1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH
Fiscal Policy and Growth:
Evidence From OECD Countries
Richard Knellera, Michael F. Bleaneyb ,*, Norman
Gemmellb
GIÁO VIÊN: PGS .TS. S Ử ĐìNH THÀNH
SVTH: NHÓM 11
- NGUYỄN THỊ TƯỜNG VI
- LÊ NGUYỄN VĨNH HẰNG
- NGUYỄN THỊ HÀO
- LÊ TRUNG HIẾU
- NGUYỄN THỊ DIỂM
LỚP
: TCDN ĐÊM 3 – K22
TPHCM, 2013
2
PHỤ LỤC
Phần 1: Giới Thiệu………………………………………………3
Phần 2: Nhận Định Thuộc Lý Thuyết………………………….5
Phần 3: Bằng Chứng Thực Nghiệm…………………………….7
Phần 4: Dữ Liệu và Phương Pháp………………………………8
Phần 5: Kết Luận……………………………………………….19
Phụ Lục A……………………………………………………….20
3
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC OECD
Richard Kneller, Michael F.Bleaney, Norman Gemell
Tóm Tắt :
Bài nghiên cứu tìm chỉ ra những điểm sai sót nghiêm trọng trong những nghiên cứu trước về mô hình tăng trưởng nội sinh, khắc phục chúng và đã tìm thấy những kết quả củng cố thêm về mô hình Barro (1990). Dữ liệu bảng của 22 quốc gia OECD trong khung thời gian 1970-1995. Các phát hiện của bài nghiên cứu này:
1) Thuế gây biến dạng làm giảm tăng trưởng trong khi thuế không gây biến dạng
thì không
2) Chi tiêu sản xuất cải thiện tăng trưởng, trong khi chi tiêu phi sản xuất thì
không. 1. Giới Thiệu
Tỷ trọng của chi tiêu chính phủ trong đầu ra, hoặc cơ cấu của chi tiêu và doanh thu
có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong dài hạn hay không? Theo mô hình tăng trưởng
của Sollow (1956) và Swan (1956), câu trả lời phần lớn là “không”. Ngay cả khi chính
phủ có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
hoặc khuyến sinh đẻ, điều này sẽ không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dài hạn của
thu nhập bình quân. Trong các mô hình này, thuế và cá giải pháp chi tiêu ảnh hưởng đến
tỷ lệ tiết kiệm hoặc khuyến khích đầu tư vào vốn vật chất hay vốn con người cuối cùng
ảnh hưởng đến tỷ lệ các yếu tố cân bằng chứ không phải là tốc độ tăng trưởng ổn định.
Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, ngược lại, đầu tư vào vốn con người hay vốn
vật chất có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ổn định, và do đó có quy mô hơn trong các
mô hình mà có ít nhất một yếu tố về thuế và chi tiêu chính phủ đóng một vai trò trong
quá trình phát triển. Kể từ khi tiên phong, sự đóng góp của Barro (1990), King và Rebelo
(1990) và Lucas (1990) một số bài nghiên cứu đã mở rộng việc phân tích chính sách thuế,
chi tiêu công và tăng trưởng thể hiện các điều kiện khác nhau mà theo đó các biến tài
chính có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dai hạn (xem, ví dụ, Jones và cộng sự 1993,
Stoke và Rebelo 1995, Mendoza và cộng sự 1997).
4
Nếu lý thuyết khá rõ ràng, tuy nhiên bằng chứng thực nghiệm lại không phải vậy.
Như Stoke và Rebelo (1995, p.519) “ước tính gần đây của tăng trưởng tiềm năng ảnh
hưởng đến các cải cách thuế khác nhau dữ dội, từ 0 đến 8 phần trăm”. Trong thực tế, hầu
như không có một nghiên cứu nào được dành để kiểm tra các dự đoán của mô hình tăng
trưởng nội sinh liên quan đến cấu trúc của cả thuế và chi tiêu theo cách mà chúng ta làm
ở đây (Devarajan et al. (1996) làm điều đó chỉ cho khía cạnh chi tiêu). Hơn nữa, một số
nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng nghiên cứu một phần (ví dụ như những người tập trung
hoàn toàn vào khía cạnh ngân sách mà bỏ qua các mặt khác) sẽ bị thiên lệch về những
tham số ước tính đã được kết hợp với những giả định tài chính tiềm ẩn. Điều này đã được
chứng minh bởi Helms (1985) , Mofidi và Stone ( 1990) và Miller và Russek (1993) với
những bộ dữ liệu khác nhau. Chúng tôi khảo sát ý nghĩa của những lý luận này với một
tiêu chuẩn hồi quy và thấy rằng, nếu điều này bị bỏ qua, những dự đoán thiên lệch về tác
động tăng trưởng của các biến số tài chính có thể là đáng kể. Vấn đề này giả định quan
trọng hơn là lý thuyết trở nên tinh tế hơn trong những dự đoán của mình về tác động khác
nhau của các thành phần của chi tiêu và thuế đối với tăng trưởng .
Trong bài báo này, chúng tôi kiểm tra những dự đoán cụ thể của mô hình tăng
trưởng nội sinh chính sách công gần đây như Barro (1990) và Mendoza et al. (1997), chú
trọng cẩn thận để ngăn ngừa những nguồn gốc của những thiên lệch vừa nêu. Sử dụng
các tiêu chuẩn đề xuất của các mô hình này để phân loại các dữ liệu tài chính, chúng ta
xem xét các tác động phát triển của chính sách tài chính đối với 22 quốc gia OECD trong
1970-1995. Chúng ta thấy: (i) hỗ trợ đáng kể cho các dự đoán của Barro (1990) đối với
các tác động của cơ cấu thuế và chi tiêu tăng trưởng với, (ii) rằng bỏ qua những đặc điểm
riêng của ràng buộc ngân sách chính phủ dẫn đến sự khác nhau rất lớn trong việc ước
lượng các tham số, trong nghiên cứu trước đây, đã bị hiểu sai là không thiết thực, và (iii)
các kết quả của chúng tôi là thiết thực liên quan đến một số thay đổi trong việc phân loại
dữ liệu hoặc các đặc điểm kỹ thuật hồi quy.
Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau. Trong phần 2 chúng tôi tóm tắt
những dự đoán chính của mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách công gần đây và thảo
luận về những tác động của sự hạn chế ngân sách nhà nước cho những thử nghiệm thực
5
tế. Nghiên cứu thực nghiệm có liên quan được trình bày trong phần 3. Phần 4 sau đó thảo
luận về phương pháp và kết quả thực nghiệm của chúng tôi cho mẫu OECD của chúng
tôi, và phần 5 đưa ra một số kết luận.
2. Nhận Định Thuộc Lý Thuyết
Như đã biết, các mô hình phát triển chính sách công tân cổ điển (xem, ví dụ, Judd,
1985; Chamley, 1986) phó thác vai trò của chính sách tài khóa là xác định mức sản lượng
chứ không phải là tỷ lệ tăng trưởng dài hạn. Tốc độ tăng trưởng ổn định được dẫn dắt bởi
các yếu tố ngoại sinh của tăng trưởng dân số và tiến bộ công nghệ, trong khi chính sách
tài khóa chỉ có thể ảnh hưởng đến con đường chuyển đổi sang trạng thái ổn định. Ngược
lại, mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách công của Barro (1990), Barro và Sala-i-
Martin (1992), (1995) và Mendoza et al. (1997) cung cấp cơ chế mà các chính sách tài
chính có thể xác định cả mức sản lượng và tốc độ tăng trưởng ổn định.
Nhận định từ các mô hình tăng trưởng nội sinh có nguồn gốc bằng cách phân loại
các thành phần của ngân sách nhà nước vào một trong bốn loại : đánh thuế gây biến dạng
hay không gây biến dạng, và chi tiêu sản xuất hay chi tiêu phi sản xuất . Đánh thuế gây
biến dạng trong bối cảnh này là những ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các đại lý
(đối với vốn vật chất và/ hoặc con người), tạo nêm thuế và do đó biến dạng tỷ lệ trạng
thái ổn định của tăng trưởng. Đánh thuế không gây biến dạng không ảnh hưởng đến quyết
định tiết kiệm / đầu tư vì bản chất giả định của chức năng ưu tiên, và do đó không ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng . Chi tiêu chính phủ được phân biệt tùy thuộc vào việc
chúng có là các đối số trong các hàm sản xuất tư nhân hay không. Nếu có, sau đó chúng
được phân loại như sản xuất và do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng. Nếu
không chúng được phân loại là chi phí không sản xuất và không ảnh hưởng đến trạng thái
ổn định của tăng trưởng (xem Barro và Sala -i-Martin, năm 1995, cho một lý thuyết giải
trình rõ ràng ).
Những kết quả này có thể được mở rộng trong nhiều cách khác nhau, ví dụ như cho
phép chính phủ cung cấp những hàng hóa có sẵn chứ không phải là ở ngoài đổ vào
(Glo mm và Ravikumar, 1994, 1997) hoặc cho các sắc thuế đánh gây biến dạng (hoặc các
hình thức khác nhau của chi tiêu sản xuất) ở các mức độ khác nhau (Devarajan và cộng
6
sự, 1996;.. Mendoza và cộng sự, 1997). Tất nhiên có thể có một số cuộc tranh luận về
việc phân loại các khoản chi đặc biệt như sản xuất hay phi sản xuất, hoặc các loại thuế
đặc biệt như biến dạng hoặc không gây biến dạng, và đây là một điểm mà chúng ta quay
trở lại trong phần thực nghiệm.
Các mô hình dự đoán rằng thay đổi quan điểm của việc thu thuế từ các sắc thuế có
gây biến dạng và hướng tới các hình thức đánh thuế không gây biến dạng có tác dụng
thúc đẩy tăng trưởng, trong khi chuyển đổi từ chi tiêu sản xuất sang chi tiêu phi sản xuất,
tăng trưởng chậm lại. Những tài trợ thuế không gây biến dạng gia tăng trong chi phí sản
xuất được dự đoán sẽ có một tác động tích cực đối với tốc độ tăng trưởng, trong khi
những tài trợ thuế gây biến dạng thì hiệu quả tăng trưởng dự đoán là không rõ ràng. Cuối
cùng chi phí phi sản xuất được trả bằng đánh thuế gây biến dạng có ảnh hưởng tiêu cực
đến tăng trưởng rõ ràng, nhưng hiệu quả không được dự đoán nếu tài trợ thuế không gây
biến dạng được sử dụng (xem Barro, 1990).
Trong nghiên cứu thực nghiệm là một vấn đề đặc điểm kỹ thuật của một số tầm quan
trọng và một trong đó đã được tất cả các quá thường xuyên bị bỏ qua, đó là tài trợ rõ ràng
hoặc tiềm ẩn của một sự thay đổi đơn vị trong một phần tử của ngân sách nhà nước sẽ
ảnh hưởng đến hệ số ước lượng. Để đặt các điểm chính thức, giả sử rằng tốc độ tăng
trưởng, git, trong đất nước tôi tại thời điểm t là một chức năng điều hòa (phi tài chính)
biến, Yit, và một vector của các biến số tài chính, Xjt.
Mô hình hồi quy ban đầu: