TIỂU LUẬN:
Giải pháp chống thất thu thuế nhập
khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế xuất nhập khẩu ngay từ khi ra đời đã luôn khẳng định được vai trò của nó
trong việc đóng góp vào Ngân sách Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã
hội, các nhiệm vụ chính trị, ngoại giao của Nhà nước trong từng thời kỳ, bảo hộ sản
xuất trong nước, và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam, thuế xuất nhập
khẩu chiếm khoảng 1/3 tổng thu Ngân sách Nhà nước. Với tốc độ gia tăng và đa
dạng hóa của xu thế hội nhập, cùng với yêu cầu thực hiện các cam kết trong hội
nhập kinh tế quốc tế như từng bước phải cắt giảm thuế quan thì nguồn thu từ thuế
nhập khẩu chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, gây khó khăn trong công tác thu thuế của
ngành Hải quan. Thêm vào đó, việc quản lý số thu thuế, tình hình nợ thuế, tình
trạng trốn thuế, gian lận thương mại trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của các đối
tượng ngày càng nghiêm trọng và phổ biến với nhiều phương thức và thủ đoạn rất
tinh vi, phức tạp, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ
đồng. Việc trốn thuế, nợ thuế xảy ra ở tất cả các con đường xuất nhập khẩu, từ
đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không đến đường bưu điện, xảy ra ở
mọi hình thức, tính chất của hàng hóa xuất nhập khẩu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu thuế nhập khẩu. Đó có thể là
nguyên nhân khách quan như chính sách chế độ thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai
họa bất ngờ…hay là nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian lận,
trốn thuế, chiếm dụng tiền thuế… Và cho dù là nguyên nhân nào đi nữa, thất thu
thuế nhập khẩu không chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu Ngân sách Nhà nước, đến môi
trường kinh doanh và làm giảm tính hiệu lực của các công cụ quản lý thuế. Vì vậy,
việc tìm ra các giải pháp để chống thất thu thuế nhập khẩu là một trong những nội
dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như nhận thấy tầm quan trọng của công tác
chống thất thu thuế nhập khẩu, kết hợp với những kiến thức đã lĩnh hội được từ quá
trình học tập ở trường cũng như qua một thời gian được nghiên cứu, tìm hiểu và
thực tập tại Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan, em đã quyết
định chọn đề tài: “Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất
nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận, phụ ;ục và tài lieu tham khảo, chuyên đề
thực tập của em gồm có ba chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chống thất thu thuế nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập
khẩu thuộc Tổng cục Hải quan.
Chương III: Phương hướng và giải pháp trong công tác chống thất thu thuế
nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU.
1.1 Khái quát về thuế nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm về thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa nhập khẩu qua biên
giới, cửa khẩu Việt Nam kể cả hàng từ thị trường Việt Nam vào khu phi thuế quan
và từ khu phi thuế quan ra thị trường Việt Nam theo quy định.
Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là thuế gián thu, được cấu thành trong giá cả hàng hóa nhập
khẩu.
- Thuế nhập khẩu gắn chặt với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ.
- Thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: xu
hướng thương mại kinh tế quốc tế hay hiện tượng biến động kinh tế quốc tế…Thuế
nhập khẩu cũng có tác động điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hóa của một quốc
gia.
1.1.2 Vai trò của thuế nhập khẩu
1.1.2.1 Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà
nước
Nguồn thu ngân sách nhà nước được cấu thành từ các nguồn chính: thuế, phí,
lệ phí. Trong đó, thuế đóng góp một tỷ trọng lớn ảnh hưởng đến quy mô ngân sách.
Trong cơ cấu thuế, thuế xuất nhập khẩu chiếm một phần quan trọng. Thông qua
thuế nhập khẩu Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động
nhập khẩu hàng hóa tập trung vào ngân sách. Tùy thuộc vào mỗi thời kỳ, giai đoạn
lịch sử khác nhau, sự phát triển kinh tế đối ngoại, quan điểm sử dụng mà thuế xuất
khẩu, nhập khẩu có vai trò khác nhau đối với những quốc gia khác nhau trong việc
tạo lập nguồn thu ngân sách Nhà nước. Với các nước phát triển, nguồn thu từ thuế
xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng không đáng kể trong tổng thu ngân sách nhà nước
(chỉ từ 1-5%). Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, thuế xuất nhập khẩu luôn
chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam những năm gần
đây, thuế xuất khẩu, nhập khẩu( mà chủ yếu là thuế nhập khẩu) đóng góp khoảng
25-30% trong tổng thu về thuế.
Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện chủ trương cải cách thuế và thực hiện các
cam kết cắt giảm thuế: ASEAN, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,
WTO… nguồn thu về thuế nhập khẩu giảm dần trong tổng thu về thuế.
1.1.2.2 Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp tới đầu vào quá trình sản xuất thông qua
việc đánh thuế trên hàng nhập khẩu là máy móc, tư liệu, thiết bị sản xuất… Ngoài
chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế giống như các loại thuế gián thu
khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước qua việc tác
động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu, cụ thể:
- Với hàng hóa là thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, việc
đánh thuế nhập khẩu thấp tác động trực tiếp đến đầu vào của sản phẩm, giá đầu vào
giảm, giúp doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều kiện đổi mới công nghệ, giảm
giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
hóa sản xuất trong nước. Nhà nước thế hiện quan điểm của mình thông qua chính
sách thuế nhập khẩu, và qua nội dung chính sách thuế nhập khẩu, thị trường sẽ xác
định tín hiệu hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân từ ngành sản xuất kém hiệu quả sang ngành sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng là chiến lược phát triển
của nền kinh tế quốc gia.
- Với những loại hàng hóa khác, tùy thuộc vào nhu cầu và đối tượng sử dụng
mà thuế nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng bằng việc đánh
thuế thấp hay cao. Việc đánh thuế hàng nhập khẩu thể hiện mức độ hàng được sản
xuất trong nước (hàng cùng loại, hàng tương tự), bởi lẽ:
+ Khi đánh thuế hàng nhập khẩu cao thì giá cả hàng nhập khẩu cao, điều này
dẫn đến hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong
nước, nhờ đó mà hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh hơn hàng
nhập khẩu do giá thành hạ so với hàng nhập khẩu tạo điều kiện sản xuất trong nước
phát triển.
+ Khi đánh thuế hàng nhập khẩu thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu những mặt
hàng đó, người tiêu dùng có điều kiện dùng hàng nhập khẩu (giá rẻ, chất lượng
cao…), trực tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện công
tác tổ chức quản lý, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao năng lực sản xuất, mở
rộng thị trường thì mới có khả năng cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, vai trò bảo hộ
của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế do việc phải thực hiện các cam kết quốc tế và khu
vực. Hơn nữa trong thực tế, nếu quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của thuế nhập
khẩu với các ngành sản xuất tron nước sẽ không những không thực hiện được chính
sách đối ngoại của Nhà nước, mà còn khiến nền sản xuất trong nước trở nên trì trệ,
kém phát triển.
Có thể khẳng định rằng, thuế nhập khẩu là hàng rào bảo hộ sản xuất trong
nước hiệu quả và minh bạch nhất. Ứng với mức thuế nhập khẩu càng cao thì mức
độ mở cửa thị trường càng hạn chế và ngược lại. Vì vậy, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, và đặc biệt là thuế nhập khẩu là một trong những nội dung quan trọng nhất
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, nước xin gia nhập phải tiến hành
đàm phán với những nước thành viên, từ đó lập ra một biểu các cam kết về thuế
nhập khẩu. Ngoài những nhân nhượng do nước xin gia nhập tực đưa ra, các nước
thành viên còn lại có thể đòi cắt giảm thuế, loại bỏ một số biện pháp phi thuế mà họ
quan tâm. Các cuộc đàm phán song phương này được diễn ra trên cơ sở đưa ra yêu
cầu và phản hồi. Sau đó, từ các kết quả của tất cả các cuộc đàm phán sẽ tổng hợp
chung vào một biểu cam kết của nước xin gia nhập để làm cơ sở thực hiện.
1.1.2.3 Vai trò kiểm soát và điều tiết với hàng hóa nhập khẩu
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, việc mua bán hàng hóa diễn ra
ở hầu khắp các nước, dưới nhiều hình thức, đa dạng về chủng loại, có hàng hóa
phục vụ an ninh quốc phòng, có hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu, nhưng cũng có
loại hàng hóa xâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia, đời sống nhân dân như ma
túy, vũ khí, văn hóa phẩm đồi trụy… Thông qua việc kiểm tra và thu thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu để nắm được thực trạng hàng hóa nhập khẩu thuộc chủng loại
gì,số lượng bao nhiêu, được nhập từ nước nào…Qua đó, Nhà nước kiểm soát được
toàn bộ các loại hàng hóa nhập khẩu, để có những điều chỉnh chính sách với hàng
hóa nhập khẩu kịp thời và phù hợp với thực tiễn.
Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, bên cạnh các biện pháp phi thuế
quan như: hạn ngạch, giấy phép, cấp phép tự động…thì biện pháp sử dụng công cụ
thuế nhập khẩu được các nước sử dụng một cách phổ biến. Nhà nước khuyến khích
hay hạn chế nhập khẩu đối với từng loại hàng hóa thông qua công cụ thuế nhập
khẩu, chẳng hạn như: với nguyên vật liệu cần cho sản xuất trong nước mà trong
nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế thì Nhà
nước quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu thậm chí bằng 0% nhằm mục đích
khuyến khích nhập khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước. Với những hàng hóa trong
nước đã sản xuất đủ nhu cầu tiêu dùng hoặc những sản phẩm tiêu dùng cao cấp (ô
tô, điều hòa, rượu bia…), thuế suất thuế nhập khẩu thường quy định ở mức thuế cao
nhằm hạn chế nhập khẩu và hạn chế tiêu dùng. Như vậy, thông qua công cụ thuế
nhập khẩu, Nhà nước thực hiện điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
1.1.2.4 Khẳng định vai trò chủ quyền quốc gia, chống phân biệt đối xử trong
thương mại quốc tế.
Vai trò này được thể hiện ở chỗ, bất kể một loại hàng hóa nào nhập khẩu vào
Việt Nam đều phải khai báo, xuất trình, kiểm tra và nộp thuế (nếu có). Moi hành
động phân biệt đối xử của nước ngoài với hàng hóa Việt Nam nếu làm tổn hại đến
nền sản xuất trong nước đều phải chịu các biện pháp trả đũa thông qua áp dụng thuế
nhập khẩu bổ sung.
Tóm lại, tuy tình hình kinh tế, chính trị của thế giới và mỗi nước từng giai
đoạn khác nhau mà việc sử dụng thuế nhập khẩu ở mỗi quốc gia có những đặc
điểm khác nhau. Theo xu hướng chung, khi nền kinh tế phát triển, khả năng cạnh
tranh lớn, hàng rào bảo hộ bằng thuế nhập khẩu trở nên không cần thiết. Ngược lại
ở các nước đang phát triển, thuế nhập khấu đóng vai trò rất quan trọng trong việc
bảo hộ nền sản xuất trong nước. Là nước đang phát triển và trong quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, Việt Nam sử dụng thuế nhập khẩu với hai mục tiêu chủ yếu là
bảo hộ và khuyến khích đầu tư, sản xuất trong nước. Hầu hết các mặt hàng sản xuất
trong nước đều có sự hỗ trợ bằng hàng rào thuế quan mới có thể chống đỡ được sự
cạnh tranh của hàng nhập khẩu trên thị trường.
1.1.3 Một số nội dung cơ bản của thuế nhập khẩu
1.1.3.1 Phạm vi áp dụng
* Đối tượng chịu thuế: Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam
bao gồm:
- Hàng hóa nhập khẩu qua đường bộ, đường sông, đường biển, cảng hàng
không, đường sắt liên vận quốc tế, bưu điện quốc tế, địa điểm làm thủ tục hải quan
khác được thành lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
- Hàng hóa đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước;
- Hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hang nhập khẩu.
* Đối tượng không chịu thuế:
- Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giwois
Việt Nam theo quy định pháp luật về hải quan.
- Hàng hóa từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài, từ nước ngoài nhập
khẩu vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hóa đưa
từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác.
- Hàng hóa viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của các Chính phủ, tổ
chức Liên hợp quốc, các tổ chức liên Chính phủ, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi
Chính phủ nước ngoài, các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân người nước ngoài cho Việt
Nam nhằm phát triển kinh tế xã hội hoặc mục đích nhân đạo khác được thực hiện
thông qua các văn kiện chính thức giữa 2 bên, được cấp có thẩm quyền phê duyệt,
các khoản trự giúp nhân đạo, cứu trợ khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh,
thiên tai, dịch bệnh.
* Đối tượng nộp thuế:
Đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc loại
hàng hóa chịu thuế nhập khẩu theo quy định.
Với trường hợp hàng hóa xuất khẩu thực hiện theo phương thức ủy thác thì tổ
chức, cá nhân nhận ủy thác chịu trách nhiệm nộp thuế nhập khẩu.
1.1.3.2 Căn cứ tính thuế
Đối với hàng hóa áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm: căn cứ tính thuế nhập
khẩu được tính vào số lượng hàng hóa ghi trong tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu,
giá tính thuế và thuế suất của mặt hàng nhập khẩu.
* Trị giá tính thuế:
Giá tính thuế là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên bao gồm
cả phí vận tải, phí bảo hiểm theo hợp theo hợp đồng và được xác định theo quy định
của pháp luật về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu, phù hợp với các cam
kết quốc tế.
