
457
Du lịch cộng đng vùng dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững tỉnh Đắk Nông
Phan Đình Dũng, Nguyễn Thị Việt Nga
Tóm tắt:
Là địa bàn thuộc khu vực Tây Nguyên, đa dân tộc và văn hóa, tỉnh Đắk Nông có nguồn
tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hóa thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung, loại hình du
lịch cộng đồng nói riêng. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số (tại chỗ và nhập cư) qua lịch sử đã
tạo nên những nét văn hóa độc đáo, có thể xây dựng những mô hình du lịch cộng đồng đem lại
hiệu quả trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội. Thời gian qua, tỉnh Đắk Nông đã có những
quyết sách trong xây dựng, phát triển địa phương qua hoạt động du lịch và hoạch định trong
chiến lược phát triển đến năm 2030 trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bài viết dựa trên cơ sở của lý thuyết Du lịch cộng đồng và Di sản văn hóa để gợi mở những
giải pháp phát triển du lịch cộng đồng vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Đăk Nông trong xu hướng
phát triển bền vững.
Từ khóa: Du lịch cộng đồng, Dân tộc thiểu số, Đăk Nông, phát triển bền vững
Từ viết tắt: DLCĐ: du lịch cộng đồng, DTTS: dân tộc thiểu số.
1. Dẫn luận
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) là loại hình du lịch gắn với các giá trị và không gian sống của
cộng đồng địa phương và cộng đồng tham gia trực tiếp, được hưởng lợi ích kinh tế - xã hội.
Loại hình du lịch này mang nhiều ý nghĩa kinh tế - xã hội, mang tính bền vững với ba mục tiêu:
đem lại lợi ích kinh tế, bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn giá trị văn hóa bản. Thông qua
hoạt động DLCĐ, người dân và du khách nhận thức trách nhiệm bảo vệ tài nguyên, môi trường,
bản sắc văn hóa của cộng đồng. Ở Việt Nam, trong những năm qua, nhiều địa phương đã phát
triển loại hình du lịch cộng đồng và đem lại những hiệu quả thiết thực. Tùy thuộc vào mỗi địa
phương với sự đu tư trên nhiều phương diện, sự tham gia tích cực của cộng đồng tại chỗ, tạo
nên những giá trị mang nét riêng, trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sinh thái, văn
hóa đã thu hút nhiều khách tham quan, góp phn trong phát triển kinh tế, xã hội nói chung và
tạo nên sinh kế thiết thực đối với cộng đồng. Tuy nhiên, cũng có nhiều nơi, sau một giai đoạn
phát triển, đã gặp nhưng rào cản, khó khăn trong phát triển loại hình du lịch này.
Đắk Nông thuộc cao nguyên Trường Sơn với địa hình đồi núi, có những thắng cảnh thiên
nhiên (thác Đắk G’lun, Đắk Buk So, Đray Sáp, Gia Long và các Khu bảo tồn thiên nhiên như:
Nậm Nung, Vườn Quốc gia Tà Đùng, hệ thống hang động Krông Nô), sự cộng cư đa dạng của
nhiều thành phn dân cư (40 dân tộc), trong đó có các tộc người bản địa (M’nông, Mạ, Ê đê...
), những di tích lịch sử - văn hóa... là nguồn tài nguyên thích hợp cho phát triển nói chung và
loài hình DLCĐ nói riêng.
