Đôi điều về đào tạo báo chí ở Học việno chí và Tuyên truyn
1. Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người có một quan niệm dường như đã được
“mặc định” là: công tác đào tạo báo chí ở nước ta thực chất chỉ là hình thc, không
hiệu quả, không gắn với thực tiễn. Đã có không ít những ý kiến dưới dạng những
“phán quyết: việc đào tạo đại học báo chí trong các nhà trường đang thực sự “có
vấn đề”: Quy trình đạo tạo quá nặng về lý thuyết; giáo trình cũ kỹ, lạc hậu; giảng
viên không có nghề báo, thậm chí có người còn không biết viết báo; sinh viên tốt
nghiệp ra trường chỉ có khoảng 15 20% làm việc được, còn hầu như không thể
thích ứng với nghề báo v.v.
Cũng đề cập đến vấn đề này, cách đây chưa u, một bài báo trên mạng đã mđầu
như thế này: “Giáo trình cũ kỹ. Phương pháp đào tạo không gắn liền với thực tiễn
đời sống. cả những giáo viên giảng dạy chuyên ngành báo chí nhưng không
(hay không viết nổi) một cái tin theo đúng nghĩa?… Hậu quả là sinh viên ra
trường hồ, non nớt về nghề nghiệp nên rt khó kiếm việc làm. Không ít Tổng
biên tập tuyên bthẳng thừng là không muốn nhận sinh viên tốt nghiệp tại các lò
đào tạo chuyên ngành báo chí”. Thậm chí, còn có ý kiến cho rằng: “Bốn khoa báo
chí tại các trường đại học thì đang trong một cuộc khủng hoảng hình ảnh vì sản
xuất ra quá nhiều cử nhân báo chí và quá ít nhà báo (như nhà báo Đinh Phong
từng nói). Các lớp học Hội Nhà o hiếm hoi. Một số dự án nước ngoài như
SIDA có đem lại hiệu quả nhưng cũng chỉ như muối bỏ biển”.
Cũng cần phải nói ngay rằng những ý kiến nêu trên không phải không ít nhiều có
cơ s thực tiễn. Tuy nhiên, để thể có những đánh giá, nhận xét xác đáng về thực
trạng của công tác đào tạo, bồi dưỡng báo chí ở nước ta hiện nay, lẽ cần phải có
sự tìm hiểu, nghiên cu kỹ lưỡng trên nhiều phương diện như: chương trình, giáo
trình, phương thức, quy trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, phương pháp giảng dạy,
đối tượng học v.v. Nói cách khác, cần phải hiểu đầy đủ và hiểu đúng thì mới có
sở thực tiễn cho việc trao đổi, bàn luận.
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không có ý định trao đổi, tranh luận mà chỉ nêu
lên thực tế của phương thức đào tạo báo chí đã được thực hiện từ nhiều năm qua
tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền để các nhà nghiên cứu và đồng nghiệp cùng
tham khảo.
2. Trước hết, xin bắt đầu từ việc nhìn nhận một cách khái quát về thực trạng công
tác đào tạo, bồi dưỡng báo chí ở nước ta. Sau nhiều lần thay đổi, cải tiến chương
trình và phương pháp dạy và học, ở nước ta hiện đangnhững phương thức đào
tạo, bồi dưỡng báo chí sau đây:
Thứ nhất là cách đào tạo theo phương thức truyền thống. Theo đó, trước hết người
học phải học lý thuyết. Phần này có thể có thời lượng lớn trong toàn khóa học.
Phần thực hành được thể hiện tập trung trong các đợt kiến tập cuối năm học và ch
yếu nhất là trong đợt thực tập cuối khóa (kết hợp với việc làm khóa luận hoặc ôn
thi tốt nghiệp). Có thể thấy hầu hết chương trình của các cơ sở đào to báo chí bậc
đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay đều theo phương thức này. Cũng do có thời
lượng lý thuyết lớn nên có thể gọi đây là phương thức đào tạo chú trọng trang bị
lý thuyết.
Thứ hai là phương thức tiếp thu được từ các chuyên gia nước ngoài đã đến nước ta
để giảng dạy, trao đổi nghiệp vụ hoặc tham gia các hội thảo khoa học về đào tạo
báo chí. So với phương thức thứ nhất, phương thức này chú trọng rèn luyện về các
kỹ năng thực hành.
Trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí (thường là ngắn hạn) ở nước
ta do các chuyên gia nước ngoài trực tiếp giảng dạy, phần thực hành rất được c
trọng. Ở đó, sau phần khai giảng được tiến hành rất ngắn gọn, giảng viên chỉ dành
một ít thời gian để thày trò làm quen với nhau. Tiếp đó là một số nội dung
thuyết được giới thiệu sơ lược. Tất cả những nội dung trên chỉ diễn ra trong
khoảng một buổi hoặc nhiều lắm cũng chỉ là trong ngày đầu tiên của khóa học.
Sau đó, học viên đăng ký đề tài cho các tác phẩm báo chí (hoặc chương trình phát
thanh, truyền hình) sthực hiện để giảng viên góp ý. Hầu hết thời gian còn lại của
khóa học chủ yếu là dành cho học viên đi thực tế sáng tạo tác phẩm, xây dựng
chương trình và đem sản phẩm về cho giảng viên sửa chữa, nhận xét, góp ý...