* Phương pháp tính thuế với hàng hóa áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm:
Căn cứ số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan,
trị giá tính thuế và thuế suất từng mặt hàng để xác định số thuế phải nộp theo công
thức sau:
Số lượng đơn vị Trị giá tính Thuế suất từng mặt hàng thực thuế trên một Số thuế NK tế nhập khẩu ghi x x của từng đơn vị hàng phải nộp mặt hàng trong tờ khai Hải hóa quan
Trường hợp số lượng hàng hóa nhập khẩu thực tế chênh lệch so với hóa đơn
thương mại do tính chất của hàng hóa, phù hợp với điều kiện giao hàng và điều kiện
thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì số thuế nhập khẩu phải nộp được
xác định trên cơ sở trị giá thực thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu và thuế suất từng
mặt hàng.
* Đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối, căn cứ tính thuế là:
+ Số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong Tờ khai hải quan.
+ Mức thuế tuyệt đối tính trên một đơn vị hàng hóa (Số lượng hàng hóa nhập
khẩu là số lượng thực tế nhập khẩu trong Danh mục hàng hóa áp dụng thuế tuyệt
đối).
Việc xác định số thuế phải nộp đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối thực
hiện theo công thức sau:
Mức thuế tuyệt Số lượng đơn vị từng mặt hàng Số thuế nhập đối quy định trên = thực tế nhập khẩu ghi trong tờ x khẩu phải nộp một đơn vị hàng khai Hải quan hóa
1.1.3.3 Thuế suất thuế nhập khẩu
Thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt
hàng, gồm có:
- Thuế suất thông thường được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
những nước không có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với
Việt Nam. Thuế suất thông thường áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất
ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng trong quy định tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi:
Thuế Thuế suất suất 150% thông thường ưu đãi
- Thuế suất ưu đãi được áp dụng với hàng hóa có xuất xứ từ nước có thỏa
thuận đối xử tối huệ quốc với Việt Nam. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định biểu
thuế theo danh mục nhóm hàng chịu thuế, khung thuế suất đối với từng nhóm hàng.
Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định biểu thuế theo danh mục mặt hàng có thuế suất
cụ thể với từng mặt hàng.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
những nước mà Việt Nam có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Chính
phủ quy định thuế suất ưu đãi đặc biệt cho từng loại mặt hàng theo thỏa thuận đã
ký kết.
Ngoài 3 loại thuế suất trên, một số trường hợp có thể áp dụng thuế suất bổ
sung. Nếu hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam, có sự trợ cấp, được bán phá giá
hoặc có phân biệt đối xử với hàng xuất khẩu của Việt Nam thì sẽ bị áp dụng thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế để tự vệ.
1.1.3.4 Chế độ miễn thuế, giảm thuế thuế nhập khẩu
a. Miễn thuế nhập khẩu
Vấn đề miễn thuế được xem xét dưới hai mức độ: miễn thuế và xét miễn
thuế. Về miễn thuế, theo các văn bản pháp quy quy định các trường hợp sau đây:
* Hàng hóa miễn thuế:
- Hàng viện trợ không hoàn lại gồm: Hàng viện trợ không hoàn lại song
phương và đa phương của các tổ chức phi Chính phủ và Chính phủ; hàng viện trợ
không hoàn lại của các tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế; hàng hóa nước ngoài hoặc
các tổ chức tôn giáo của Việt Nam để dùng trực tiếp cho khoa học, giáo dục, y tế,
văn hóa, tôn giáo.
- Hàng tạm nhập- tái xuất, tạm xuất - tái nhập dự hội chợ, triển lãm nếu được
phép của Nhà nước.
- Hàng hóa là tài sản di chuyển được miễn thuế theo quy định pháp luật.
- Hàng mang theo hoặc gửi về của công dân Việt Nam đi hợp tác lao động,
hợp tác chuyên gia, hoặc công tác và học tập ở nước ngoài nằm trong tiêu chuẩn
miễn trừ.
- Hàng hoá nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách nhập
cảnh tại các cửa khẩu Việt Nam theo định mức quy định.
- Hàng nhập khẩu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng tiêu
chuẩn miễn trừ ngoại giao do Chính phủ quy định theo các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
- Hàng vật tư, nguyên liệu nhập để gia công cho nước ngoài rồi xuất theo
hợp đồng đã ký kết bao gồm các hình thức sau: nhận vật tư, nguyên liệu về sản xuất
rồi giao toàn bộ thành phẩm cho nước ngoài theo hợp đồng gia công đã ký kết.
- Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải do các nhà thầu mang vào Việt Nam
theo phương thức tạm nhập - tái xuất để phục vụ thi công công trình và dự án sử
dụng nguồn vốn ODA.
* Hàng hoá xét miễn thuế nhập khẩu
Xét miễn thuế có nghĩa là về nguyên tắc hàng hóa đó phải nộp thuế, song
trong một số điều kiện, trường hợp cụ thể có thể xem xét miễn thuế. Theo các văn
bản pháp quy về thuế xuất, nhập khẩu hiện hành thì có các trường hợp sau đây được
xét miễn thuế nhập khẩu:
- Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng,
nghiên cứu khoa học và đào tạo. Điều kiện được miễn là: hàng đó phải trực tiếp
phục vụ chứ không phải để kinh doanh; hàng phải nằm trong kế hoạch nhập khẩu
hàng năm được Bộ trưởng Bộ chủ quản phê duyệt.
- Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nước ngoài
hợp tác kinh doanh trong từng trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư. Điều
kiện được xét miễn thuế là: Có giấy phép đầu tư do Ủy ban Nhà nước về hợp tác đầu
tư cấp, danh mục thiết bị, máy móc, phụ tùng, các phương tiện sản xuất kinh doanh,
vật tư nhập khẩu vào Việt Nam do Bộ thương mại cấp.
- Hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho các tổ
chức, cá nhân Việt Nam và ngược lại sẽ được miễn thuế theo mức quy định của Bộ
Tài chính.
- Hàng nhập khẩu để bán ở các cửa hàng miễn thuế với mục đích phục vụ
cho người xuất cảnh, cho cơ quan đại diện nước ngoài, người nước ngoài tại Việt
Nam được cơ quan có thẩm quyền quy định.
b.Giảm thuế nhập khẩu
Hàng hoá nhập khẩu đang trong quá trình giám sát của cơ quan hải quan nếu
bị hư hỏng, hao hụt, mất mát sẽ được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám
định, chứng nhận thì được xét giảm thuế tương ứng với tỷ lệ tổn thất thực tế của
hàng hoá. Cục hải quan địa phương căn cứ vào số lượng hàng hoá bị mất mát, hư
hỏng và tỷ lệ tổn thất thực tế của hàng hoá đã giám định để xem xét và ra quyết
định giảm thuế.
1.1.3.5 Hoàn thuế, truy thu thuế nhập khẩu
a. Hoàn thuế nhập khẩu
Hoàn thuế nhập khẩu là một đòi hỏi khách quan khi có sự cố xảy ra trong việc
thu thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế. Các trường hợp
sau được xét hoàn thuế theo quy định:
- Hàng hóa đã nhập khẩu vào Việt Nam đã kê khai nhập và nộp thuế nhập
khẩu nhưng hàng còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu sự giám sát của cơ
quan hải quan được phép tái xuất ra nước ngoài.
- Hàng hóa nhập khẩu đã nộp thuế nhập khẩu nhưng thực tế không nhập khẩu.
- Hàng hóa đã nộp thuế nhập khẩu nhưng thực tế nhập khẩu ít hơn so với tờ
khai.
- Hàng hóa đã nộp thuế nhập khẩu, sau đó xuất khẩu trở lại.
- Hàng hóa là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đã nộp
thuế nhập khẩu sẽ được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu.
- Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức kinh doanh hàng
hóa tạm nhập, tái xuất và hang hóa nhập khẩu ủy thác cho phía nước ngoài sau đó
tái xuất được xét hoàn lại thuế nhập khẩu tương ứng với hàng tái xuất.
- Hàng hóa nhập khẩu nhưng phải tái xuất trả lại cho chủ hàng nước ngoài
hoặc tái xuất sang nước thứ ba thì được xét hoàn lại số thuế nhập khẩu đã nộp tương
ứng với số lượng hàng hóa thực tế tái xuất, và không phải nộp thuế nhập khẩu.
- Máy móc, dụng cụ, thiết bị, phương tiện vận chuyển của tổ chức hay cá nhân
được phép tạm nhập, tái xuất. Khi nhập khẩu đã nộp thuế nhập khẩu, khi tái xuất sẽ
được hoàn lại số thuế nhập khẩu tương ứng với tình trạng, thời gian sử dụng máy
theo quy định của pháp luật.
Trường hợp khi nhập khẩu là hàng hoá mới:
Thời gian sử dụng và lưu trú Số thuế nhập khẩu được hoàn tại Việt Nam
Từ 6 tháng trở xuống 90% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 6 tháng đến 1 năm 80% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 1 năm đến 2 năm 70% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 2 năm đến 3 năm 60% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 3 năm đến 5 năm 50% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 5 năm đến 7 năm 40% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 7 năm đến 9 năm 30% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 9 năm đến 10 năm 10% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 10 năm Không được hoàn
Trường hợp khi nhập khẩu là hàng hoá đã qua sử dụng
Thời gian sử dụng và lưu trú Số thuế nhập khẩu được hoàn tại Việt Nam
Từ 6 tháng trở xuống 60% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 6 tháng đến 1 năm 50% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 1 năm đến 2 năm 40% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 2 năm đến 3 năm 35% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 3 năm đến 5 năm 30% số thuế nhập khẩu đã nộp
Từ trên 5 năm Không được hoàn
- Một số trường hợp khác sẽ được hoàn thuế theo quy định của pháp luật.
b. Truy thu thuế nhập khẩu
Những trường hợp sau đây phải truy thu thuế nhập khẩu:
- Trường hợp được miễn thuế, xét miễn thuế theo quy định nhưng sau đó hàng
hóa được sử dụng vào mục đích khác với mục đích đã được miễn, xét miễn thuế thì
phải nộp đủ thuế, trừ trường hợp chuyển nhượng cho đối tượng thuộc diện miễn
thuế, xét miễn thuế theo quy định.
- Trường hợp đối tượng nộp thuế hoặc cơ quan hải quan nhầm lẫn trong kê
khai, tính thuế hay nộp thuế thì phải truy thu số tiền thuế còn thiếu trong thời gian
365 ngày trở về trước, kể từ ngày phát hiện có sự nhầm lẫn. Ngày phát hiện sự
nhầm lẫn là ngày ký văn bản xác nhận có sự nhầm lẫn giữa đối tượng nộp thuế và
cơ quan hải quan.
- Nếu phát hiện có sự gian lận, trốn thuế thì phải truy thu thuế trong thời hạn 5
năm về trước, kể từ ngày kiểm tra, phát hiện. Ngày kiểm tra, phát hiện có sự gian
lận là ngày cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký quyết định truy thu thuế nhập
khẩu.
1.1.3.6 Thủ tục kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế nhập khẩu:
a. Thủ tục kê khai:
Các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu phải kê khai đầy đủ, chính xác
nội dung theo quy định của pháp luật, nộp tờ khai hàng hóa nhập khẩu và các hồ sơ
liên quan cho cơ quan hải quan nơi làm thủ tục nhập khẩu.
b. Thời han nộp thuế nhập khẩu:
- Với hàng hóa là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu: là
9 tháng (275 ngày) kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo thuế của cơ
quan hải quan về số thuế phải nộp.
- Với hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập – tái xuất: 15 ngày kể
từ ngày hết hạn của cơ quan có thẩm quyền cho phép hàng tạm nhập - tái xuất.
- Với hàng tiêu dùng: phải nộp thuế nhập khẩu trước khi nhận hàng trừ một số
trường hợp quy định.
- Với hàng hóa nhập khẩu phi mậu dịch, nhập khẩu của cư dân biên giới: đối
tượng nộp thuế phải nộp thuế trước khi nhập khẩu hàng hóa.
- Với hàng hóa không thuộc diện quy định trên: thời hạn nộp thuế nhập khẩu là
30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo thuế của cơ quan hải
quan về số thuế phải nộp.
1.2 Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chông thất thu thuế
nhập khẩu
1.2.1 Khái niệm thất thu thuế nhập khẩu
Hiểu một cách đơn giản, thất thu thuế là khoản tiền thuế bị đối tượng nộp thuế
chiếm dụng, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định của chính sách thuế.
Vậy thất thu thuế nhập khẩu là khoản tiền thuế nhập khẩu bị tổ chức, cá nhân
có hàng hóa nhập khẩu chiếm dụng, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định của
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Dựa vào tính chất của khoản thuế bị thất thu, có thể phân loại thất thu thuế
thành hai loại:
- Khoản tiền thuế thất thu có khả năng thu hồi: Là các khoản nợ thuế có khả
năng thu hồi cao, do doanh nghiệp nợ thuế vẫn hoạt động bình thường hoặc đang
chờ xác định chính xác số thuế phải nộp; số nợ thuế nhỏ của các doanh nghiệp chây
ỳ, có thể giả quyết dứt điểm nếu tổ chức xử lý cương quyết, doanh nghiệp đã ký
biên bản truy thu và cam kết nộp….
- Khoản tiền thuế thất thu không có khả năng thu hồi: Là các khoản thuế phải
truy thu mà đối tượng nộp thuế không có khả năng nộp thuế do doanh nghiệp nợ
thuế không còn nguồn vốn để nộp, doanh nghiệp giải thể, phá sản, làm ăn thua lỗ;
khoản tiền thuế mà cơ quan hải quan không thể kiểm soát được do doanh nghiệp
mất địa chỉ, hàng nhập khẩu không theo đường chính thống, gian lận thương mại…
Mỗi loại thất thu thuế và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là rất
khác nhau. Việc phân loại thất thu thuế nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng trong việc
xử lý và xây dựng các biện pháp quản lý, thu hồi thuế nhập khẩu cho phù hợp.