Năm 2004, tỉnh Đắk Nông thành lập với những khó khăn về cơ sở hạ tng, vật chất kỹ
thuật nhưng hiện nay đã cơ bản hoàn thành công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, sản
phẩm để kêu gọi đu tư phát triển du lịch. Ngày 8 tháng 9 năm 2020, tỉnh Đắk Nông bàn hành
Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, nhấn mạnh các mục
tiêu: Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh, góp phn xóa đói,
giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của tỉnh; Phát triển du lịch bền vững, theo
hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; đa dạng hóa sản phẩm du lịch trong đó, chú trọng phát triển
du lịch gắn với Công viên địa chất toàn cu UNESCO Đắk Nông; phát triển du lịch cộng đồng,
du lịch nông nghiệp công nghệ cao và bảo tồn, phát huy các giá trị di sản và bản sắc văn hóa

458
của các DTTS tỉnh Đắk Nông. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và xúc tiến quảng bá
du lịch; tăng cường hợp tác liên kết phát triển du lịch quốc tế và nội địa, nâng cao năng lực cạnh
tranh du lịch của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2030, Đắk Nông trở thành điểm du lịch hấp dẫn của
khu vực28.
2. Nhân lực trong phát triển DLCĐ vùng dân tộc thiểu số
Với những tiềm năng và lợi thế của địa phương, có thể nói, tỉnh Đắk Nông có những cơ
sở nền để phát triển du lịch, đưa du lịch trở thành động lực phát triển để đạt được những mục
tiêu đề ra. Trong chiến lược phát triển chung của đất nước, các địa phương đều có những quyết
sách, hoạch định phát triển du lịch theo tinh thn nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về
phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn29 và Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ theo quyết định 147/QĐ-Ttg.30
Năm 2018, UBND tỉnh Đắk Nông đã chọn 9 địa bàn mang những dấu ấn độc đáo về văn
hóa DTTS để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng, gồm: Bon N'Jriêng/xã Đắk Nia, bon Đắk
R'moan/ xã Đắk R'moan (TP. Gia Nghĩa), bon Pi Nao/ xã Nhân Đạo (huyện Đắk R'lấp), buôn
Buôr, buôn Nui/xã Tâm Thắng, Làng văn hóa dân tộc Dao, xã Ea Pô (huyện Cư Jút), bon Ja
Ráh/xã Nâm Nung, thôn Nam Tân/xã Nam Đà (huyện Krông Nô), bon Kon Hao/ xã Đắk Ha
(huyện Đắk Glong). Các địa bàn được chọn xây dựng mô hình DLCĐ được hướng dẫn thành
lập ban quản lý, ban tự quản và nhận được sự hỗ nguồn vốn từ tỉnh để hoạt động. Đây là hướng
đi mới của tỉnh Đắk Nông trong xây dựng du lịch khai thác các giá trị văn hóa tộc người tại chỗ
và từ nơi khác đến sau này, có ý nghĩa thiết thực trong bảo tồn di sản và hướng tới mục tiêu
giải pháp tạo công ăn việc làm, thu nhập kinh tế đối với người dân.
Tháng 7 năm 2020, tỉnh Đắk Nông nhận danh hiệu Công viên địa chất toàn cu do Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận. Một khu vực rộng
lớn, có diện tích hơn 4.700km2, trên địa bàn 6 huyện (Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song,
Đắk Glong) và thị xã Gia Nghĩa. Địa bàn này hội tụ các giá trị tiêu biểu cả về địa chất, địa mạo,
văn hóa cũng như đa dạng sinh học đặc trưng của khu vực (65 điểm di sản địa chất, địa mạo,
hệ thống gn 50 hang động (dài hơn 10.000 mét), các miệng núi lửa, thác nước…, trong đó có
7 điểm di sản địa chất tm quốc tế. Một trong những yêu cu của UNESCO về công nhận Công
viên địa chất toàn cu Đắk Nông là phát triển cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống người
dân thông qua việc bảo tồn và khai thác hợp lý các giá trị di sản trong vùng công viên địa chất
để phát triển du lịch bền vững. Trên cơ sở này, tỉnh Đắk Nông quan tâm thực hiện các chính
sách phát triển các loại hình dịch vụ gắn với du lịch, đu tư cơ sở hạ tng, bảo tồn cảnh quan
và các giá trị di sản, đa dạng sinh học. Đồng thời tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng
về bảo tồn và khuyến khích, hỗ trợ người dân phát triển du lịch gắn với công viên địa chất.
28 Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông (2020), Kế thoạch thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đăk Nông do Phó chủ tịch UBND Tôn Thị Ngọc Hạnh ký, ban hành
ngày 08/9/2020.
29 Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết của Bộ Chính trị Về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ngày 16/01/2017.
30 Thủ tướng Chính phủ (2020), Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 do Phó
Thủ tướng Vũ Đức Đam ký ngày 22/01/2020.

459
Nằm trong khu vực của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNECSCO
công nhận là di sản mang tính đại diện của cộng đồng trên thế giới31, cùng với những nét văn
hóa độc đáo của văn hóa tộc người (tín ngưỡng, lễ hội…), tỉnh Đắk Nông thuận lợi trong phát
huy và khai thác các giá trị văn hóa gắn với sinh thái cư trú, môi trường tự nhiện của cộng đồng
cư dân. Bên cạnh đó, với đặc điểm về nông nghiệp, tỉnh Đắk Nông đã xây dựng những mô hình
du lịch dựa trên nông nghiệp: Trang trại Gia Trung, Gia Ân, Công ty bơ M’nông (Tp. Gia
Nghĩa), mô hình nông nghiệp công nghệ cao và du lịch sinh thái Phước Sơn (Đắk R’lấp), Trang
trại tiêu sinh thái Thu Thủy (Đắk Song), chuỗi vườn cây ăn trái (Cư Jút), vườn xoài thôn Tân
Lập (Đắk Mil)…Thời gian vừa qua, tỉnh Đắk Nông đã tổ chức hội thảo khoa học, những sự
kiện văn hóa, quảng bá du lịch, trong đó nhấn mạnh đến hướng phát triển nông nghiệp gắn với
với du lịch mang nét riêng của địa phương: Đắk Nông – mùa bơ chín, Văn hóa thổ cẩm các dân
tộc Việt Nam, xây dựng các tuyến, tour với công viên địa chất Đắk Nông… góp phn định
hướng phát triển du lịch. Chủ trương, định hướng và những kết quả phát triển trong thời gian
vừa qua cho thấy có những thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói
riêng của địa phương. Tuy nhiên, ngành du lịch nói chung và DLCĐ Đắk Nông hay các điểm
đến DLCĐ vùng DTTS vẫn còn nhiều thách thức để hướng đến phát triển bền vững.
- Nhân lực hướng dẫn, thuyết minh du lịch cộng đng
- Nguồn nhân lực phục vụ trong hoạt động du lịch rất quan trọng để đem lại hiệu quả lâu
dài. Nhân lực tham gia trong hoạt động du lịch từ nhiều nguồn có từ các bên có liên quan nhưng
DLCĐ cn nguồn nhân lực tại chỗ, đặc biệt với cộng đồng địa phương. Sự tham gia của hộ gia
đình hay cá thể trong DLCĐ tại chỗ cn được quan tâm đào tạo không chỉ để đáp ứng tiêu chí
của quy định nhưng tạo nên cơ sở cho việc hành nghề, sinh kế lâu dài sẽ tạo nên động lực, gắn
bó và có trách nhiệm với địa phương. Trong chiến lược phát triển du lịch của Đắk Nông, có đề
cập giải pháp khuyến khích các trường trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tỉnh liên kết hoặc mở
các chuyên ngành mới liên quan đến đào tạo du lịch, chú trọng đến đào tạo kỹ năng mềm và kỹ
năng nghề, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên tại các tour, điểm du lịch; bồi dưỡng kỹ năng tổ
chức, quản lý hoạt động du lịch tại các mô hình du lịch cộng đồng ở cơ sở; vận động đoàn viên