Một số lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngắn hạn do các trung tâm bồi dưỡng báo
chí của các Hội nhà báo Trung ương và địa phương hoặc của các cơ quan báo chí
tự tổ chức hầu hết được thực hiện theo phương thức này. Trong đó, các giảng viên
(thường là các nhà báo được mời đến giảng dạy) chỉ tập trung cho kỹ năng thực
hành chứ hầu như không quan tâm nhiều đến lý thuyết.
Có ththấy cả hai phương thức nêu trên đều có những ưu điểm, hạn chế riêng và
chỉ phù hợp với những đối tượng học viên cụ thể. Phương thức thứ nhất nhìn
chung là vẫn thích hợp với đối tượng là sinh viên trẻ được tuyển lựa qua các kỳ thi
đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phương thức thứ hai chỉ phát huy ưu thế nếu
học viên là nhng người lớn tuổi hơn, có đầy đủ phương tiện nghiệp vụ và đã
kinh nghiệm thực tế do đang làm việc tại một cơ quan báo, đài.
Mỗi phương thức nêu trên, tnó đã tạo ra một đội ngũ giảng viên báo chí với
những phẩm chất nghề nghiệp không hoàn toàn giống nhau. Tại các cơ sở đào to
đại học, cao đẳng báo chí, khá phổ biến tình trạng các giảng viên tuy nắm vững
các kiến thức lý luận nhưng do ít khi (hoặc thậm chí là không) tham gia làm báo,
viết báo nên kỹ năng thực hành rất kém, thậm chí là không có. Do kém vk
năng, nhiều giảng viên không có khả năng hướng dẫn sinh viên thực hành một
cách thực sự có chất lượng. Sinh viên sau khi ra trường tuy được trang bị nhiều
thuyết nhưng do thiếu kỹ năng nên vẫn lúng túng trong quá trình tác nghiệp trong
thực tế, vì vậy không đáp ứng ngay được nhng đòi hỏi thường là rất cao của các
cơ quan báo chí. Từ đó, dẫn đến những nghi ngờ về chất lượng đào tạo của các
nhà trường như những ý kiến đã nêu trên.
Trong khi đó, đội ngũ giảng viên là các nhà báo các lớp bồi dưỡng ngắn hạn tuy
rất giàu kinh nghiệm và thực tiễn làm báo, nhưng lại rất yếu (hoặc thậm chí là
không nắm vững) lý thuyết. Do đó, khi giảng dạy họ thiên về việc truyền đạt kinh
nghiệm cá nhân theo kiểu truyền nghề và yêu cu người học phải có tác phẩm để
góp ý, nhận xét, sửa chữa. Với đội ngũ này, người học được rèn luyện nhiều về kỹ
năng nhưng do không được trang bị những tri thức lý luận cần thiết nên nhiều khi
rất lúng túng nếu muốn cắt nghĩa, lý giải một cách rõ ràng về công việc hoặc về
tác phẩm do chính họ làm ra. Điều này cũng còn là nguyên nhân dẫn đến những
cuộc tranh luận gay gắt không có hồi kết (chẳng hạn như những tranh luận xung
quanh các thể loại trong các kỳ liên hoan phát thanh, truyền hình ở địa phương,
Trung ương và kể cả trong Giải báo chí toàn quốc).
3. Trên cơ sở nhận thức được những ưu thế và nhược điểm của cả hai phương thức
nêu trên, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong nhiều năm qua, nhiều giảng
viên đã chủ động triển khai chương trình đào tạo theo một phương thức khác.
Điểm nổi bật của phương thức này là vừa chú trọng lý thuyết, vừa tăng cường
phần thực hành. Vẫn là trên cơ sở khung chương trình đã được Bộ Giáo dục và
Đào tạo phê duyệt, các môn học được thiết kế với thời lượng thực hành tăng lên
đáng kể. Trong các môn học về sáng tạo tác phẩm báo chí, tlệ thông thường là:
lý thuyết 50% và phần thực hành 50%. Vi những môn học phải sử dụng máy
móc, thiết bị kỹ thuật chuyên ngành - nhất là các môn học về sáng tạo tác phẩm
báo chí của các chuyên ngành báo in, báo ảnh, phát thanh, truyền hình, báo mạng
điện tử và quay phim truyền hình, phần thực hành có thđược tăng lên đến 70,
80% trong tổng thời lượng của môn học.
Ưu điểm của phương thức này là phần thực hành được thể hiện không chỉ trong cả
khóa học mà ngay trong từng học phần. Thậm chí, ngay cả trong hình thức đánh
giá kết quả học phần (thi hết môn) cũng là bằng tác phẩm thực hành. Do đó, sinh
viên được trang bị không chỉ về lý thuyết mà còn về những kỹ năng thực tiễn (dù
chỉ là ở mức ban đầu) nên không quá b ngỡ khi bước chân vào cơ quan báo chí.
Có thlấy ví dụ với môn “Phóng sự phát thanh”. Môn học này hiện có tổng thời
lượng là 60 tiết (4 đơn vị học trình). Trong đó, giảng viên chdành từ 15 đến 20
tiết cho việc giảng lý thuyết và thảo luận trên lớp và 10 tiết (hai buổi) để mời các
nhà báo phát thanh nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm đến báo cáo, trao đổi với sinh
viên. Toàn bộ thời gian còn lại sẽ dành cho sinh viên đi làm tác phẩm thực hành