1.2.2 Sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu
Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
giữa các nước đã trở nên phổ biến và rất phát triển. Để khuyến khích lưu thông hàng
hóa, kích thích nền kinh tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã giảm thiểu hàng rào thuế
quan, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Việt Nam từ khi
gia nhập WTO, kí nhiều hiệp định đa phương và song phương cũng đã cam kết cắt
giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu theo lộ trình của mình để phù hợp với những sân
chơi quốc tế lớn này. Tuy vậy, vai trò của thuế nhập khẩu vẫn không hề suy giảm.
Nó vẫn được coi là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước, là công
cụ góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, đóng vai trò
kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập khẩu, khẳng định vai trò chủ quyền quốc gia,
chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Dưới đây sẽ xem xét tác động của
thất thu thuế trên một số khía cạnh: đối với nền kinh tế, đối với môi trường kinh
doanh,
1.2.2.1 Đối với nền kinh tế
Trước tiên, thất thu thuế nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu ngân
sách Nhà nước. Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà
nước. Thông qua thuế nhập khẩu, Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo
ra từ hoạt động nhập khẩu hàng hóa để tập trung vào ngân sách. Đối với các nước
phát triển, thuế xuất nhập khẩu chiếm một tỷ trọng không đáng kể trong tổng thu
ngân sách Nhà nước (chỉ từ 1-5%). Còn ở các nước đang phát triển, cụ thể như Việt
Nam, số thu từ thuế xuất nhập khẩu luôn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu
ngân sách (khoảng 25-30%). Việc thất thu thuế nhập khẩu do các nguyên nhân khác
nhau khiến các khoản chi của Chính phủ cho đầu tư và phát triển bị hạn chế, dẫn
đến tình trạng mất cân đối nguồn ngân sách. Từ đó, Chính phủ có thể phải sử dụng
các biện pháp như vay tiền trong dân, gây bất ổn nền kinh tế; phát hành tiền tăng
lượng tiền trong nền kinh tế gây lạm phát; nợ nước ngoài dẫn đến lệ thuộc về kinh
tế, chính trị vào các nước cho vay…
Thất thu thuế nhập khẩu còn làm giảm khả năng cạnh tranh của các mặt hàng
trong nước do một lượng hàng hóa trốn thuế được đưa vào thị trường, gây khó khăn
cho nhiều doanh nghiệp và ngành công nghiệp non trẻ đang cần được bảo hộ.
Không những thế, vai trò kiểm soát và điều tiết với hàng hóa nhập khẩu của thuế
nhập khẩu cũng không được đảm bảo khi những hàng hóa cần hạn chế nhập khẩu
hoặc tiêu dùng như ô tô, điều hòa, rượu bia… vẫn ngang nhiên được tiêu thụ trên thị
trường theo cách này hay cách khác mà trốn tránh được sự kiểm soát của các cơ
quan chức năng. Nhiều hàng hóa thậm chí đã bị cấm nhưng vẫn xuất hiện như ma
túy, vũ khí, văn hóa phẩm đồi trụy… xâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia, đời
sống nhân dân, gây bất ổn xã hội.
Để thực sự phát huy vai trò tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, bảo hộ và
khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập
khẩu thì thuế nhập khẩu phải bao quát hết các hoạt động kinh doanh nhập khẩu
hàng hóa của các tổ chức, cá nhân, đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời tiền
thuế nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước
1.2.2.2 Đối với môi trường kinh doanh
Để đảm bảo môi trường kinh doanh được bình đẳng, các doanh nghiệp tham
gia vào hoạt động xuất nhập khẩu phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trong đó nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cũng là một tiêu chí quan
trọng. Sự bất bình đẳng thể hiện ở chỗ, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn chân
chính, thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế, chế độ quyết toán thuế thì tồn tại một số
doanh nghiệp lợi dụng sơ hở chính sách để nợ thế, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế để
thu lợi nhiều hơn. Thất thu thuế nhập khẩu ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh
và tất yếu sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh không công bằng. Một môi trường kinh
doanh như vậy sẽ thật khó để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi tiềm tàng
nhiều nguy cơ rủi ro, bất công và không minh bạch.
Qua những phân tích trên cho thấy, hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu ảnh
hưởng rất lớn đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế. Do vậy, cần có những biện pháp
đúng đắn và kịp thời của các cơ quan hải quan, các cơ quan chức năng có thẩm
quyền liên quan để ngăn chặn và giảm thiểu các hành vi gây thất thu thuế nhập khẩu
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở
CỤC THUẾ XNK THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN.
2.1 Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của Cục thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng
cục Hải quan
Theo quyết định số 1017/QĐ-BTC của Bộ Tài chính quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc
Tổng cục Hải quan như sau:
2.1.1 Vị trí và chức năng
Cục thuế xuất nhập khẩu là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan, có chức
năng tham mưu, giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thực hiện quản lý nhà
nước về thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; trực tiếp tổ chức
thực hiện nghiệp vụ về thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu trong
phạm vi trách nhiệm và quyền hạn được giao theo quy định pháp luật.
Cục Thuế xuất nhập khẩu có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài
khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định pháp luật.
2.1.2 Đặc điểm cơ cấu tổ chức Cục thuế xuất nhập khẩu
Cục thuế xuất nhập khẩu là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan giúp Tổng
cục Hải quan hoàn thành các nhiệm vụ được đề ra.
Cục Thuế xuất nhập khẩu có các phòng:
1. Phòng chính sách
2. Phòng trị giá
3. Phòng phân loại hàng hóa
4. Phòng Dự toán - Tổng hợp
5. Phòng Quản lý nợ và Kế toán thuế
2.1.3 Nhiệm vụ và quyền hạn
1. Trình Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan để trình Bộ trưởng Bộ Tài chính:
a) Văn bản quy phạm pháp luật về xác định trị giá tính thuế xuất khẩu, nhập khẩu;
phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý
thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu;
b) Chiến lược, kế hoạch, dự toán dài hạn, trung hạn, hàng năm về thu thuế và
thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; chương trình và đề án về quản lý
thuế theo phân công của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
c) Đề xuất, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi và bổ sung
các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế, các cơ chế tài chính liên quan đến
thu ngân sách nhà nước;
d) Ý kiến tham gia về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo phân công của Tổng cục
trưởng Tổng cục Hải quan.
2. Trình Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan:
a) Văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, quy chế nội bộ về quản lý thuế đối
với hàng hóa xuất nhập khẩu; quản lý nợ thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; thu
thập và xây dựng cơ sở dữ liệu giá tính thuế; phân loại hàng hóa và áp dụng mức
thuế suất đối với hàng hóa xuất nhập khẩu;
b) Giao nhiệm vụ thu thuế phấn đấu hàng năm cho các Cục Hải quan tỉnh, liên
tỉnh, các thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Các biện pháp chỉ đạo, đôn đốc thực hiện dự toán thu ngân sách đã được
giao hàng năm;
d) Văn bản trả lời các chính sách chế độ, các quy trình, thủ tục về thuế, về
phân loại hàng hóa thuộc thẩm quyền của Tổng cục Hải quan theo quy định pháp
luật;
đ) Kết quả thẩm định các hồ sơ miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, gia hạn nợ và
xóa nợ thuế đối với hàng xuất nhập khẩu để trình lên các cấp có thẩm quyền quyết
định.
3. Tổ chức công tác thu ngân sách, chống gian lận thương mại, quản lý nợ
thuế, cưỡng chế thuế
a) Hướng dẫn và giải thích về giá tính thuế, phân loại hàng hóa, áp dụng mức
thuế, chính sách thuế và quản lý thuế, kế toán thuế và thu khác đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định pháp luật và của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan;
b) Tuyên truyền và phổ biến các văn bản pháp luật, quy chế, quy trình nghiệp
vụ trong lĩnh vực được phân công quản lý;
c) Tổ chức xây dựng, thu thập, cập nhật, khai thác, sử dụng và quản lý cơ sở
dữ liệu về giá tính thuế, phân loại hàng hóa và áp dụng mức thuế suất, cơ sở dữ liệu
về thu ngân sách nhà nước và thu khác đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo các
quy định của pháp luật;
d) Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, thực hiện giao dịch với các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước; tổ chức tiếp nhận tin báo, tố giác; yêu cầu các cơ quan,
các đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để phục vụ công tác quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
đ) Kiểm tra cơ quan hải quan các cấp trong thực hiện công tác thu thuế, quản
lý và xử lý nợ thuế, kế toán thuế, cưỡng chế thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế;
e) Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế với hàng hóa xuất, nhập khẩu;
g) Xét duyệt các báo cáo kế toán thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu của các Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Tổ chức triển khai thực hiện các vấn đề kỹ thuật của Hiệp định trị giá hải
quan (GATT), các cam kết quốc tế về trị giá hải quan; Công ước hài hòa mô tả và
mã hóa hàng hóa (HS) của Tổ chức Hải quan thế giới WCO; các cam kết quốc tế về
phân loại hàng hóa và cắt giảm thuế; thực hiện hợp tác quốc tế về trị giá hải quan,
phân loại hàng hóa theo sự phân công của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan.
5. Tham mưu giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan giải quyết những
khiếu nại và tố cáo trong lĩnh vực thuế theo quy định pháp luật.
6. Đề xuất khen thưởng định kỳ, đột xuất đối với các đơn vị, cá nhân ngoài
ngành hải quan có thành tích trong công tác thu thuế đối với hàng hóa xuất, nhập
khẩu.
7. Tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong
công tác quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
8. Thống kê, đánh giá, tổng kết tình hình và kết quả thực hiện các nhiệm vụ
được giao theo chế độ đã quy định.
9. Phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan xây dựng chương trình,
nội dung giảng dạy nghiệp vụ về thuế và quản lý thuế trong ngành hải quan.
10. Quản lý cán bộ, công chức và tài chính, tài sản được giao theo quy định
pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ Tài chính.
11. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan giao
và theo quy định pháp luật.
2.2 Thực trạng thất thu thuế và công tác chống thất thu thuế.
2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Có thể
nhìn nhận và đánh giá các ngyên nhân như sau:
* Thất thu thuế nhập khẩu do nguyên nhân chủ quan:
Đó là các khoản thất thu thuế phát sinh do người nộp thuế cố tình trốn tránh và
không thực hiện đúng nghĩa vụ về thuế như: khai sai chủng loại hàng hóa để được
hưởng thuế suất thấp; khai thiếu số lượng so với thực tế hàng hóa; kê khai trị giá
tính thuế thấp hơn trị giá thực thanh toán; hàng hóa nhập khẩu để gia công hang hóa
cho nước ngoài, sản xuất hàng xuất khẩu kê khai định mức cao hơn định mức tiêu
hao thực tế để phần chênh lệch tiêu thụ nội địa mà không khai báo với cơ quan hải
quan; làm giả giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) để được hưởng mức thuế suất thấp;
lợi dụng chính sách ân hạn nộp thuế nhập khẩu, sau khi nhập khẩu hàng hóa đã bỏ
trốn… Tất cả những trường hợp trên đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, cạnh
tranh với các đối thủ khác.
Về phía quản lý nhà nước, các chính sách về thuế nhập khẩu vẫn chưa ổn định,
hay thay đổi và không được hệ thống hóa kịp thời, phù hợp với thực tiễn gây khó
khăn cho quá trình thực hiện của người nộp thuế cũng như cơ quan hải quan. Trong
biểu thuế nhập khẩu ưu đãi còn quá nhiều mức thuế suất, khoảng cách giữa các mức
thuế suất thì quá xa; tên hàng và mã số hàng hóa của các biểu thuế đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu hiện hành chưa tương thích với nhau. Ngoài ra, một số quy định của
pháp luật thuế và quản lý thuế còn phức tạp, chưa tương thích, thống nhất với chuẩn
mực quốc tế và khu vực.
Về phía cơ quan hải quan, lực lượng cán bộ hải quan còn thiếu về số lượng,
yếu về nghiệp vụ chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, sơ sài, lạc hậu,
chưa theo kịp với tốc độ tăng nhanh và đa dạng của các hoạt động xuất nhập khẩu.
Sự phối hợp giữa cơ quan hải quan với các ngành, các cấp, các cơ quan có thẩm
quyền trong quản lý thuế hàng nhập khẩu còn nhiều bất cập và thiếu hiệu quả.
* Thất thu thuế nhập khẩu do nguyên nhân khách quan cụ thể trong một số
trường hợp sau:
Do chịu sự tác động ngoài dự kiến, do văn bản quy định không rõ ràng dẫn tới
tranh chấp về mã số thuế, trị giá tính thuế giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải
quan. Đặc biệt đối với những hàng chưa được định danh cụ thể trong Biểu thuế dẫn
đến phát sinh số thuế phải nộp bổ sung sau khi hàng hóa đã được thông quan. Sự
thay đổi đột ngột của các văn bản chính sách (điều chỉnh tăng thuế) sau khi doanh
nghiệp đã ký hợp đồng nhập khẩu, mở L/C, hàng hóa đã bốc lên địa điểm làm thủ
tục kiểm tra hải quan hoặc ký hợp đồng cung cấp cho các đơn vị trong nước dẫn tới
những phát sinh khoản tiền thuế ngoài dự kiến…
Dù với nguyên nhân nào thì thất thu thuế nhập khẩu cũng gây ảnh hưởng
không tốt đến nền kinh tế. Việc tìm ra được nguyên nhân của hiện tượng thất thu
thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng giúp cơ quan hải quan và các cơ quan liên
quan đề ra được định hướng, điều chỉnh chính sách và có các biện pháp kịp thời
nhằm ngăn chặn và hạn chế phần nào hiện tượng này.