thanh niên tại cơ sở, các sinh viên các trường nghề, cộng đồng dân cư thành lập đội ngũ hướng
dẫn viên tình nguyện hỗ trợ tại các điểm du lịch, đặc biệt là tại các điểm du lịch cộng đồng, các
điểm di sản trong vùng Công viên địa chất chưa có nhà đu tư, chưa có lực lượng thuyết minh
viên tại điểm. Khi tham quan một số điểm du lịch gắn với cộng đồng các DTTS, chúng tôi ít
bắt gặp những hướng dẫn viên là người dân tại chỗ. Du khách sẽ lý thú khi đến các điểm DLCĐ
được chính người dân bản địa làm công tác hướng dẫn, thuyết minh bởi họ có thể tương tác,
trải nghiệm qua quá trình tham quan. Một số điểm DLCĐ có người thuyết minh, hướng dẫn tại
chỗ nhưng không nhiều, phn lớn không qua đào tạo, học kinh nghiệm từ thực tế. Vì vậy, địa
phương và các điểm đến DLCĐ cn có kế hoạch đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức liêquan
du lịch, văn hóa đối với nguồn nhân lực tại chỗ này. Chắc chắn, sẽ có những khó khăn khi thế
hệ trẻ của đồng bào DTTS hay tại chỗ tiếp cận trình độ của ngành văn hóa, du lịch ở trung cấp,
cao đẳng, đại học nhưng cn có chính sách ưu tiên và định hướng để góp phn đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho DLCĐ mang tính bền vững. Vấn đề này cũng chính là “gợi mở” cho các
địa phương lựa chọn nhân lực, gắn kết với các trường trong nhu cu đào tạo nhân lực văn hoá
31 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và
phi vật thể nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005, sau được chuyển sang danh sách Di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại (2008).

460
du lịch nói chung, thuyết minh, hướng dẫn viên du lịch nói riêng cho từng khu vực, địa bàn đáp
ứng nhu cu xã hội, đặc điểm địa phương, vùng miền.
- Chất lượng khai thác ẩm thực truyền thống của tộc người tại chỗ
Một trong những yếu tố thu hút DLCĐ là khai thác ẩm thực của tộc người bản địa. Với
môi trường tự nhiên của rừng núi, hệ đông vật, thực vật đa dạng nên các tộc người ở Tây Nguyên
nói chung, Đắk Nông nói riêng khai thác, chế biến thức ăn món ăn, thức uống độc đáo (cơm
lam, rượu cn, các loại bánh, rau rừng…). Khách tham quan trong thời gian lưu trú thường có
yêu cu được trải nghiệm cùng tham gia trong việc chế biến thức ăn và thưởng thức các món
ăn dân dã. Nhiều đoàn khách luôn đưa ra trước những yêu cu ẩm thực khi đến tham quan. Vì
vậy, mỗi điểm DLCĐ tại chỗ tùy thuộc vào yêu cu của khách tham quan để hộ gia đình hay
liên kết (tổ, nhóm) tham gia cung ứng dịch vụ chế biến. Điều quan trọng khi khai thác ẩm
thực, yêu cu vệ sinh an toàn thực phẩm đặt lên hàng đu. Đồng thời, tập quán của khách
du lịch – đặc biệt đối với khách nước ngoài, khi tham gia chế biến, thưởng thức đều đặt
trong yêu cu vệ sinh an toàn thực phẩm trong cách sử dụng và môi trường cảnh quan. Có
một số vì tập quán hay không có sự quan tâm, chỉ cung ứng thức ăn, đồ uống theo cách làm
thủ công của đồng bào thiểu số mà bỏ qua vệ sinh môi trường trong chế biến.
