
DƯỢC HỌC
HẢI SÂM
Tên Việt Nam:
Đỉa biển, Đỉa bể, Sâm biển, Đồn độp.
Tên Hán Việt khác:
Hải thử, Sa tốn (Động Vật Học Đại Từ Điển). Loài có gai gọi là Thích
sâm, loài không có gai gọi là Quang sâm, loài lớn mà có gai gọi là Hải nam
tử (Cương Mục Thập Di).
Tên khoa học:
Strichobus japonicus Selenka.
Mô tả:
Hai bên bao trùm cả hình dạng ngoài và cấu tạo của nhiều cơ quan
bên trong. Cơ thể Hải sâm giống như quả dưa chuột, trung bình dài 20cm, da
sần sùi, hơi nhám và mềm nhũn. Hải sâm di chuyển trên một mặt bên nên

trục cơ thể nằm ngang khi vận chuyển. Theo chiều dọc trên cơ thể có thể
phân biệt. Đầu trước có lỗ miệng, vành xúc tu, và đầu sau có hậu môn. Mặt
bụng thường ứng với ba vùng chân ống (hay ba vùng tỏa tia), mặt lưng ứng
với 2 vùng tỏa tia. Chân ống ở mặt bụng phát triển, có giác, giữa nhiệm vụ
chuyển vận, còn chân ống ở mặt lưng tiêu giảm, không có giác. Có 5-10 xúc
tu để bắt mồi, xúc tu giữa nhiệm vụ xúc giác, chúng không có mắt. Chỉ có
một tuyến sinh dục là một chùm ống dài nằm cạnh màng treo ruột, phần lớn
phân tính, trứng và tinh trùng cùng ở một tuyến sinh dục, nhưng hình thành
ở những thời gian khác nhau. Nó thường thải tinh trùng và trứng vào buổi
tối, giống như một dải khói trắng phụt ra. Trứng thụ tinh và phát triển ở
ngoài cơ thể, từ trứng phát triển qua giai đoạn ấu trùng hình tai có vành tiêm
mao bơi trong nước, rồi qua dạng ấu trùng có 5 xúc tu (Có một số Hải sâm,
nhất là các loài sống ở vùng cực, không qua giai đoạn ấu trùng sống tự do,
trứng phát triển ngay trên cơ thể mẹ tới dạng con non. Có một số loài có khả
năng sinh sản vô tính theo kiểu chia cắt cơ thể, rồi tái sinh lại phần thiếu hụt.
Địa lý:
Hải sâm thích sống trên nền đáy hoặc chui rúc tròng bùn, ở các bờ đá,
đảo san hô, đá ngầm, cát bùn. Ở vùng có thức ăn phong phú Hải sâm ít đi
động, nó rất nhạy cảm với nước bẩn. Khi bị kích thích mạnh trứng nôn toàn

bộ ruột gan ra ngoài và cơ thể có thể tái sinh lại sau khoảng 9 ngày. Thức ăn
chính là vụn hữu cơ, sinh vật tảo nhờ, trùng có lỗ, trùng phóng xạ, và các
loài Ốc. Phân nhiều và có từng đoạn dài là dấu hiệu thăm dò vùng tập trung
Hải sâm. Bờ biển Việt Nam đã biết có khoảng 50 loài Hải sâm. Trên thế giới
có khoảng 40 loài để dùng làm thuốc và thức ăn.
Ở Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc và nhiều nước khác, Hải sâm từ
lâu đã là món ăn quí. Vì thế mà nó được liệt vào ngang hàng với Sâm, thuộc
(sơn hào hải vị) bổ, dùng cho giai cấp quí tộc thời phong kiến. Trên thị
trường Hải sâm được bán dưới dạng khô và đã bỏ hết ruột. Ngày nay là loài
xuất khẩu đắt tiền.
Phân biệt:
Có nhiều loài Hải sâm, ở vịnh Bắc bộ Việt Nam phổ biến có các loại
Leptopentacta typica Stichopus, Chloronotus holothuria Martensii,
Protankyra Pseudodigitata.
1- Holothuria là giống gồm nhiều loài ở biển Việt Nam (hiện biết 11
loài), phổ biến nhất trong vịnh Bắc bộ là Holothuria martensil L sống ở vùng
nước dưới triều, có 20 xúc tu. Ngoài ra còn gặp Sâm gai (Stichopus
Varienatus), loại Sâm có giá trị kinh tế.

2- Loài có xúc tu chia nhánh. Ở vịnh Bắc bộ thường gặp các loài trong
họ Cucumariidae, phổ biến ven bờ là Leptopentacta Tybica là loại Hải sâm
nhỏ, có 10 xúc tu trong đó có 2 xúc tu nhỏ ở phía bụng.
3- Loài không có chân ống, hình dạng chung giống giun. Bờ biển sâu
(10-50m) có đáy là bùn cát hay bùn nhuyễn, ở nước ta thường gặp
Protankyra Pseudodigitata có 12 xúc tu.
Hầu hết được dùng với tên Hải sâm.
Thu bắt, sơ chế:
Ngư dân đánh bắt được thường đem phơi hay sấy khô dùng làm thuốc
hay thực phẩm.
Phần dùng làm thuốc:
Nguyên cả con.
Mô tả dược liệu:
Loại to mà dài, da không có gai là loại kém. Loại có màu đen thịt
dính, da có nhiều gai là loại tốt và qúy.

Bào chế:
1- Rửa sạch phơi khô, sấy giòn.
2- Khi dùng ngâm nước cho mềm, xắt lát, phơi dòn, tán bột.
3- Thu bắt về cạo rửa cho sạch bằng nước muối, lộn trong ra ngoài,
rửa sạch, phơi khô, sấy giòn. Khi dùng ngâm vào nước cho mềm xong xắt
mỏng 3-5 ly, sao với gạo nếp cho phồng vàng lên. Tán bột rồi kết hợp với
các thuốc khác hoặc làm hoàn, hoặc nấu cháo ăn.
Tính vị:
Vị ngọt, mặn. Tính ấm, Không độc.
Tác dụng:
Bổ thận, ích tinh, tráng dương, tư âm, giáng hỏa.
Chủ trị:
+ Trị suy nhược thần kinh, bổ thận, ích tinh tủy, mạnh sinh lý, bổ âm
giáng hỏa, tiêu đàm dãi, cầm giảm tiểu tiện, nhuận trường, trừ khiếp sợ yếu
đuối.