2.2.2 Tình hình gian lận về thuế nhập khẩu
Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên phạm vi rộng lớn và sâu sắc. Ngày
càng có nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam, nhờ đó
mà kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm vừa qua không ngừng tăng
lên nhanh chóng cả về số quy mô, loại hình xuất nhập khẩu và mặt hàng xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên, song song với nó là sự phát triển của các thủ đoạn gian lận thương
mại, trốn thuế ngày càng tinh vi và phức tạp. Dưới đây là một số cách thức gian lận,
trốn thuế thường gặp và những biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời đối với từng
trường hợp của Cục thuế xuất nhập khẩu phối hợp cùng các cơ quan hải quan, cơ
quan có thẩm quyền.
2.2.2.1 Gian lận trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất hàng hóa nhập
khẩu
Hàng hóa xuất nhập khẩu đã được phân loại rõ ràng với từng mã số cụ thể kèm
theo các nguyên tắc phân loại hàng hóa và các hướng dẫn về phân loại hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu , các văn bản hiện hành khác. Tuy nhiên, lợi dụng cơ chế tự
khai, tự tính thuế trong quá trình thông quan, nhiều doanh nghiệp vẫn cố tình thực
hiện hành vi mô tả sai hàng hóa trên tờ khai Hải quan nhằm đưa hàng hóa từ mã số
có thuế suất cao về mã số có thuế suất thấp để gian lận thuế. Cũng có không ít
doanh nghiệp đã lợi dụng sự phức tạp trong cơ cấu sản phẩm cũng như tên gọi, đặc
biệt là những sản phẩm mới, là hỗn hợp của nhiều chất hoặc linh kiện khó phân biệt
bằng cảm quan để kê khai vào mã số thuế suất thấp.
Cụ thể, hiện tượng gian lận, trốn thuế qua việc khai sai mã số thường xảy ra
với những mặt hàng có sự chênh lệch về thuế như: hàng điện tử, điện lạnh, sắt thép,
thực phẩm, hàng tiêu dùng… Một tình trạng nữa cũng diễn ra phổ biến là việc các
doanh nghiệp trốn thuế, nhập nhằng trong khai báo hải quan như: khai báo sai mặt
hàng hoặc tính chất mặt hàng để được áp mã số thuế thấp; nhập nhiều nhưng khai ít
hơn thực tế… Có nhiều lô hàng, do khai báo sai mặt hàng dẫn đến chênh lệch và
thất thoát tiền thuế đến vài trăm triệu thậm chí hàng tỷ đồng.
Điển hình là vụ gian lận thuế lô hàng thép trị giá trên 550.000 USD của Công
ty TNHH Thương mại – sản xuất Nguyễn Minh. Công ty này khai báo nhập khẩu lô
hàng thép lá có thuế suất 0% nhưng trên thực tế kiểm tra thì hàng thực nhập lại là
loại thép có thuế suất 4,5% dẫn đến chênh lệch thuế trên 400 triệu đồng. Vẫn liên
quan đến nhập khẩu thép, thời gian gần đây nổi cộm lên hiện tượng “đội lốt” thép
hợp kim để trốn thuế. Doanh nghiệp nhập khẩu thép có chứa nguyên tố hợp kim vi
lượng Boron (Bo) hưởng thuế suất thuế nhập khẩu 0% nhưng trên thực tế một lượng
lớn loại thép này lại được bán cho các công trình xây dựng trong khi thuế nhập khẩu
của thép xây dựng là 12%. Như vậy, với khối lượng thép nhập khẩu ồ ạt trong một
thời gian dài đã làm thất thu thuế lên tới hàng chục tỷ đồng.
Thậm chí đã có nhiều trường hợp, doanh nghiệp cố tình tháo bỏ một số bộ
phận cấu thành của máy móc, thiết bị vận tải để khai báo hàng hóa thuộc dạng chưa
đồng bộ để tránh thuế hàng hóa đồng bộ; hoặc nhập khẩu các chi tiết, linh kiện rời
không đồng bộ trong từng lô hàng nhập khẩu nhưng lại là đồng bộ qua nhiều lô
hàng nhập khẩu để được hưởng mức thuế suất thuế nhập khẩu của các chi tiết tháo
rời thấp hơn trường hợp hàng hóa là nguyên chiếc…
2.2.2.2 Gian lận trong việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
Trong điều kiện chưa áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO (trước 2004),
Việt Nam sử dụng bảng giá tối thiểu, bảng giá kiểm tra để làm công cụ chủ yếu
chống gian lận thương mại qua giá, nghĩa là hàng hóa nhập khẩu sẽ được xác định
giá tính thuế trên cơ sở so sánh với giá tối thiểu. Giá tính thuế sẽ luôn cao hơn hoặc
bằng mức giá tối thiểu dã được quy định. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp
nhập khẩu hàng hóa với giá cao hơn giá tối thiểu nhưng vẫn tìm cách khai báo thấp
hơn hoặc bằng giá tối thiểu để giảm bớt số thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Cơ chế quản lý theo giá tối thiểu đã bộc lộ nhiều sơ hở và bất hợp lý, và vẫn không
thể giải quyết được tình trạng gian lận qua giá ngày càng phổ biến.
Việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO đã tạo bước ngoặt cơ bản cho hệ
thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt vừa đảm bảo tính
công bằng về nghĩa vụ thuế, thực hiện các cam kết quốc tế, mặt khác lại tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thương mại. Tuy nhiên có
khá nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã lợi dụng chính sách này để gian lận thuế
qua trị giá tính thuế. Các hành vi gian lận thường được các doanh nghiệp thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Nhiều doanh nghiệp dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan Hải quan để
khai báo trị giá các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn giá giao dịch
trên thực tế, sau đó khai thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại,
tương tự đã được nhập khẩu trước đó.
- Khai thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để thăm dò thái độ của cơ quan Hải
quan, sau đó mới nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn và khi cơ
quan Hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, tiến hành thủ tục thì doanh nghiệp đã giải
thể hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.
- Lợi dụng sự thông thoáng trong quá trình thực hiện Hiệp định trị giá
GATT/WTO cho phép doanh nghiệp tự khai báo, tự xác định trị giá tính thuế,
không ít doanh nghiệp đã khai báo giá trị hàng hóa không đúng thực tế, không trung
thực về thuế suất, chủng loại và giá trị đối với hàng hóa là những mặt hàng có thuế
suất cao như ô tô, rượu…Tại thành phố Hồ Chí Minh, Cục Hải quan thành phố đã
phát hiện và xử lý hai doanh nghiệp là Công ty Sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
(Thanh Trì – Hà Nội) và Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Thế Giới Vang
(quận Tân Bình – TPHCM). Để trốn thuế, hai doanh nghiệp này đã khai báo gian
dối giá trị nhập khẩu một lượng lớn rượu ngoại (giá khai báo chỉ bằng 20% giá thị
trường) với số tiền truy thu thuế lên đến cả chục tỷ đồng.
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng những sơ hở, tính chưa cập nhật kịp thời với
những mặt hàng mới của các quy định pháp luật để gian lận, trốn thuế. Tháng
3/2009, một doanh nghiệp ở TPHCM làm thủ tục nhập khẩu một lô hàng qua Chi
cục Hải quan Cảng Sài Gòn khu vực 1 gồm 520 chiếc ghế ngồi dùng để sửa xe ô tô,
khung nhôm có đệm và 70 chiếc ghế nằm dùng để sửa ô tô khung nhôm có đệm mới
100%, xuất xứ từ Trung Quốc. Đây là mặt hàng còn khá mới. Theo giá khai báo, giá
mỗi chiếc ghế nêu trên chỉ có 2 USD nên số thuế phải nộp chỉ khoảng 9,2 tỷ đồng.
Kết quả tham vấn xác định trị giá tính thuế cho thấy giá tính thuế ghế ngồi dùng để
sửa xe ô tô được xác định là 138 USD/chiếc (tăng 69 lần so với giá khai báo) và ghế
nằm dùng để sửa xe ô tô giá 124 USD/chiếc (tăng 62 lần so với giá khai báo). Như
vậy, với mức thuế suất thuế nhập khẩu 33% và thuế giá trị giá tăng 10%, với lô
hàng gần 600 chiếc ghế chuyên dùng nêu trên, số thuế doanh nghiệp phải thực nộp
tăng thêm 623 tỷ đồng so với mức 9,2 tỷ đồng theo khai báo ban đầu.
- Nhiều doanh nghiệp lợi dụng việc được trừ các khoản được trừ, đây chính là
điểm để các doanh nghiệp lợi dụng tối đa khoản được trừ để khai báo hải quan.
Chẳng hạn như việc nhiều doanh nghiệp lợi dụng phần đính kèm trong hợp đồng
ngoại thương và hóa đơn thương mại là số lượng mua từ bao nhiêu trở lên thì sẽ
được giảm giá và được trừ khi tính các loại thuế. Thực tế là doanh nghiệp tuy ký
hợp đồng mua với số lượng lớn nhưng đa số các doanh nghiệp chỉ thực hiện nhập
khẩu một vài lần trong năm mà vẫn được hưởng chiết khấu giảm giá cho cả lô hàng
lớn và cơ quan hải quan thì không thể giám sát và theo dõi doanh nghiệp có nhập
khẩu hết được hàng hóa theo hợp đồng không.
- Thông đồng với nước ngoài, với đối tác bán hàng để lập hóa đơn, hợp đồng
hạ thấp giá trị hàng hóa so với giá trị thực; khai báo thấp về giá trị hang hóa hoặc
đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm chất thương mại cao hơn. Nhiều
doanh nghiệp mua gom hàng hóa tại nước ngoài, sau đó tạo công ty giả để làm hợp
đồng, hóa đơn hạ thấp giá trị hàng hóa.
Hành vi gian lận thuế qua giá đối với hàng hóa nhập khẩu đang xuất hiện ngày
một nhiều, ngày một phức tạp, không chỉ diễn ra đối với nhưng mặt hàng có giá trị
lớn, thuế suất cao như điện thoại, ô tô, linh kiện điện tử, vi tính, rượu mà ngay cả
với những mặt hàng giá trị thấp như quần áo, giầy dép cũng bị các doanh nghiệp
khai trị giá thấp để giảm số thuế phải nộp. Như vậy, chỉ một chút nâng lên, hạ
xuống giá tính thuế của các doanh nghiệp nhập khẩu mà chiếc túi ngân sách nhà
nước cũng bị vơi đầy theo.
2.2.2.3 Làm giả giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) của hàng nhập khẩu
Theo quy định, thuế suất đối với hàng nhập khẩu quy định cụ thể cho từng mặt
hàng, bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.
Trong đó, mức thuế suất ưu đãi đặc biệt thường thấp hơn nhiều so với thuế suất ưu
đãi và với thuế suất thông thường. Thuế suất ưu đãi đăc biệt chỉ dành cho hàng hóa
nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước và vùng lãnh thổ cam kết thực hiện ưu
đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự
do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và
trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Hiện nay, Việt Nam áp dụng mức thuế suất ưu đãi
đặc biệt dành cho các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Do chênh lệch lớn về mức thuế suất nên hành vi làm giả giấy chứng nhận xuất
xứ hoặc khai báo sai xuất xứ hàng hóa diễn ra phổ biến, nhất là sau khi Việt Nam
tham gia cắt giảm thuế quan theo các hiệp định mậu dịch tự do song phương và đa
phương với các nước. Hiện tượng gian lận xuất xứ hàng hóa nhập khẩu xảy ra rất
phức tạp tại các cửa khẩu đường bộ lứn như Hữu Nghị, Tân Thanh, Lao Bảo, Cầu
Treo, Mộc Bài… Các doanh nghiệp sử dụng nhiều thủ đoạn như: làm giả giấy
chứng nhận xuất xứ; khai báo sai lệch nguồn gốc xuất xứ hàng hóa; giấu xuất xứ
thật của hang hóa nhập khẩu bằng cách cho hàng hóa quá cảnh vào một nước thứ ba
rồi làm giả giấy tờ thay đổi xuất xứ lô hàng; để lẫn hàng hóa xuất xứ từ hai nước
khác nhau để giấu xuất xứ thực của hàng hóa khi làm thủ tục xuất khẩu…
Điển hình là vụ nhập khẩu 23.886 tấn thép cán nguội khai báo từ Philippines,
trị giá 206,6 tỷ đồng ở TPHCM. Thực tế là lô hàng không đủ điều kiện đảm bảo
hàm lượng 40% Philippines để nhận C/O Form D theo quy định. Người bán (không
nằm trong khu vực ASEAN) đã tiến hành mua lại công ty thép cán nguội của
Philippines rồi chuyển nguyên vật liệu từ nước khác vào ASEAN để hợp thức hóa
đầu tư và hưởng lợi thuế suất khi xuất khẩu hàng vào các nước ASEAN. Vụ việc
nếu không được phát giác thì đã thất thu Ngân sách Nhà nước lên tới hàng chục tỷ
đồng.
Thực tế, việc chống C/O giả rất phức tạp, nguyên nhân là do việc xác minh
liên quan đến nhiều nước, mất nhiều thời gian,công sức và kinh phí để giám định
những giấy tờ đòi hỏi kỹ thuật cao, những thủ đoạn đối phó tinh vi của chủ hàng.