Tại một số điểm đến DLCĐ vùng đồng bào thiểu số, chung tôi đã nhận thấy một số
vấn đề trong vệ sinh, chất lượng thức ăn phục vụ du khách mà người dân tại chỗ hay ban
quản lý, điều hành cn lưu tâm. Khách tham quan rất nhiệt tình tham gia các công đoạn đi tìm
nguyên liệu, chế biến (hái rau rừng, bắt cá, nấu các món ăn, nấu cơm lam, nướng thức ăn… )
nhưng không thưởng thức có sự tham gia của bản thân. Một trong những lý do từ khách tham
quan cho biết đã chứng kiến quá trình chế biến không đảm bảo vệ sinh: Nguyên liệu để trên
nền đất không sạch, nguồn nước và những dụng cụ không sạch sẽ, đy khói bụi; Khu vực chế
biến không vệ sinh (gn có những vũng nước bẩn, gn vách các khu vực nuôi nhốt gia cm…)…
Thậm chí, có những món ăn và cách bày biện không hợp vệ sinh với tập quán ăn uống của du
khách. Tập quán sử dụng từng phn ăn riêng, ăn chung được tôn trọng dù có sinh hoạt trải
nghiệm với cộng đồng. Du khách hài lòng đối với vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm sẽ để
lại án tượng tốt và cũng là đánh giá chất lượng dịch vụ tốt. Đây là điều thuận lợi trong phát
triển, thu hút khách của điểm đến du lịch. Yêu cu vệ sinh, an toàn thực phẩm trong dịch
vụ ẩm thực là vấn đề để điểm DLCĐ hay các nguồn lực tham gia ở vùng đồng bào DTTS ở
Đắk Nông cn quan tâm.
- Xây dựng sản phẩm thổ cẩm đặc trưng
Năm 2019, tỉnh Đăk Nông tổ chức lễ hội văn hóa thổ cẩm Việt Nam ln thứ nhất với chủ
đề “Văn hóa thổ cẩm - tinh hoa hội tụ” và nhiều hoạt động đa dạng. Tại khu Đảo nổi - hồ Gia
Nghĩa diễn ra các hoạt động triển lãm không gian Văn hoá thổ cẩm Việt Nam, không gian thực
nghiệm dệt thổ cẩm các dân tộc Việt Nam…và những hoạt động phục dựng nghi lễ truyền thống
DTTS, không gian văn hoá ẩm thực, biểu diễn nghệ thuật truyền thống các dân tộc, triển lãm.
Hội thảo Văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam được tổ chức, thu hút nhiều nhà nghiên cứu.
Thổ cẩm các DTTS ở Đăk Nông Mạ, M’nông, Ê đê được giới thiệu với những hoa văn, sản
phẩm độc đáo. Các nhà khoa học đã tiếp cận thổ cẩm của nhiều dân tộc, trong đó các dân tộc ở
Đăk Nông với góc nhin đa dạng: từ lịch sử, văn hóa đến ý nghĩa họa tiết, hoa văn cũng như
thực trạng của nghề truyền thống trong đời sống cộng đồng; đưa ra những giải pháp gợi mở để
bảo tồn và phát huy của nghề dệt thổ cẩm. Đáng lưu ý đến cách tiếp cận về giá trị của thổ cẩm
các DTTS ở Đăk Nông với vai trò góp phn phát triển kinh tế và du lịch, phát triển văn hóa và

461
bảo tồn giá trị truyền thống củng như đề xuất về việc điều tra, đánh giá, sưu tâm những thổ cẩm
quý, xây dựng không gian văn hóa thổ cẩm và quảng bá và phát triển thổ cẩm theo hướng công
nghiệp văn hóa.
Đối với DLCĐ vùng đồng bào thiểu số ở Đắk Nông, không gian văn hóa thổ cẩm cn
được thể hiện để thu hút du khách với việc giới thiệu tinh hoa sản phẩm của nghề, các nghệ
nhân được trình diễn phục vụ và du khách có thể tham gia trải nghiệm trong một số cộng đoạn
dệt. Đồng thời, sản phẩm của dệt thổ cẩm của cộng đồng tại chỗ cn được ưu tiên với các sản
phẩm đặc thù. Các điểm DLCĐ vùng đồng bào DTTS tại Đắk Nông cn tránh tình trạng giới
thiệu sản phẩm thổ cẩm của cộng đồng bên cạnh các sản phẩm có nguồn gốc từ nơi khác. Ở
một số điểm DL tại các địa phương, do đáp ứng nhu cu lựa chọn của du khách, nhiều nơi bày
bán các loại thổ cẩm từ nhiều nguồn. Tuy nhiên, ở điểm DLCĐ của DTTS thì không nên để
tình trạng này xảy ra, sẽ làm giảm đặc trưng sản phẩm thổ cẩm của cộng đồng. Mỗ điểm đến
DLCĐ vùng DTTS Đắk Nông, với chủ thể tộc người mà giới thiệu sản phẩm, văn hóa và có
dịch vụ về hàng lưu niệm sản phẩm thổ cẩm.
