
TIỂU LUẬN:
Giải pháp chống thất thu thuế nhập
khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu
thuộc Tổng cục Hải quan

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế xuất nhập khẩu ngay từ khi ra đời đã luôn khẳng định được vai trò của nó
trong việc đóng góp vào Ngân sách Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã
hội, các nhiệm vụ chính trị, ngoại giao của Nhà nước trong từng thời kỳ, bảo hộ sản
xuất trong nước, và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam, thuế xuất nhập
khẩu chiếm khoảng 1/3 tổng thu Ngân sách Nhà nước. Với tốc độ gia tăng và đa
dạng hóa của xu thế hội nhập, cùng với yêu cầu thực hiện các cam kết trong hội
nhập kinh tế quốc tế như từng bước phải cắt giảm thuế quan thì nguồn thu từ thuế
nhập khẩu chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, gây khó khăn trong công tác thu thuế của
ngành Hải quan. Thêm vào đó, việc quản lý số thu thuế, tình hình nợ thuế, tình
trạng trốn thuế, gian lận thương mại trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của các đối
tượng ngày càng nghiêm trọng và phổ biến với nhiều phương thức và thủ đoạn rất
tinh vi, phức tạp, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ
đồng. Việc trốn thuế, nợ thuế xảy ra ở tất cả các con đường xuất nhập khẩu, từ
đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không đến đường bưu điện, xảy ra ở
mọi hình thức, tính chất của hàng hóa xuất nhập khẩu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu thuế nhập khẩu. Đó có thể là
nguyên nhân khách quan như chính sách chế độ thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai
họa bất ngờ…hay là nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian lận,
trốn thuế, chiếm dụng tiền thuế… Và cho dù là nguyên nhân nào đi nữa, thất thu
thuế nhập khẩu không chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu Ngân sách Nhà nước, đến môi
trường kinh doanh và làm giảm tính hiệu lực của các công cụ quản lý thuế. Vì vậy,
việc tìm ra các giải pháp để chống thất thu thuế nhập khẩu là một trong những nội
dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như nhận thấy tầm quan trọng của công tác
chống thất thu thuế nhập khẩu, kết hợp với những kiến thức đã lĩnh hội được từ quá
trình học tập ở trường cũng như qua một thời gian được nghiên cứu, tìm hiểu và
thực tập tại Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan, em đã quyết

định chọn đề tài: “Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất
nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận, phụ ;ục và tài lieu tham khảo, chuyên đề
thực tập của em gồm có ba chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chống thất thu thuế nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập
khẩu thuộc Tổng cục Hải quan.
Chương III: Phương hướng và giải pháp trong công tác chống thất thu thuế
nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU.
1.1 Khái quát về thuế nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm về thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa nhập khẩu qua biên
giới, cửa khẩu Việt Nam kể cả hàng từ thị trường Việt Nam vào khu phi thuế quan
và từ khu phi thuế quan ra thị trường Việt Nam theo quy định.
Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là thuế gián thu, được cấu thành trong giá cả hàng hóa nhập
khẩu.
- Thuế nhập khẩu gắn chặt với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ.
- Thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: xu
hướng thương mại kinh tế quốc tế hay hiện tượng biến động kinh tế quốc tế…Thuế
nhập khẩu cũng có tác động điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hóa của một quốc
gia.
1.1.2 Vai trò của thuế nhập khẩu
1.1.2.1 Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà
nước