Thêm vào đó, việc thay đổi người có thẩm quyền ký giấy C/O ở các nước thuộc khu
vực ưu đãi, nhiều khi cơ quan chức năng không thể cập nhật kịp thời chữ ký. Ngoài
ra, việc kiểm tra, đối chiếu trên các bản đăng ký chữ ký trên bản C/O gặp khó khăn
vì tờ khai đã trải qua quá nhiều lần photo. Việc kiểm tra thông quan dưa trên cơ sở
đánh giá rủi ro chứ không kiểm tra 100%. Chỉ trong trường hợp nghi ngờ về C/O
hàng nhập khẩu, hải quan mới kiểm tra lại dấu và chữ ký trên C/O. Trường hợp phát
hiện gian lận, cơ quan hải quan gửi công văn sang cơ quan hải quan chịu trách
nhiệm cấp C/O của nước xuất khẩu để yêu cầu kiểm tra. Nếu cần, hải quan 2 nước
phối hợp xử lý lô hàng làm giả giấy chứng nhận xuất xứ C/O.
Với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại quốc tế và sự tham gia
của Việt Nam vào nhiều hơn các khu vực mậu dịch tự do khác nhau dự báo bọn tội
phạm và các đối tượng tiếp tục sử dụng các thủ đoạn gian lận xuất xứ hàng hóa với
số lượng hàng hóa ngày càng lớn hơn. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng phải
khẩn trương có các biện pháp kịp thời bịt kín những sơ hở về mặt pháp luật để
phòng chống gian lận, giảm thiểu thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước và đảm bảo
công bằng trong thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan của Chính phủ.
2.2.2.4 Nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế đối với hàng hóa
nhập khẩu.
Theo quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, với mỗi loại hàng hóa nhập khẩu
khác nhau, doanh nghiệp sẽ được hưởng một thời gian ân hạn thuế tương ứng (chưa
phải nộp thuế ngay). Từ thời điểm ngày 1/1/2006 đã bổ sung thêm quy định chỉ cho
phép doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế hoặc được một tổ chức tín dụng
bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Thực tế, điều kiện để doanh nghiệp được xét là
chấp hành tốt pháp luật về thuế không quá khó, chỉ cần doanh nghiệp có hoạt động
xuất nhập khẩu trong vòng 365 ngày, không bị pháp luật xử lý hành vi buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, không quá 2 lần bị xử lý vi phạm hành
chính về hải quan với mức phạt vượt thẩm quyền Chi cục trưởng Hải quan, không
trốn thuế, không bị truy tố hoặc bị phạt ở mức một lần số thuế phải nộp trở lên,
không nợ thuế quá hạn. Do vậy mà phần lớn các doanh nghiệp đều đáp ứng đủ các
điều kiện này và được hưởng ân hạn nộp thuế nhập khẩu. Từ đó, rất nhiều doanh
nghiệp đã lợi dụng chính sách ân hạn thuế sau khi nhập khẩu hàng hóa đã bỏ trốn,
hoặc sau khi hàng hóa đã tiêu thụ thì không chịu nộp thuế nhập khẩu cho nhà nước.
Thủ đoạn thường gặp của các doanh nghiệp là lợi dụng thời gian chậm nộp
thuế cho phép để mở liên tiếp các tờ khai tại một hoặc nhiều nơi khác nhau rồi nhập
ào ạt một số lượng lướn hàng hóa qua cửa khẩu và khi đến sát thời điểm nộp thuế
của lô hàng đầu tiên (15 ngày, 30 ngày hoặc 9 tháng tùy theo từng loại hàng hóa) thì
các doanh nghiệp này tự động biến mất, bỏ lại đằng sau những khoản nợ thuế hàng
tỷ đồng.
Theo thống kê của ngành hải quan, tính tới tháng 12/2009, có gần 1000 doanh
nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3.000 tỷ đồng. Sau khi phân loại,
khoảng 2.500 tỷ đồng đã được xếp vào dạng khó đòi. Từ thực tế trên, một trong
những vấn đề đặt ra là cần xem xét lại hiệu quả của chính sách ân hạn thuế và phải
có những biện pháp hiệu quả và kịp thời về quản lý nợ thuế, thu hồi nợ đọng thuế để
Ngân sách Nhà nước không bị thất thu hàng nghìn tỷ đồng như thời gian vừa qua.
2.2.2.5 Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa.
Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa thường xảy ra với hàng hóa
nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng
hoa xuất khẩu.
Với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài theo hợp đồng gia
công đã ký được miễn thuế nhập khẩu và miễn thuế xuất khẩu khi xuất trả sản phẩm
cho nước ngoài. Giám đốc doanh nghiệp nhận gia công chịu trách nhiệm về định
mức sử dụng, định mức tiêu hao và tỷ lệ hao hụt hàng hóa nhập khẩu để gia công.
Với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hang hóa xuất khẩu nếu đã nộp thuế nhập
khẩu sẽ được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu. Định mức
tiêu hao nguyên vật liệu được xem xét hoàn thuế được doanh nghiệp tự xây dựng,
kê khai và đăng ký với cơ quan hải quan nơi nhập khẩu trước khi xuất khẩu sản
phẩm.
Lợi dụng sự thông thoáng của cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm, tra, xác
định mức tiêu hao thực tế để làm cơ sở cho việc miễn thuế nhập khẩu gia công cho
nước ngoài, hoàn thuế nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hang xuất khẩu, nhiều
doanh nghiệp đã kê khai định mức cao hơn định mức tiêu hao thực tế. Nhờ vậy,
phần chênh lệch doanh nghiệp sử dụng để sản xuất hàng tiêu thụ trong nước hoặc
bán vào nội địa mà không chịu thuế nhập khẩu.
2.2.2.6 Lợi dụng các chính sách ưu đãi của nhà nước trong xuất nhập khẩu
hàng hóa.
* Chính sách miễn giảm thuế
Căn cứ điểm 7 Điều 100 Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/04/2009 có quy
định các đối tượng miễn thuế nhập khẩu gồm có: Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản
cố định của dự án khuyến khích đầu tư quy định tại Danh mục A hoặc B Phụ lục I
hoặc II ban hành kèm theo nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Đầu tư, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được miễn
thuế nhập khẩu gồm: Thiết bị máy móc; Phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây
chuyền công nghệ được Bộ Khoa học và Công nghệ xác nhận; Phương tiện vận
chuyển đưa đón công nhân gồm xe từ 24 chỗ trở lên và phương tiện thủy; Linh kiện,
chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng
bộ , sử dụng đồng bộ với thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng;
Nguyên liệu vật tư dùng để chế tạo thiết bị máy móc nằm trong dây chuyền công
nghệ chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện
đi kèm để lắp ráp đồng bộ hoặc sử dụng đồng bộ với thiết bị, máy móc; Vật tư xây
dựng trong nước chưa sản xuất được.
Lợi dụng chính sách này, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu đã kê khai là tạo tài
sản cố định nhưng trên thực tế lại không đưa về lắp ráp nhà xưởng để sản xuất mà
đưa ra bán trên thị trường. Cũng có nhiều doanh nghiệp khai nhập khẩu ô tô để vận
chuyển nguyên liệu nằm trong dây chuyền công nghệ nhưng lại sử dụng vào mục
đích khác…
* Chính sách theo tỷ lệ nội địa hóa
Lợi dụng kẽ hở trong công tác xác nhận tỷ lệ nội địa hóa của Bộ Công nghiệp,
nhiều doanh nghiệp sản xuất lắp ráp xe máy đã gian lận trong kê khai về tỷ lệ nội
địa hóa và số lượng bộ linh kiện xe máy nhập khẩu để được hưởng mức thuế suất
thấp đối với bộ linh kiện, phụ tùng nhập khẩu. Trước tình hình trên, cơ quan hải
quan phải tính lại số thuế nhập khẩu phải nộp và quyết định truy thu thuế. Theo số
liệu của ngành Hải quan thì số tiền thuế phải truy thu theo tỉ lệ nội địa hóa xe máy
tại thời điểm năm 2001 lên tới 600 tỉ đồng, khi chấm dứt chính sách này vào cuối
năm 2002 thì số nợ đọng thuế là 1.031 tỉ đồng, đến hết năm 2007 vẫn còn 723 tỉ
đồng. Khoản tiền thuế nhập khẩu phải truy thu lớn như vậy khiến không ít doanh
nghiệp chọn cách giải thể không tiếp tục hoạt động để trốn tránh khoản thuế bị truy
thu. Và kết quả là ngân sách nhà nước vẫn thất thu tới hàng trăm tỉ đồng.
2.2.2.7 Thiếu tính đồng bộ trong khâu tổ chức thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu
Việc thực hiện luật thuế không chỉ là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nộp
thuế, cơ quan quản lý thuế mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Tuy nhiên trong
các văn bản luật, pháp luật về thuế hiện hành chỉ quy định chung về nhiệm vụ,
quyền hạn của các tổ chức, cá nhân là giám sát phối hợp với cơ quan hải quan trong
việc thi hành pháp luật về thuế với hàng hóa xuất nhập khẩu nên trách nhiệm pháp
lý của họ chưa cao và chưa rõ ràng, cụ thể. Các văn bản chưa quy định rõ tách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin về người nộp thuế nên
thiếu nguồn thông tin để thực hiện cơ chế quản lý thuế mới theo hướng hiện đại.
Ngoài ra, cũng chưa có một văn bản luật nào quy định cụ thể trách nhiệm các tổ
chức, cá nhân nắm giữ tiền, tài sản của người nộp thuế phải nộp thuế trong khi
người nộp thuế còn nợ tiền thuế dẫn đến việc cưỡng chế thuế kém hiệu quả và
người nộp thuế dễ tẩu tán tiền, tài sản rồi bỏ trốn.
Công tác thực hiện việc thu đọng thuế còn thiếu sự kết hợp, thống nhất giữa
các cơ quan liên quan, thậm chí giữa các cơ quan trong ngành. Thậm chí đã có
nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về việc phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể về công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế, song hầu như vẫn chỉ là trên
giấy tờ, thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện. Ví dụ như giải pháp phối hợp với ngân
hàng để trừ nợ qua tài khoản của doanh nghiệp vẫn chỉ dừng lại trên quan điểm và
chỉ đạo của ngành Hải quan, vẫn chưa được thể hiện cụ thể bằng các văn bản ký kết
giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính. Cũng tương tự như vậy,
nhiều giải pháp mang tính chất quyết liệt như kê biên tài sản, tạm giữ hàng hóa, truy
tố đến nay chỉ nằm trên văn bản vì không có quy định hướng dẫn cụ thể về thủ tục
pháp lý và biện pháp thực hiện.
Do chưa có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ và kịp thời giữa các cơ
quan quản lý trong việc xử lý nợ đọng theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình nên đã dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế vẫn còn phổ biến. Hơn nữa lại chưa có
tố chức chuyên trách trong cơ quan hải quan thực hiện chức năng quản lý và cưỡng
chế thu thuế nên việc theo dõi nợ chưa sát sao, đôn đốc nợ chưa triệt để là điều khó
tránh khỏi.
2.2.2.8 Thất thu thuế do các hành vi gian lận khác
Nhiều hành vi gian lận khác cũng được các doanh nghiệp sử dụng để trốn
tránh nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu như: khai giảm số lượng hàng hóa thực tế nhập
khẩu, làm giả hóa đơn, chứng từ, giả chữ kí của công chức và con dấu của cơ quan
Hải quan, giả chứng từ bảo lãnh của ngân hàng…
Trước xu thế phát triển quan hệ thương mại quốc tế, hàng hóa lưu chuyển giữa
các quốc gia ngày càng lớn gây nên sức ép về thời gian thông quan, do vậy khả
năng kiểm soát trước khi hàng hóa được hoàn thành thủ tục hải quan ngày càng
giảm. Thêm vào đó, trình độ quản lý kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối
ngoại còn nhiều vấn đề bất cập như trình độ thanh toán qua ngân hàng của nền kinh
tế còn lạc hậu, thông tin kinh tế đối ngoại còn nghèo nàn; thiếu thông tin về thị
trường quốc tế liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại từ giá cả, chất lượng, xuất
xứ hàng hóa đến các thủ tục pháp lý liên quan đến hàng hóa nhập khẩu. Nếu không
có biện pháp kiểm soát kịp thời thì khi thực hiện theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
sẽ dẫn đến tình trạng gian lận để trốn thuế thông qua các hợp đồng, các thông tin
khác liên quan đến hàng hóa. Ngoài ra, cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường của
nước ta còn đang trong giai đoạn hoàn thiện, các thanh toán giao dịch thương mại
phần lớn vẫn thông qua tiền măt, hàng đổi hàng,…nên rất khó kiểm soát thu nhập
của doanh nghiệp và người dân. Việc triển khai các nghiệp vụ kiểm tra sau thông
quan cũng gặp nhiều khó khăn do các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán của Việt
Nam vẫn chưa đáp ứng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong điều kiện hiện nay đòi
hỏi cơ chế quản lý phải thay đổi hẳn trong phương pháp tổ chức, thực hiện mà nền
tảng là dùng công cụ kiểm toán để xác định tính trung thực trong khai báo của
doanh nghiệp nhập khẩu trước cơ quan, tổ chức thu và quản lý thuế xuất nhập khẩu.
2.2.3 Các hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu của Cục Thuế xuất
nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan
Tình trạng thất thu thuế nhập khẩu là một vấn đề khá nổi cộm và phức tạp mà
bất cứ một quốc gia nào dù có nền công nghiệp phát triển đến đâu cũng đều bận tâm
và luôn tìm cách giải quyết, khắc phục dấu hiệu gian lận. Nhận thức rõ điều này,
Cục thuế xuất nhập khẩu đã rất quan tâm đến những tác động của tình trạng thất thu
thuế nhập khẩu tới hoạt động thương mại và toàn bộ nền kinh tế. Từ đó, một loạt
các biện pháp chống thất thu thuế đã từng bước được triển khai trong từng lĩnh vực,
công tác, hoạt động của đơn vị.
