màng

tim để giải áp tim trước khi tiến hành phẫu thuật

Phẫu thuật: có 1 trường hợp mổ cắt màng tim qua mở ngực T do mủ

màng tim, còn lại 17 trường hợp được mở cửa sổ màng tim. Chọn lựa

phương pháp được ghi nhận như sau:

Phương pháp Số

BN

Qua đường ngực T 7

Qua đường ngực P 1

Qua nội soi lồng ngực 9

Các trường hợp nội soi được gây mê nội khí quản hai nòng, trường hợp

cắt màng tim được gây mê thường, các trường hợp còn lại là gây tê tại chỗ.

Một trường hợp mở cửa sổ màng tim bên ngực phải là do trước đó đã

gây dính màng phổi trái do tràn dịch màng phổi traùi tái phát nhiều lần.

Tính chất dịch: chỉ có 1 trường hợp là tràn mủ màng tim (BN K thực

quản), còn lại 17 trường hợp ghi nhận dịch đỏ như máu.

Kết quả nghiên cứu

Thời gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu thuật:

< 5 ngày: 7/18 > 5 ngày: 11/18

Thời gian nằm viện:

<10 ngày: 5/18 >10 ngày: 13/18

Kết quả:

Kết quả Số BN

Tốt 10

Trung bình 7

Tử vong 1

Chúng tôi đánh giá kết quả tốt khi bệnh nhân cải thiện triệu chứng lâm

sàng hoàn toàn, xuất viện về. Kết quả trung bình khi bệnh nhân cải thiện lâm

sàng một phần, chuyển bệnh viện ung bướu. Một trường hợp tử vong là do

trong mổ có rối loạn huyết động, sau mổ diễn tiến xấu đi và tử vong vào

ngày hậu phẫu thứ 20.

BÀN LUẬN

Tràn dịch màng tim là bệnh thường gặp trong nội, ngoại khoa. Nhiều

trường hợp tràn dịch tự hết sau khi điều trị nội khoa từ những bệnh như

nhiễm trùng, tăng ure máu, suy tim xung huyết, nhược giáp, rối loạn miễn

dịch. Một số khác từ chấn thương tim gây tràn máu, từ nhiễm trùng gây

viêm mủ, từ ung thư di căn thì thường phải can thiệp ngoại khoa. Tràn dịch

màng tim là vấn đề về tim phổ biến nhất trong bệnh ác tính và được báo cáo

1,5% - 21% của các trường hợp ung thư, mà hầu hết những trường hợp trên

là do ung thư ở vú hay ở phổi, một số ít là do ung thư bạch huyết,

melanoma, lymphoma. Những nguyên nhân hiếm hơn: thực quản, dạ dày,

đại tràng, hầu họng, tuyến tiền liệt, buồng trứng. U nguyên phát của màng

tim là hiếm và bao gồm mesothelioma, fibrosarcoma,angiosarcoma,

teratoma ác(2).

Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 18 bệnh nhân TDMT

đều là do di căn từ bệnh ung thư, mà 16/18 bệnh nhân là từ ung thư vú và

phổi. Giáo sư Văn Tần, qua nghiên cứu 3 năm tại bệnh viện Bình Dân, cũng

cho thấy 100% là do di căn từ bệnh ác tính, trong đó ung thư vú chiếm đến

15/18 bệnh nhân(2).

Các triệu chứng của TDMT là khó thở, ho, đau ngực. Khám thấy tim

nhanh, mạch nghịch, tiếng tim mờ, TM cổ nổi, hạ áp. Chèn ép tim là khi

lượng dịch tạo lập nhanh hoặc khi quá nhiều vượt khỏi khả năng đàn hồi của

màng bao tim, trên lâm sàng thể bằng tam chứng Beck: tĩnh mạch cổ nổi,

tiếng tim mờ, tụt huyết áp.

X quang ngực thường cho thấy bóng tim lớn, nở rộng trung thất có tổn

thương ở phổi; nhưng một X quang ngực bình thường không loại trừ TDMT.

ECG cho thấy nhanh xoang, điện thế thấp, ST không đặc hiệu, thay đổi sóng

T.

Siêu âm tim là phương tiện hữu hiệu nhất để chẩn đoán TDMT. Siêu

âm tim giúp đánh giá tràn dịch lượng ít (khi chỉ hiện diện sau buồng thất T),

lượng trung bình (khi có trước thất P), lượng nhiều (khi có ở tất cả khoang

MT trong suốt cả chu chuyển tim) hoặc tràn dịch khu trú. Siêu âm tim giúp

chẩn đoán có chèn ép tim hay không dựa vào dấu đè sụp thất phải, và cũng

hướng dẫn để chọc hút dịch màng tim giải áp hoặc để chẩn đoán tế bào học. CT

và MRI cho hình ảnh chi tiết tuyệt vời tuy nhiên lại không khảo sát được về mặt

chức năng.

Điều trị TDMT mà chưa có ảnh hưởng huyết động có thể hướng trực

tiếp đến nguyên nhân gây bệnh. Có nhiều biện pháp can thiệp dùng riêng lẻ

hay kết hợp nhưng mục đích chính là làm mất khoang màng tim. Tình trạng

bệnh nhân, bệnh phối hợp, giai đoạn ác tính, tiên lượng và đáp ứng điều trị ung

thư khác ảnh hưởng đến các chọn lựa này.

Chỉ định của chọc hút dịch màng tim khi chưa có chèn ép tim là để

làm giảm khả năng tạo mủ đòi hỏi phải phẫu thuật sau đó; phân biệt tràn

dịch do u ở bệnh nhân ung thư hay là do phản ứng sau hóa trị hay xạ trị; để

thực hiện chẩn đoán chính xác tế bào học trong những trường hợp chưa rõ

ràng nhằm chọn lựa phương pháp điều trị tiếp theo(3). Chọc hút dịch màng

tim giúp giải áp khoang màng tim thường được thực hiện dưới huớng dẫn

của siêu âm, giúp ổn định huyết động nhanh nhưng tái phát cao, lên đến 25%.

Qua chọc hút dịch màng tim, có thể đặt catheter vào khoang màng tim để dẫn

lưu dịch và gây dính màng tim sau này để tránh tái phát. Các tác nhân gây dính

thường là: thiotepa, tetracyclines, bleomycin, aclarubicin, 5-fluorouracil, sau này

là Polyvidone Iodide... Gây dính khoang màng tim thành công trên 80%. Chọc

hút dịch màng tim có thể khó khăn nếu tràn dịch khu trú hay mủ, và cũng có thể

gây tử vong hoặc biến chứng nếu đâm vào buồng tim, tĩnh mạch chủ dưới, hay

mạch vành(1).

Khi chọn lựa ít xâm lấn thất bại, phẫu thuật được áp dụng cho các trường

hợp thích hợp. Sự lựa chọn của phẫu thuật là riêng lẻ và tùy theo mỗi trường

hợp. Mở cửa sổ màng tim theo đường dưới mũi kiếm xương ức được sử dụng

rộng rãi nhất. Đường dưới mũi ức hữu ích ở những bệnh nhân cần vô cảm tại

chỗ. Một đường rạch da giữa 3-4cm trên và dưới mũi ức, bóc tách ra sau và lên

trên để thấy màng tim trên cơ hoành. Khoang màng tim được mở ra và dẫn lưu

dịch, ống dẫn lưu được đặt dưới xương ức.Tỷ lệ thành công trên 90%(3).

Đường mở ngực trái cho phép nhìn rõ hơn, thám sát tốt hơn và cắt

màng tim rộng hơn. Đường mổ có thể được mở rộng để cắt màng tim khi

cần thiết, lúc này vô cảm toàn thân đưọc yêu cầu, sau mổ sẽ đau hơn(3).

Hiện nay, vôùi sự phát triển của phẫu thuật nội soi lồng ngựcđã mang

lại nhiều lợi ích: ít đau sau mổ, mở màng tim và cắt 1 phần màng tim được

thực hiện dễ dàng mặc dầu khả năng thám sát khoang màng tim có giới hạn,

dễ thực hiện sinh thiết trong những trường hợp còn nghi ngờ nhờ quan sát

được cả khoang lồng ngực. Tuy nhiên bất lợi của nội soi lồng ngực là vô

cảm toàn thân và thông khí phổi chọn lọc. Vì thế phải chọn lựa bệnh kỹ càng

hơn(3).

KẾT LUẬN

Tràn dịch màng tim (nhất là do ung thư di căn), hiện nay đã được giải

quyết khá tốt. Trong thời gian gần 3 năm, chúng tôi đã gặp 18 trường hợp

mà đa số là do ung thư phổi và vú di căn đến.

Định bệnh không khó nhờ bệnh cảnh lâm sàng rõ.

Điều trị gồm chọc hút giải áp tim tạm khi có chèn ép tim để chuẩn bị

phẫu thuật mở cửa sổ màng tim.

Kết quả điều trị khá tốt, hầu hết cải thiện được triệu chứng lâm sàng.