- Lợi ích hài hòa và tạo sinh kế bền vững đối với chủ thể văn hóa
Theo Luật du lịch của Việt Nam32, DLCĐ là loại hình du lịch được phát trên cơ sở các
giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng cư dân quản lý, tổ chức khai thác và hưởng
lợi. Một số yếu tố liên quan là cộng đồng hưởng các quyền lợi về kinh tế và có trách nhiệm
bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch theo hướng bền vững. Các điểm DLCĐ vùng DTTS tại Đắk
Nông cn quan tâm về vai trò và quyền lợi chính đáng của cộng đồng khi tham gia vào các
hoạt động du lịch tại chỗ mặc dù để phát triển loại hình này có các bên đại diện liên quan
(chính quyền, tổ chức kinh doanh, tư vấn…). Cơ sở lý thuyết phát triển cộng đồng đề ra những
nguyên tắc, nguyên lý và mục tiêu phát triển cộng đồng trong chính sách phát triển kinh tế, xã
hội có thể áp dụng đối với nhiều trường hợp. Khi vai trò của cộng đồng (đại diện cộng đồng,
hộ gia đình, cá nhân) tham gia sẽ là cơ sở hợp tác đem đến hiệu quả, chia sẻ về lợi ích cũng
như trách nhiệm trong hướng phát triển bền vững. Một số điềm DLCĐ ở Việt Nam trong
thời gian qua khi bước đu có hiệu quả nhưng sau một thời gian không còn hoạt động. Nhóm
tác giả Nguyễn Văn Chất, Tạ Duy Linh, Dương Đức Minh cho rằng: Loại hình du lịch cộng
đồng ở Việt Nam bắt đu phát triển ở Việt Nam từ năm 1990 trở đi với sự hỗ trợ của nhiều yếu
tố, tuy nhiên trong 30 năm qua chỉ có 10% các dự án du lịch dựa vào cộng đồng triển khai thành
công33. Như vậy, tỷ lệ không thành công, không hiệu quả ở các điểm DLCĐ, kể cả vùng DTTS
chiếm số lượng nhiều và tất nhiên có nhiêu nguyên do, yếu tố tác động. Theo chúng tôi, sự chia
sẻ các quyền lợi không hài hòa cũng sẽ làm cho các điểm đến DLCĐ nói chung, ở Đăk Nông
nói riêng không phát triển bền vững bên cạnh các lý do khác.
Các bên liên quan tham gia DLCĐ là yêu tố tạo thành những bước đi hiệu quả nhưng sự
lựa chọn những giải pháp từ nhu cu của người dân (tham gia trực tiếp, gián tiếp) hoặc nguồn
lực tham gia (cơ sở vật chất, vốn văn hóa, nghề nghiệp, sức lao động…) được ưu tiên trong
mạng lưới khai thác du lịch chính là hướng đến sự phát triển bền vững. Thông qua chính sách
trong quản lý theo luật định liên quan, cộng đồng tại chỗ (trực tiếp, gián tiếp) nguồn lợi đem lại
32 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du lịch, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
33 Nguyễn Văn Chất, Tạ Duy Linh, Dương Đức Minh (2023), Du lịch tự thân Cồn Hô, tỉnh Trà Vinh –
cách tiếp cận trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại Việt Nam, Tạp chí Văn hóa & Nguồn lực,
Trường Đại học văn hóa TP.HCM, số 2 (34).