2.2.3.1 Trong công tác thu Ngân sách Nhà nước
Trong công tác tổ chức, thực hiện dự toán thu, để thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh
do Quốc hội giao trong điều kiện số thuế năm sau luôn cao hơn năm trước từ 15-
20%, mức thuế suất của hàng hóa xuất nhập khẩu năm sau luôn thấp hơn năm trước
do phải cắt giảm thuế theo lộ trình đã cam kết với WTO, với các Hiệp định song
phương và đa phương khác và trong điều kiện ngày càng gia tăng các hoạt động
buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế với những thủ đoạn, hình thức ngày càng
tinh vi, Cục đã tham mưu, đề xuất Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính tiến hành đồng
bộ các giải pháp như:
- Rà soát, phát hiện và kiến nghị Bộ Tài chính sửa đổi chính sách theo hướng
đơn giản, rõ ràng, thuận tiện cho công tác thực hiện; điều chỉnh mức thuế suất thuế
nhập khẩu hoặc giải thích tiêu chuẩn phân loại của những mặt hàng dễ lẫn, có mức
chênh lệch lớn, góp phần thu đúng, thu đủ mức thuế phải thu, chống gian lận trốn
thuế. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009, Cục đã rà soát kiến nghị Bộ Tài chính điều
chỉnh kịp thời mức thuế suất thuế nhập khẩu của hơn 50 mặt hàng, trong đó có mặt
hàng thép có nguyên tố Bo từ 0% lên tới 10%. Qua đó đã góp phần chặn đứng hiện
tượng một số doanh nghiệp nhập khẩu thép sử dụng cho xây dựng có chứa nguyên
tố Bo nhưng khai là thép hợp kim để hưởng mức thuế suất 0% gây ảnh hưởng lớn
đến ngành sản xuất thép trong nước, gây thất thu thuế và làm xấu môi trường kinh
doanh.
- Đơn vị đã kiến nghị Tổng cục Hải quan, Bộ tài chính xây dựng cơ sở dữ liệu
giá tính thuế và đặc biệt chú trọng đến cơ sở dữ liệu giá tính thuế của các mặt hàng
nhạy cảm, dễ bị gian lận về giá tính thuế như: ô tô, xe máy, kính xây dựng, vải, thép
hợp kim…Thông qua đó đã góp phần ngăn chặn kịp thời các trường hợp khai thấp
trị giá tính thuế để trốn thuế, gây thất thu thuế nhập khẩu và ảnh hưởng đến yêu cầu
bảo hộ sản xuất trong nước.
- Tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện vi phạm quy định về đối tượng miễn
thuế, nợ đọng thuế, chỉ đạo các Chi cục Hải quan địa phương thực hiện công tác
kiểm tra, thanh tra thuế. Kết quả kiểm tra đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời nhiều
trường hợp xin miễn thuế, hoàn thuế, xóa nợ thuế không đúng đối tượng, đồng thời
chấn chỉnh các trường hợp hiểu và áp dụng chưa đúng chính sách pháp luật, từ đó
kiến nghị lên Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính sửa đổi cơ chế, chính sách và thu
hồi cho Ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng.
2.2.3.2 Công tác tham vấn và tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Cục Thuế xuất nhập khẩu đã nghiên cứu, soạn thảo và tham mưu đề xuất với
Tổng cục Hải quan tham gia với Tổng cục Thuế, Vụ chính sách thuế, Vụ Hợp tác
quốc tế Bộ Tài chính trong việc soạn thảo các Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế
Giá trị gia tăng, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, các Nghị định và thông tư hướng dẫn
thực hiện.
Theo các quy định về thời hạn nộp thuế (trước khi triển khai áp dụng Luật thuế
XNK số 45/2005/QH11) thì hàng hóa nhập khẩu sản xuất xuất khẩu áp dụng thời
hạn nộp thuế là 275 ngày từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; hàng tạm nhập tái xuất
là 15 ngày kể từ ngày hết hạn tạm nhập-tái xuất; hàng hóa khác là 30 ngày kể từ
ngày khai hải quan mà không có sự phân biệt giữa đối tượng chấp hành tốt hay
không tốt pháp luật. Lợi dụng quy định đó, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa
chưa nộp thuế, sau một thời gian tự chấm dứt hoạt động hoặc chây ỳ không chịu
nộp thuế nợ đọng. Để khắc phục tình trạng trên, Cục Thuế xuất nhập khẩu đã kiến
nghị với lãnh đạo Tổng cục để báo cáo Bộ Tài chính trình Chính phủ và Quốc hội
cho sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất nhập khẩu theo hướng chỉ cho những doanh
nghiệp chấp hành tốt pháp luật mới được nộp thuế sau khi nhận hàng, còn đối với
doanh nghiệp chưa chấp hành tốt pháp luật thì phải nộp thuế trước khi nhận hàng
hoặc phải có bảo lãnh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Quy định này đã góp
phần quan trọng trong việc giảm nợ thuế trong những năm qua.
Cục Thuế xuất nhập khẩu còn kiến nghị bổ sung và sửa đổi một số quy định
về miễn thuế, không thuộc đối tượng chịu thuế mà có thể là kẽ hở để xuất hiện các
vi phạm, gian lận thương mại, trốn thuế. Cụ thể như:
- Năm 2004, Cục đã đề xuất sửa đổi quy định về miễn thuế nhập khẩu với ô tô
dưới 24 chỗ tạm nhập tái xuất của các dự án, công trình, nhà thầu nước ngoài, sử
dụng vốn ODA tại thông tư 172/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 theo hướng phải
nộp đủ thuế khi tạm nhập, lúc tái xuất sẽ hoàn lại thuế tương ứng với phần giá trị
còn lại của xe. Nhờ đó đã ngăn chặn được hiện tượng các doanh nghiệp không tái
xuất ô tô nhưng cũng không kê khai truy nộp thuế nhập khẩu, lành mạnh hóa hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng ô tô.
- Năm 2003, Cục đề xuất sửa đổi quy định về xử lý thuế đối với mặt hàng ô tô
nhập khẩu từ nước ngoài vào khu chế xuất nhưng có lưu thông trên thị trường nội
địa theo hướng phải nộp thuế và đã được chấp nhận. Nhờ vậy đã góp phần ngăn
chặn hiện tượng một số doanh nghiệp nhập khẩu ô tô khai là sử dụng cho khu chế
xuất , thực tế có sử dụng cho cả thị trường nội địa, trốn thuế, góp phần bảo hộ sản
xuất trong nước, tạo thuận lợi cho quản lý thuế của cả cơ quan thuế và hải quan.
2.2.3.3 Về công tác quản lý nợ thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu
Để quản lý tốt và giảm thiểu các hiện tượng nợ thuế, trốn thuế và gian lận về
thuế nhập khẩu, đơn vị đã tham mưu cho Tổng cục Hải quan một số giải pháp sau:
- Phân loại nợ thuế thành các loại khác nhau: nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ quá
hạn 90 ngày. Trong nợ quá hạn lại phân loại thành nợ của doanh nghiệp giải thể,
doanh nghiệp phá sản hay tự chấm dứt hoạt động, doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu,
nợ phạt… để có cách quản lý, biện pháp xử lý phù hợp với đặc điểm và tính chất
từng loại nợ
- Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về nộp tiền thuế theo đúng thứ tự,
cưỡng chế thuế, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng cho người
chấp hành tốt nghĩa vụ về thuế…
- Tiến hành thực hiện cơ chế khen thưởng với doanh nghiệp không nợ thuế.
- Kiến nghị với Tổng cục Hải quan chỉ đạo Cục Hải quan địa phương bố trí đủ
lực lượng cán bộ làm công tác quản lý thu nợ thuế…
Nhờ thực hiện tốt các giải pháp trên, trong thời gian qua, số nợ thuế của ngành
hải quan đã được giảm đi đáng kể. Thành tích này không thể không kể tới đóng góp
của Cục Thuế xuất nhập khẩu.
2.2.3.4 Công tác phối kết hợp với các cơ quan trong và ngoài ngành để kiểm
tra, ra soát hàng hóa xuất nhập khẩu theo từng quy trình thủ tục hải quan.
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu là một nhiệm vụ quan trọng và khó
khăn, do đó cần phải sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan có liên quan.
Trong những năm qua, Cục Thuế xuất nhập khẩu phối hợp với các đơn vị, cơ
quan chức năng trong các công tác phân loại mã số hàng hóa để thống nhất giữa các
Cục Hải quan địa phương trong toàn ngành, tăng cường công tác tham vấn, xác định
trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Song song với đó, các Cục Hải quan
tỉnh, thành phố, các Vụ, Cục chuyên môn thuộc Tổng cục cũng tăng cường phối
hợp và trao đổi thông tin với nhau để kịp thời phát hiện và xử lý triệt để các trường
hợp buôn gian bán lận gây thất thu thuế, thông báo trong toàn ngành và tổ chức rút
kinh nghiệm để có biện pháp kiểm tra phù hợp. Các hình thức trao đổi thông tin
trong hoạt động kiểm hóa, chống buôn lậu, gian lận thương mại, các hoạt động
tuyên truyền, đào tạo, phổ biến các văn bản pháp luật về Hải quan để nâng cao tính
tự giác, tuân thủ luật pháp về Hải quan của doanh nghiệp… cũng được tăng cường
phối hợp với các cơ quan chức năng.
Để xây dựng thông tin về người nộp thuế cũng như phối hợp trong đấu tranh
chống thất thu thuế, trong những năm qua, Cục Thuế xuất nhập khẩu cũng như toàn
ngành Hải quan đã phối hợp với nhiều đơn vị liên quan xây dựng các quy chế phối
hợp như Quy chế trao đổi thông tin giữa Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế và Kho
bạc Nhà nước; Quy chế trao đổi thông tin giữa Bộ Tài chính với Ngân hàng Nhà
nước; Quy chế phối hợp công tác giữa Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát
nhân dân… Sự phối kết hợp này bước đầu đã đạt kết quả nhất định trong việc cung
cấp thông tin cho quản lý và giải quyết nợ thuế.
2.3 Đánh giá thực trạng hoạt động chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất
nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan
2.3.1 Kết quả
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Tổng cục Hải quan, sự phối hợp chặt
chẽ của các cơ quan trong và ngoài ngành, các Chi cục Hải quan địa phương, Cục
Thuế xuất nhập khẩu đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao phó trên mặt trận
phòng chống gian lận, trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước và đã đạt
được những thành tựu sau đây:
2.3.1.1 Góp phần quan trọng vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước, và hạn chế
nợ đọng, chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
Cục Thuế xuất nhập khẩu đã chủ động, tích cực đề xuất và triển khai nhiều giải
pháp đồng bộ để hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu, đồng thời phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các hành vi trốn thuế, gian lận thuế ngày càng có hiệu quả.
Như ta đã biết, thuế là một khoản thu quan trọng trong Ngân sách Nhà nước.
Số thu Ngân sách Nhà nước luôn chiếm xấp xỉ 20%. Trong số đó, số thu từ hàng
hóa xuất nhập khẩu chiếm khoảng trên 25% tổng thu Ngân sách Nhà nước và số thu
thuế nhập khẩu thì lên tới hơn 10% tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Bảng 2.1: Tỷ trọng số thu thuế hàng hóa nhập khẩu trong tổng thu Ngân
sách Nhà nước.
Năm Tổng thu Ngân Tỷ trọng số thu từ Tỷ trọng số thu
sách Nhà nước so hàng hóa xuất thuế nhập khẩu
với GDP nhập khẩu trong trong tổng thu
tổng thu Ngân Ngân sách Nhà
sách Nhà nước nước
23,1 25,5 16,77 2002
23,2 23,8 14,31 2003
23,4 21,3 11,07 2004
23,7 26,71 8,45 2005
21,2 30,73 7,68 2006
25,2 29,55 9,13 2007
21,5 33 9,24 2008
23,3 32,47 8, 3 2009
2010 26,7 (ước tính) 35,3 (ước tính) 8.12 (ước tính)
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê – Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tổng thu Ngân sách Nhà nước so với GDP nước ta
trong giai đoạn 2002-2010 luôn chiếm trên 20%, có những năm đạt trên 25% (năm
2007 và năm 2010), thấp nhất là năm 2006 cũng đạt 21,2%. Số thu từ hàng hóa xuất
nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước liên tục có sự thay đổi: thấp nhất là
chiếm 21,3% vào năm 2004 và cao nhất là lên tới 35,3% vào năm 2010. Mặc dù có
những thay đổi nhưng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu luôn giữ được mức ổn
định, đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước.
Giai đoạn 2003-2010, với thành tích đạt được về tăng trưởng kinh tế cao bình
quân trên 7%, tỷ lệ huy động nguồn thu về thuế, phí và lệ phí không ngừng tăng lên
(từ 74.444 tỷ đồng năm 1999 lên tới 400.800 tỷ đồng vào năm 2010). Mức tăng
trưởng thu Ngân sách Nhà nước bình quân trong kỳ ước tính khoảng 15%. Một nét
nổi bật trong chính sách kinh tế đối ngoại giai đoạn này là phải thực hiện cắt giảm
thuế theo lộ trình cam kết quốc tế với EU, CEFT/AFTA, Hoa Kỳ cũng như việc cắt
giảm thuế với nhiều nhóm mặt hàng là tư liệu sản xuất; chuyển dịch điều tiết từ thuế
nhập khẩu sang điều tiết bằng thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng nhập khẩu. Chính sách
thuế nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với các điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Biểu thuế đã được xây dựng lại theo hướng đơn giản mức thuế suất,
chi tiết hơn dòng hàng theo danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu tạo thuận lợi cho
quá trình lưu thông hàng hóa. Do phải cắt giảm số mức thuế suất trong biểu thuế
nhập khẩu nên tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước
giai đoạn này giảm so với trước song vẫn đạt bình quân trên 10,34%. Nếu tính
chung cả số thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng nhập khẩu thì tỷ
trọng số thu từ hàng hóa xuất, nhập khẩu không ngừng tăng lên, bình quân chiếm
28,7% tổng thu Ngân sách Nhà nước từ thuế, phí và lệ phí.
Theo lộ trình cam kết song phương với các đối tác thương mại lớn như AFTA,
EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản mà những năm tới đây, vai trò động viên vào
Ngân sách Nhà nước của thuế nhập khẩu có giảm về thuế suất do phải thực hiện các
cam kết cắt giảm thuế, tuy nhiên do kim ngạch nhập khẩu tăng dẫn theo sự gia tăng
về hoạt động giao dịch thương mại nên thuế nhập khẩu vẫn tiếp tục là một nguồn
thu quan trọng. Giai đoạn 2007-2010, số thu thuế nhập khẩu dự kiến chiếm khoảng
10% trong tổng thu Ngân sách Nhà nước từ thuế, phí và lệ phí.
2.3.1.2 Cục Thuế xuất nhập khẩu góp phần thực hiện cải cách mạnh mẽ và
hiệu quả thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải quan
Cục Thuế xuất nhập khẩu cùng với các cơ quan khác trong và ngoài ngành
không ngừng rà soát, kiểm tra, nghiên cứu và đề xuất những giải pháp, những bổ
sung, sửa đổi trong hệ thống pháp luật, hoàn thiện thủ tục và cơ chế hải quan. Nhờ
thế mà hệ thống pháp luật hải quan và các hệ thống pháp luật khác liên quan đến
lĩnh vực hải quan như xuất nhập khẩu, thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, đầu
tư, du lịch, vận tải...đã được xây dựng tương đối đầy đủ, theo hướng cải cách, hiện
đại, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều cải tiến quan trọng về thủ
tục hải quan , chế độ kiểm tra, giám sát hải quan theo hướng đơn giản hóa, thống
nhất hóa và từng bước được hiện đại hóa. Nhiều giải pháp cải tiến kịp thời, hiệu
quả, hiện đại như: “quy trình một chiều”, “một cửa”, “hành lang xanh”, “quản lý rủi
ro”, “khai một lần”, “kiểm tra một lần”, “khai trước khi hàng đến”, “khai từ xa”,
thông quan điện tử...
2.3.1.3 Phát hiện những sơ hở thiếu sót trong chính sách quản lý thường bị lợi
dụng, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách, quy trình thủ tục hải quan và các chính
sách quản lý nhà nước khác.
Từ việc nghiên cứu chuyên đề chống gian lận qua việc áp mã hàng hóa xuất,
nhập khẩu (mã HS) và xuất phát từ những vụ việc đã phát hiện, tổng hợp thông tin
từ nhiều nguồn khác nhau, Tổng cục Hải quan đã có văn bản số 4871/TCHQ-ĐT
(ngày 29/9/2008) để cảnh báo về một số trường hợp cố ý khai sai mã số hàng hóa,
thay đổi địa điểm làm thủ tục hải quan nhằm trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của
cơ quan Hải quan, đồng thời yêu cầu Hải quan địa phương tăng cường thu thập và
chuyển giao thông tin cho đơn vị chủ trì đầu mối để xử lý theo quy định.
Cục Thuế xuất nhập khẩu đã chủ động kiến nghị lên Tổng cục Hải quan đề
xuất với Bộ Tài chính, Chính phủ hoàn thiện cơ chế quản lý hải quan; kiến nghị với
các Bộ, ngành có liên quan sửa đổi, bổ sung và có biện pháp quản lý phù hợp. Vùa
qua, ngành Hải quan kiến nghị với Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Ngân
hang Nhà nước, công bố các tiêu chuẩn với loại xe chở tiền, xe van... tránh tình
trạng các doanh nghiệp lợi dụng chính sách chưa rõ ràng để trốn và gian lận thuế
nhập khẩu.
Ngoài ra, từ kết quả một số vụ việc qua công tác kiểm tra sau thông quan,
ngành Hải quan cũng đã phát hiện và kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ nhằm
chấn chỉnh những yếu kém trong quản lý về thẩm định dự án, kiểm tra sau cấp giấy
phép vai trò điều phối quản lý, kiểm tra của cơ quan cấp giấy phép đầu tư của Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Nhờ đó đã phát hiện nhiều trường hợp các Sở kế
hoạch – Đầu tư một số địa phương đã cấp giấy phép cho một số danh mục đầu tư
được miễn thuế không đúng quy định và đã kịp thời kiến nghị các Sở Kế hoạch -
Đầu tư thu hồi lại giấy phép sai quy định, tránh thất thu thuế nhập khẩu hàng tỷ
đồng.
2.3.1.4 Quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế về Hải quan ngày càng mở rộng và
đã đem lại hiệu quả thiết thực.
Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở; nhận thức rõ vai trò,
tính chất đặc thù của hoạt động hải quan luôn gắn liền với hoạt động thương mại,
xuất nhập khẩu, đầu tư và du lịch quốc tế, ngành Hải quan đã chủ động có những
bước đi trong hội nhập khu vực và thế giới từ rất sớm. Đặc biệt từ đầu những năm
gần đây, Hải quan Việt Nam lần lượt ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác, hỗ trợ nghiệp
vụ với Hải quan các nước Pháp, Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật, Ôxtrâylia,
Ấn Độ, Đài Loan, Liên Bang Nga và với Hải quan các nước ASEAN; tích cực tham
gia vào hoạt động của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), hợp tác hải quan trong
APEC, ASEAN, tổ chức thành công nhiều hội nghị hải quan khu vực tại Việt Nam.
Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính, nhưng trong thời gian qua, Cục Thuế
xuất nhập khẩu đã có nhiều thành tích trong đóng góp thực hiện nhiệm vụ hợp tác
quốc tế của ngành. Điển hình như Cục đã cử cán bộ phối hợp với Bộ Tài chính
chuẩn bị phương án đàm phán và tham gia Đoàn đàm phán với các nước ASEAN
trong việc xây dựng Danh mục AHTN, theo đó đề xuất, thuyết phục và được các
nước thành viên ASEAN chấp thuận chi tiết hơn 99% các dòng thuế mà Việt Nam
yêu cầu chi tiết trong Danh mục này; chuẩn bị và tham gia Đoàn đàm phán với
WTO về trị giá tính thuế, đề xuất và đã được WTO chấp thuận với lộ trình thực hiện
trị giá GATT/WTO phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam... Đơn vị
cũng đã nghiên cứu các chuẩn mực quy định tại công ước KYOTO về hài hòa hóa,
đơn giản hóa thủ tục hải quan để kiến nghị với các cấp có thẩm quyền sửa đổi quy
định của văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Thông qua các mối quan hệ hợp tác hải quan song phương và đa phương, Hải
quan Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập vào cộng đồng Hải quan quốc tế và khu
vực, tranh thủ sự trợ giúp về công nghệ,kỹ thuật tiên tiến, đào tạo cán bộ và tiếp cận
với phương pháp quản lý hải quan hiện đại, góp phần đưa Hải quan Việt Nam
ngang tầm với Hải quan các nước tiên tiến.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Những hạn chế
Những kết quả đã đạt được trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu của
Cục Thuế xuất nhập khẩu nói riêng và của toàn ngành Hải quan nói chung thật đáng
ghi nhận, góp phần ngăn chặn và giảm thiểu các hiện tượng gian lận, trốn thuế làm
thất thu Ngân sách Nhà nước hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên,
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế:
- Công tác hoạch định, xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch dài hạn của
Cục thuế xuất nhập khẩu, của ngành Hải quan về hoạt động chống thất thu thuế
nhập khẩu vẫn còn hạn chế và chưa đồng bộ, thống nhất giữa các lực lượng nghiệp
vụ trong nganh, nhiều lĩnh vực chồng chéo khiến nhiều lực lượng cùng tiến hành
làm nhưng lại không hiệu quả, trong khi nhiều lĩnh vực chưa được quan tâm đúng
mức hoặc bị bỏ sót.
- Tình trạng gian lận, trốn thuế, nợ đọng thuế vẫn còn diễn ra tương đối phổ
biến, hiện tượng doanh nghiệp gian lận trong việc áp mã, kê khai trị giá hàng nhập
khẩu, làm giả giấy chứng nhận xuất xứ, gian lận trong định mức vẫn cồn tồn tại phổ
biến, chưa được ngăn chặn kịp thời.
- Sự phối hợp nội trao đổi thông tin giữa Cục thuế xuất nhập khẩu và các đơn
vị khác trong ngành chưa đáp ưng tính mau lẹ, thông suốt, mối quan hệ giữa Hải
quan Việt Nam với Hải quan các nước khác chưa được thiết lập một cách hiệu quả,
dẫn đến hạn chế trong việc trao đổi thông tin về trị giá hàng hóa, xuất xứ hàng trong
khi tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi trên
nhiều bình diện và sắc thái mới.
- Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin hỗ trợ thực hiện công tác chống thất thu
thuế hàng nhập khẩu còn yếu, thiếu, độ tin cậy chưa cao, chưa được cập nhật kịp
thời với tình hình thực tế.
- Công tác xử lý hành vi buộn lậu, gian lận thương mại nhằm trốn thuế chưa
đủ nghiêm minh để đủ mức răn đe, do vậy, tình trạng muốn xử lý hành chính cho
đơn giản, nhanh chóng còn diễn ra phổ biến, là nguyên nhân của nhiều hành vi tiêu
cực.
- Các quy chế phối hợp giữa Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước và Tổng cục
Hải quan; giữa Tổng cục Cảnh sát nhân dân và Tổng cục Hải quan; Ngân hàng Nhà
nước và Bộ Tài chính... đã được ký kết song dự phối hợp cung cấp thông tin nhằm
điều tra, xác minh, kiểm tra sổ sách kế toán với trường hợp nghi ngờ gian lận chưa
hiệu quả, còn mang nặng hình thức, nhiều khi chỉ tồn tại trên giấy tờ.
- Một bộ phận cán bộ, công chức hải quan chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập và đổi mới. Hiện tượng nhiều cán bộ,
công chức hải quan vi phạm kỷ luật, tiêu cực, tham nhũng, thông đồng, tiếp tay cho
hoạt động gian lận, trốn thuế nhập khẩu còn tồn tại nhiều, khiến cho hoạt động
chống thất thu thuế nhập khẩu càng trở nên khó khăn hơn.
- Điều kiện về trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phòng, chống
gian lận thương mại còn hạn chế, lạc hậu, chưa phù hợp và đáp ứng đủ yêu cầu so
với quốc tế, còn thiếu các địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung, hệ thống máy soi,
giám sát hàng hóa...
2.3.2.2 Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan
- Nhiều quy định của pháp luật về thuế, quản lý thuế còn phức tạp, chưa tương
thích, thống nhất với chuẩn mực quốc tế, khu vực. Chẳng hạn như Pháp luật về
quản lý thuế quy định nhiều thời hạn nộp thuế khác nhau theo các tiêu chí khác
nhau tùy mục đích nhập khẩu hàng hóa (xuất khẩu, tiêu dùng hay tạm nhập tái xuất)
dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn cho cơ quan hải quan phân bổ nguồn lực
để theo dõi, đôn đốc, cưỡng chế thu nợ thuế, nợ phạt... không phù hợp mục tiêu hiện
đại hóa và áp dụng quản lý rủi ro. Nhiều quy định về chính sách thuế chưa ổn định,
hay thay đổi, không hệ thống hóa kịp thời gây khó khăn cho người nộp thuế và cơ
quan hải quan. Các chính sách thuế với hàng nhập khẩu còn nhiều nội dung phức
tạp, chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động xuất nhập khẩu.
Một vấn đề khó khăn nữa mà Cục Thuế xuất nhập khẩu cùng ngành Hải quan
chưa thể giải quyết triệt để nên vẫn chưa thể thực hiên thông quan điện tử. Ví dụ
như: tên hàng và mã số hàng hóa của các Biểu thuế hàng xuất nhập khẩu chưa
tương thích với nhau; Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt quy định một số hàng hóa nhập
khẩu thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng tên hàng hóa chưa mô tả
tương thích với Danh mục Biểu thuế nhập khẩu; Biểu thuế nhập khẩu tuy đã được
xây dựng dựa trên hệ thống hài hòa hóa mô tả và mã hóa hàng hóa của Tổ chức hải
quan thế giới nhưng vẫn tồn tại rất nhiều mặt hàng không ghi rõ mức thuế suất;
Ngoài ra, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đã được chi tiết đến cấp độ 10 chữ số nhưng
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt lại chỉ được chi tiết ở cấp độ 8 chữ số.
- Quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu được quy định ở 2 Luật thủ
tục khác nhau là Luật Hải quan và Luật quản lý thuế thường xuyên được sửa đổi, bổ
sung, tuy nhiên một số quy định còn trùng lặp, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn
nhau gây phức tạp, phiền hà, không minh bạch, dễ bị tùy tiện áp dụng. Đây là một
trong những nguyên nhân cản trở, cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
- Một số quy định về chính sách thuế, quản lý thuế chưa tương thích và phù
hợp với thông lệ quốc tế, cần thay đổi, chỉnh sửa phù hợp thông lệ quốc tế để cơ
quan hải quan có thể áp dụng xử lý trên dữ liệu điện tử, quản lý theo doanh nghiệp
và áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro và các phương thức quản lý hiện đại.
