intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồng tiền qua các thời đại

Chia sẻ: Thethu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:2

83
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiền ra đời do nhu cầu phát triển kinh tế của con người, nó hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại, để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con người. Đồng tiền không chỉ quan trọng với mỗi cá nhân mà còn là sức mạnh kinh tế của cả dân tộc. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Đồng tiền qua các thời đại" dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồng tiền qua các thời đại

  1. Đồng tiền qua các thời đại --- Vũ Hữu Sự --- Dài ngắn .... tròn vuông Ca dao ta có câu: Chị kia có quan tiền dài Có bị gạo nặng coi ai ra gì? Đã có "quan tiền dài" thì liệu có "quan tiền ngắn" hay không? Xin thưa: Có đấy! ở Việt Nam ta, đồng tiền của tất cả các triều đại phong kiến thời trước (trừ thời Hồ Quý Ly là dùng tiền giấy) đều là tiền kim khí, được đúc bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng kẽm hoặc đồng pha kẽm, pha thiếc. Phổ biến nhất trong dân gian là tiền đồng. Tiền hình tròn, có lỗ vuông ở giữa (khổng phương). Người xưa quan niệm trời tròn, đất vuông (trời xanh như tán lọng tròn; đất kia chằn chặn như bàn cờ vuông), nên đồng tiền đúc ngoài tròn trong vuông là tượng hình trời đất. Trời thuộc dương, đất thuộc âm. Do đó hình dáng đồng tiền cũng hàm ý một biểu tượng âm dương. Nó phản ánh một triết lý có truyền thống lâu đời của người Việt: Triết lý vuông tròn. Nói "vuông tròn" là nói đến sự hoàn thiện, sự trọn vẹn. Ta có thể gặp trong ca dao, trong tục ngữ và cả trong thơ Việt Nam rất nhiều câu có hai từ vuông tròn đã bị rút nghĩa thực để thay vào đó là một nghĩa khác): Lạy trời cho đặng vuông tròn Trăm năm cho trọn lòng son với chàng! Hay là: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn Khuôn xanh biết có vuông tròn mà haỵ Đồng tiền ngoài tròn trong vuông đó, về diện tích, bao giờ cũng có tỷ lệ bẩy phần tròn, ba phần vuông. Thế nên mới có câu: Ba vuông sánh với bẩy tròn Đời cha vinh hiển, đời con sang giầu Từ thời Lê, ở ta có hai loại tiền, đều gọi là "quan" cả, nhưng giá trị khác nhau. Tiền quý và tiền gián. Về giá trị, một quan tiền quý (còn goị là cổ tiền) bằng 10 tiền, mỗi tiền là 60 đồng. Như vậy một quan tiền quý bằng 600 đồng. Một quan là sáu trăm đồng; Chắt chiu ngày tháng cho chồng đi thi (Ca dao) Tiền gián (còn gọi là sử tiền) chỉ có 6 tiền, mỗi tiền cũng 60 đồng. Một quan tiền gián chỉ có 360 đồng. Vì tiền là tiền đúc, cho nên người ta phải lấy dây xâu tiền thành chuỗi (sử ghi rằng quyền thần Trương Phúc Loan thời chúa Nguyễn Phúc Dương nhiều tiền đến nỗi các dây xâu tiền mục ra, hàng năm y bắt dân phải nộp tới... 50 gánh dây mây chỉ để xâu tiền). Quan tiền quý (600 đồng) xâu thành chuỗi chắc chắn phải dài hơn quan tiềngián (360 đồng). Thế nên nói "quan tiền dài" là nói "quan tiền quý". "Quan tiền ngắn" tức là "quan tiền gián". Xung quanh chuyện"quan ngắn, quan dài" có một giai thoại rất hay. Một hôm, "bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương hỏi vay Chiêu Hổ (một danh sĩ đương thời, bạn thân của bà) năm quan tiền. Chiêu Hổ
  2. nhận lời, nhưng rồi chỉ đưa đến 3 quan tiền dài. Hồ Xuân Hương cho là Chiêu Hổ kẹt sỉ, nói dối, bèn làm một bài thơ gửi đến, gọi mỉa Chiêu Hổ là "cuội" (nói dối như cuội): Sao nói rằng năm, lại có ba Trách người quân tử ở sai ngoa Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt Nhớ hái cho xin nắm lá đa Nhận được thơ, Chiêu Hổ giận lắm. Vì Hồ Xuân Hương hỏi vay năm quan nhưng không nói rõ là năm quan nào. Nên ông đem đến 3 quan dài (3x600=1.800đồng) thì cũng bằng năm quan ngắn (5x360=1.800đồng) chứ sao. ông bèn làm một bài thơ "trả đũa" lại: Rằng gián thì năm, quý có ba Trách người thục nữ tính không ra Ừ! Rồi thong thả lên chơi nguyệt Cho cả cành đa lẫn... củ đa" Ca dao có bài "đi chợ tính tiền" rất hay nói về sự tháo vát, đảm đang của người phụ nữ ngày xưa trong công việc nội trợ, việc "tay hòm chìa khoá" của gia đình: Một quan tiền quý mang đi Em mua những gì, em tính chàng nghe: Thoạt tiên mua ba tiền gà (180 đồng) Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu (93 đồng) Trở lại mua sáu đồng cau (6 đồng) Tiền rưỡi miếng thịt; giá, rau mười đồng (100 đồng) Có gì mà tính chẳng thông Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi (96 đồng) Ba mươi đồng rượu chàng ơi (30 đồng) Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng (50 đồng) Hai chén nước mắm rõ ràng Hai bẩy mười bốn kẻo chàng hồ nghi (14 đồng) Hăm mốt đồng bột nấu chè (21 đồng) Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan Đồng tiền "Khổng Phương" của ta được khai sinh từ thời Tiền Lý (544). Hai đồng tiền được đúc cuối cùng là đồng Khải định (Khải định Thông Bửu) và Bảo đại (Bảo đại Thông Bửu). Nhưng hai đồng tiền đó không tính thành "quan" nữa, mà được quy theo giá trị của đồng bạc đông Dương. Một đồng Khải định bằng 1/2 xu (tức bằng 1/200 đồng bạc đông Dương thuộc Pháp, gọi là 1 chinh). Đồng Bảo đại cũng có giá trị như thế. Vì Khải định là cha Bảo đại, nên dân gian gọi đồng Khải định là "chinh to", đồng Bảo đại là "chinh con". Đồng "chinh con" nhanh chóng mất giá. Ba "chinh con" mới đổi được một "chinh to". Hồi đó đã có câu: Ba con đổi lấy một cha Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền Cùng với sự thoái vị của Bảo đại năm 1945, đồng tiền phong kiến đã trở thành sở hữu của lịch sử, sau một thiên niên kỷ rưỡi hiện diện (544-1945) mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử tiền tệ Việt Nam: đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2