Nguồn thu ngân sách nhà nước được cấu thành từ các nguồn chính: thuế, phí,
lệ phí. Trong đó, thuế đóng góp một tỷ trọng lớn ảnh hưởng đến quy mô ngân sách.
Trong cơ cấu thuế, thuế xuất nhập khẩu chiếm một phần quan trọng. Thông qua
thuế nhập khẩu Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động
nhập khẩu hàng hóa tập trung vào ngân sách. Tùy thuộc vào mỗi thời kỳ, giai đoạn
lịch sử khác nhau, sự phát triển kinh tế đối ngoại, quan điểm sử dụng mà thuế xuất
khẩu, nhập khẩu có vai trò khác nhau đối với những quốc gia khác nhau trong việc
tạo lập nguồn thu ngân sách Nhà nước. Với các nước phát triển, nguồn thu từ thuế
xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng không đáng kể trong tổng thu ngân sách nhà nước
(chỉ từ 1-5%). Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, thuế xuất nhập khẩu luôn
chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam những năm gần
đây, thuế xuất khẩu, nhập khẩu( mà chủ yếu là thuế nhập khẩu) đóng góp khoảng
25-30% trong tổng thu về thuế.
Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện chủ trương cải cách thuế và thực hiện các
cam kết cắt giảm thuế: ASEAN, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,
WTO… nguồn thu về thuế nhập khẩu giảm dần trong tổng thu về thuế.
1.1.2.2 Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp tới đầu vào quá trình sản xuất thông qua
việc đánh thuế trên hàng nhập khẩu là máy móc, tư liệu, thiết bị sản xuất… Ngoài
chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế giống như các loại thuế gián thu
khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước qua việc tác
động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu, cụ thể:
- Với hàng hóa là thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, việc
đánh thuế nhập khẩu thấp tác động trực tiếp đến đầu vào của sản phẩm, giá đầu vào
giảm, giúp doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều kiện đổi mới công nghệ, giảm
giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
hóa sản xuất trong nước. Nhà nước thế hiện quan điểm của mình thông qua chính
sách thuế nhập khẩu, và qua nội dung chính sách thuế nhập khẩu, thị trường sẽ xác
định tín hiệu hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân từ ngành sản xuất kém hiệu quả sang ngành sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên,

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng là chiến lược phát triển
của nền kinh tế quốc gia.
- Với những loại hàng hóa khác, tùy thuộc vào nhu cầu và đối tượng sử dụng
mà thuế nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng bằng việc đánh
thuế thấp hay cao. Việc đánh thuế hàng nhập khẩu thể hiện mức độ hàng được sản
xuất trong nước (hàng cùng loại, hàng tương tự), bởi lẽ:
+ Khi đánh thuế hàng nhập khẩu cao thì giá cả hàng nhập khẩu cao, điều này
dẫn đến hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong
nước, nhờ đó mà hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh hơn hàng
nhập khẩu do giá thành hạ so với hàng nhập khẩu tạo điều kiện sản xuất trong nước
phát triển.
+ Khi đánh thuế hàng nhập khẩu thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu những mặt
hàng đó, người tiêu dùng có điều kiện dùng hàng nhập khẩu (giá rẻ, chất lượng
cao…), trực tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện công
tác tổ chức quản lý, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao năng lực sản xuất, mở
rộng thị trường thì mới có khả năng cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, vai trò bảo hộ
của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế do việc phải thực hiện các cam kết quốc tế và khu
vực. Hơn nữa trong thực tế, nếu quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của thuế nhập
khẩu với các ngành sản xuất tron nước sẽ không những không thực hiện được chính
sách đối ngoại của Nhà nước, mà còn khiến nền sản xuất trong nước trở nên trì trệ,
kém phát triển.
Có thể khẳng định rằng, thuế nhập khẩu là hàng rào bảo hộ sản xuất trong
nước hiệu quả và minh bạch nhất. Ứng với mức thuế nhập khẩu càng cao thì mức
độ mở cửa thị trường càng hạn chế và ngược lại. Vì vậy, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, và đặc biệt là thuế nhập khẩu là một trong những nội dung quan trọng nhất
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, nước xin gia nhập phải tiến hành
đàm phán với những nước thành viên, từ đó lập ra một biểu các cam kết về thuế
nhập khẩu. Ngoài những nhân nhượng do nước xin gia nhập tực đưa ra, các nước
thành viên còn lại có thể đòi cắt giảm thuế, loại bỏ một số biện pháp phi thuế mà họ