Đôi điều về các ước tính kế toán
trong báo cáo tài chính
Khái niệm “ước tính kế toán” đề cập tới các khoản mục trên báo
cáo tài chính (BCTC) mà giá tr của chúng được ước tính chứ
không thể đo lường một cách chính xác bằng các công thức toán
học
Ví dụ về các khoản ước tính kế toán gồm có khấu hao tài
sản cố định, dự phòng phải thu khó đòi, các phương pháp hạch
toán hàng tồn kho, ước tính giá trị lợi thế thương mại… Để đưa
ra các ước tính này, người lập BCTC phải sử dụng các “xét đoán
nghề nghiệp”. Vì là các xét đoán nên mang nặng tính chủ quan,
khó có một tiêu chuẩn nào để đánh giá tính hợp lý cả. Chính vì
vậy, tính tin cậy của các ước tính kế toán là một vấn đề được
người sử dụng báo cáo tài chính đặc biệt quan tâm.
Trên thực tế tồn tại một quan điểm cho rằng vic cho phép
người lập BCTC sử dụng các xét đoán chủ quan khi lập báo cáo
sẽ làm gim độ tin cậy của thông tin tài chính, vì có khả năng
người lập BCTC sẽ tìm cách che gi
ấu những thông tin quan trọng
nếu những thông tin đó có ảnh hưởng không tốt đến quyền lợi
của họ. Lập luận này không hẳn là không có lý, thc tế đã chứng
minh “nỗ lực” phù phép báo cáo tài chính là có thực v
à ngày càng
tinh vi hơn[1]. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng cần
phải hạn chế, thậm chí loại bỏ hoàn toàn vic sử dụng các xét
đoán chủ quan khi lập BCTC. Bất chấp những chỉ trích này, việc
sử dụng các ước tính kế toán trong BCTC không những không bị
loại bỏ mà còn có chiều hướng ngày càng gia tăng với việc kế
toán theo “giá tr hợp lý” ngày càng lấn lướt kế toán theo “giá
gốc”.
Sự cần thiết phải có các ước tính kế toán
Rõ ràng nguy cơ sử dụng các ước tính kế toán để phản ánh sai
lệch thông tin tài chính là có thực, vậy mà người ta vẫn không t
ìm
cách loại bỏ chúng. Điều đó cho thấy việc sử dụng các ước tính
này hẳn là có mang lại những lợi ích nhất định. Dưới đây là một
số nguyên nhân vì sao xét đoán chủ quan vẫn được sử dụng
rộng rãi trong lập BCTC, bất chấp những lo ngại về khả năng
“phù phép” báo cáo tài chính.
Thứ nhất, việc loại bỏ hoàn toàn các ước tính chủ quan là
không khả thi và thiếu hiệu quả kinh tế.
Thử tưởng tượng nếu chúng ta không cho phép các doanh
nghiệp được tự xác định tỷ lệ khấu hao tài sản của mình. Khi đó
chế độ kế toán sẽ phải cực kỳ chi tiết, lit kê tất cả các tình hu
ống
có thể và xác định tỷ lệ khấu hao tương
ứng để các doanh nghiệp
theo đó mà áp dụng. Điều này là không khả thi cả về mặt kinh tế
lẫn kỹ thuật. Giả sử về mặt kỹ thuật ta có thể xây dựng được một
chế độ kế toán chi tiết như vậy thì các doanh nghiệp cũng gặp rất
nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Tình hình kinh doanh thay đổi
theo từng ngày, các doanh nghiệp sẽ phải luôn đối chiếu với
những quy định chi tiết trong luật để thay đổi tỷ lệ khấu hao cho
kịp thời. Các cơ quan hành pháp cũng sẽ rất vất vả để bảo đảm
các doanh nghiệp tuân thủ đúng chế độ (luật phức tạp như vậy
mà không có hthống hành pháp tốt thì chắc chắn sẽ không
doanh nghiệp nào tuân theo). Mới chỉ có khấu hao tài sản mà đã
phức tạp như vậy, nếu xây dựng một hệ thống luật chi tiết cho tất
cả các khoản mục khác trên BCTC thì rõ ràng là không khthi và
không hiệu quả.
Ngoài các chi phí trực tiếp như trên, chí phí gián tiếp còn có th
lớn hơn nhiều lần. Một chế độ kế toán “cứng” (không có chcho
các xét đoán chủ quan khi lập BCTC) có thể có ảnh hưởng tiêu
cực tới các chính sách sản xuất, đầu tư, tài chính của doanh