- Một số cơ chế chính sách mới được xây dựng ấp dụng để đảm bảo thực hiện
theo các cam kết quốc tế, thúc đẩy đầu tư trong nước, tuy nhiên việc thiếu kinh
nghiệm trong xây dựng chính sách, chưa lường được các vướng mắc phát sinh trong
thực tế và các thủ đoạn gian lận trốn thuế ngày càng tinh vi mà dẫn đến thất thu
Ngân sách Nhà nước, chẳng hạn như chính sách kiểm tra xác định trị giá tính thuế
theo Hiệp định trị giá GATT; các quy định về ưu đãi đầu tư và nhiều quy định khác.
Nguyên nhân chủ quan
- Cán bộ làm công tác liểm tra thuế còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng kiểm tra
tại doanh nghiệp, kỹ năng hành chính (lập biên bản, xác định hành vi vi phạm, giải
quyết khiếu nại, ra quyết định truy thu; chưa hiểu hết yêu cầu và cách làm về thanh
tra thuế với hàng hóa xuất nhập khẩu, khả năng đáp ứng yêu cầu còn thấp, đặc biệt
là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay).
- Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của một số cán bộ, công chức còn yếu kém,
nên hiện tượng gian lận thương mại, trốn thuế vẫn tồn tại nhiều. Còn có một số khác
thì do bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái đạo đức, chạy theo lợi ích vật
chất nên tiếp tay cho buôn lậu, gian lận thương mại, phần cũng là do luật xử lý vi
phạm chưa rõ ràng và nghiêm minh.
- Sự phối hợp giữa Cục Thuế xuất nhập khẩu với các Vụ, Cục, các Chi cục Hải
quan địa phương trong ngành; giữa cơ quan hải quan với các lực lượng liên quan,
giữa lực lượng chuyên trách chống buôn lậu và các bộ phận nghiệp vụ khác trong
ngành Hải quan nhiều khi còn thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả của hoạt động chống
thất thu thuế nhập khẩu còn chưa cao.
Tóm lại, trong thời gian vừa qua, Hải quan Việt Nam trong đó có đóng góp
không nhỏ của Cục Thuế xuất nhập khẩu đã đạt được những thành tựu đáng kể, thúc
đẩy hoạt động lưu thông hàng hóa, tăng thu Ngân sách Nhà nước, bảo hộ sản xuất
trong nước... góp phần đưa Việt Nam hội nhập với các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Tuy nhiên, không thể không nhắc đến những tồn tại và hạn chế trong
quá trình hoạt động mà hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu với những thủ đoạn gian
lận, trốn thuế ngày càng tinh xảo vẫn luôn là một vấn đề nổi cộm và cần đưa ra
những biện pháp hiệu quả và kịp thời để tránh thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC
CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở CỤC THUẾ XUẤT NHẬP
KHẨU THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN
3.1 Mục tiêu cơ bản của chống thất thu thuế nhập khẩu
3.1.1 Đảm bảo được nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
Đóng góp vào Ngân sách Nhà nước là một trong những vai trò chủ yếu của
thuế xuất nhập khẩu. Như đã thống kê, thuế xuất nhập khẩu những năm gần đây
luôn chiếm tỷ trọng trên 20% tổng thu Ngân sách Nhà nước, trong đó thuế nhập
khẩu chiếm khoảng trên 10%. Thất thu thuế nhập khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến
Ngân sách Nhà nước, vì vậy nên nó là một trong những chỉ tiêu pháp định được
Nhà nước giao chỉ tiêu cho Cục Thuế xuất nhập khẩu và thông qua hàng năm. Việc
thu thuế hoàn thành hay không, số thuế thất thu lớn hay nhỏ có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc thực hiện các kế hoạch khác trong dự toán của Chính phủ.
3.1.2 Mục tiêu tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, đúng pháp luật
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Chính sách về thuế nhập khẩu phải
vừa đảm bảo đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tê, đồng thời phải đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế. Muốn đạt được yêu cầu trên thì các chính sách thuế nhập khẩu
phải đảm bảo tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, hiệu quả, minh
bạch để khuyến khích mọi đối tượng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, đồng
thời lại có thể ngăn chặn được các hiện tượng gian lận, trốn thuế nhập khẩu gây ảnh
hưởng xấu tới hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này đòi hỏi hệ thống chính sách về
thuế xuất nhập khẩu phải hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu thực tế mà nhiệm vụ, vai
trò của Cục Thuế xuất nhập khẩu trong đó là không nhỏ.
3.1.3 Mục tiêu nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật
Cùng với các biện pháp đấu tranh, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại
hiệu quả, nếu việc xử lý các vụ việc vi phạm trốn thuê, gian lận thuế nhập khẩu nếu
được thực hiện một cách nghiêm minh thì sẽ có tác dụng răn đe với những doanh
nghiệp hoặc các cán bộ công chức hải quan thông đồng, tiếp tay cho doanh nghiệp
trốn thuế, và với bất kỳ đối tượng nào đã và đang có ý định vi phạm.
3.2 Tham khảo kinh nghiệm chống thất thu thuế của hải quan một số
nước trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, mới gia nhập WTO và
đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có nhiều cơ hội được mở ra, song
cũng không ít những thách thức, khó khăn. Vì vậy, việc học tập kinh nghiệm, kỹ
thuật và phương thức quản lý kinh tế của các nước đi trước, các nước phát triển là
một điều tất yếu. Dưới đây là một số kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia
trong hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu mà Việt Nam nên học hỏi.
3.2.1 Hoa Kỳ
Hoa Kỳ không chỉ nổi tiếng là một cường quốc kinh tế mà còn được biết đến là
quốc gia có ngành hải quan có kỹ thuật tiên tiến và phát triển hàng đầu trên thế giới.
Trong hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu, để đảm bảo việc thu hồi tiền
thuế nhập khẩu, tránh tình trạng gian lận trốn thuế, Hoa Kỳ yêu cầu các doanh
nghiệp phải nộp tiền ký quỹ mới được xuất nhập khẩu hàng vào nước này; đẩy
mạnh công tác kiểm tra sau thông quan với các đối tượng nhập khẩu hàng hóa. Để
phòng ngừa và chống gian lận qua giá, trước tiên phải đảm bảo tính minh bạch
trong hệ thống pháp quy về xác định trị giá hải quan, có như vậy mới tạo được sự
tin tưởng của doanh nghiệp vào hệ thống kiểm tra, xác định trị giá để hợp tác chặt
chẽ với hải quan.
Nếu doanh nghiệp gặp vướng mắc trong khâu xác định trị giá, Luật Hải quan
cho phép doanh nghiệp lấy hàng trong điều kiện có sự bảo lãnh tài chính với các
khoản thuế phải nộp.
Hiện nay, Hoa Kỳ đang sử dụng “Bách khoa toàn thư về trị giá Hải quan”, tài
liệu luôn được cập nhật thường xuyên và tổng hợp đầy đủ các vấn đề về xác định trị
giá, là tài liệu quan trọng của Hải quan và cả các doanh nghiệp khi nhập khẩu hàng
hóa vào Hoa Kỳ trong quá trình xác định trị giá Hải quan.
Theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, giải pháp hữu hiệu để phòng chống gian lận
thương mại qua giá là đào tạo cho cán bộ hải quan và cộng đồng các doanh nghiệp.
Nhờ vào chương trình đào tạo hoàn chỉnh và chi tiết, bài bản, nên sau quá trình đào
tạo, Hải quan Hoa Kỳ đã tạo dựng được cho mình một đội ngũ các kiểm tra viên có
trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao.
3.2.2 Philippin
Là một quốc gia cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, cùng là thành viên tổ
chức khu vực ASEAN, Philippin có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Các quy
định trong luật thuế của Philippin có nhiều điểm để Việt Nam học tập.
Chính phủ Philippines thông báo sẽ thưởng lớn cho những ai cung cấp thông
tin giúp phát hiện các trường hợp trốn thuế lớn ở nước này, và người cung cấp
thông tin sẽ được nhận khoản tiền thưởng quy định hoặc 10% số tiền thuế truy thu
hoặc tiền phạt mà cơ quan nhà nước truy thu được và tất nhiên danh tính của người
cung cấp thông tin hoàn toàn được giữ bí mật để đảm bảo an toàn.
Thuế nhập khẩu được cơ quan hải quan trực tiếp tính và thu qua các ngân
hàngđại lý được ủy quyền của Ngân hàng Trung ương không quá 30 ngày kể từ
ngày thông quan hàng hóa; Nếu không nộp đủ thuế theo thời gian quy định, doanh
nghiệp bị phạt tăng thêm 25% số tiền thuế đó; Nếu phát hiện gian dối, gian lận
thương mại gây thâm hụt Ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp phải nộp phạt 50%
tiền thuế phải nộp. Nhờ các quy định nghiêm minh đã giúp cho các cơ quan Hải
quan Philippin dễ dàng thực hiện, kiểm tra, quản lý và xử lý các doanh nghiệp vi
phạm, chống thất thu cho Nhà nước.
3.2.3 New Zealand
Là một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng xác định trị giá hải quan theo
Hiệp định Trị giá của WTO, hoạt động chống gian lận thương mại qua giá của New
Zealand được tiến hành ở nhiều cấp độ:
Từ hệ thống văn bản pháp quy
Luật Hải quan New Zealand gồm 399 điều khoản và 4 phụ lục, các quy định
về xác định trị giá hải quan cho hàng hóa nhập khẩu được quy định từ Điều 60 đến
Điều 63 và Phụ lục 2 của bộ luật này. Mọi quy định về xác định trị giá hải quan đều
được xây dựng ở cấp độ văn bản luật với mức độ chi tiết cao, nhờ đó, doanh nghiệp
hoàn toàn có thể áp dụng trực tiếp vào hoạt động thực tế và nếu có vướng mắc thì
có thể liên hệ với cơ quan Hải quan để được hướng dẫn cụ thể.
Hải quan New Zealand có hệ thống văn bản hướng dẫn cho cán bộ Hải quan
(chủ yếu là bộ phận kiểm tra sau thông quan chịu trách nhiệm kiểm tra trị giá) về
công tác xác định, kiểm tra xác định trị giá hải quan. Nhờ các quy định rõ ràng, tạo
thuận lợi hơn cho các cán bộ hải quan New Zealand trong quá trình thông quan, tiết
kệm được thời gian và chi phí cho cả doanh nghiệp và cơ quan Hải quan.
Cấp độ triển khai nghiệp vụ
Thủ tục xác định trị giá hải quan của New Zealand gắn liền với hệ thống thông
quan điện tử nhập khẩu. Nếu không có vướng mắc trong quá trình đăng ký tờ khai
(về phân loại hàng hóa, chính sách mặt hàng, tiêu chí về nhafnhaajp khẩu...) thì tờ
khai sẽ được Hải quan chấp nhận, việc xác định trị giá hải quan coi như hoàn tất;
Nếu xuất hiện vướng mắc qua quá trình xử lý điện tử, doanh nghiệp phải xuất trình
chứng từ giải trình để coa quan Hải quan nghiên cứu thêm. Sau đó, cơ quan Hải
quan xác định các tờ khai cần kiểm tra với tỷ lệ quyết định phải kiểm tra thực tế
khoảng 2-3% lượng hàng nhập khẩu. Nếu có nghi ngờ về trị giá hải quan, ngay lập
tức, bộ phận làm thủ tục sẽ thông báo bộ phận kiểm tra sau thông quan điều tra sau
khi hàng hóa được giải phóng. Và nếu kết quả điều tra cho thấy trị giá hải quan
không được chấp nhận thì Cục trưởng Hải quan địa phương ra quyết định điều
chỉnh giá. Doanh nghiệp có quyền khiếu nại tới Hải quan vùng đó (trong vòng 28
ngày sau quyết định của cơ quan Hải quan), cấp có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp sau cùng là Tòa án quốc gia.
Do đặc điểm của chính sách thuế quan của New Zealand là nhằm mục đích
bảo hộ hơn là mục đích thuế quan nên Hải quan New Zealand se phải chú ý nhiều
đến xác định trị giá hải quan của những trường hợp khai báo trị giá thấp và vi phạm
đến các quy định trong việc bảo hộ thuế quan.
3.3 Một số giải pháp chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu
trực thuộc Tổng Cục Hải quan
3.3.1 Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa
Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu ở
Việt Nam là bắt nguồn từ chính sách thuế nhập khẩu chưa hoàn chỉnh, chưa phù
hợp và theo kịp với thực tiễn nên các doanh nghiệp có cơ hội lợi dụng kẽ hở luật
pháp để trốn thuế, gian lận thương mại. Vì vậy, giải pháp hoàn thiện chính sách
thuế nhập khẩu được coi là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu cho
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Cục Thuế xuất nhập khẩu có
nhiệm vụ rà soát thực tiễn kiểm tra, nghiên cứu, đề xuất lên cấp trên những hiện
tượng còn tồn tại, và biện pháp xử lý, khắc phục và phòng chống. Giải pháp hoàn
thiện chính sách thuế nhập khẩu được chia thành các nhóm chính:
3.3.1.1 Chuẩn hóa quy tắc phân loại hàng hóa để áp mã số thuế, hoàn thiện
biểu thuế nhập khẩu, thuế suất hiện hành
Việc phân loại hàng hóa là xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng đầu tiên
trong quy trình thủ tục Hải quan, nếu phân loại sai dẫn đến việc áp mã sai, có thể
chênh lệch số thuế phải đóng lên tới hàng tỷ đồng.Việc áp mã số thuế cần gắn với
chính sách thuế, chính sách mặt hàng.
Để khắc phục tình trạng tên hàng và mã số hàng hóa của Biểu thuế hàng hóa
xuất nhập khẩu hiện hành chưa tương thích với nhau, gây khó khăn cho việc thực
hiện, đặc biệt là thông quan điện tử, việc chuẩn hóa mô tả tên hành ở cấp độ 6 chữ
số, 8 chữ số là việc cần thiết. Ngoài ra, cần phải thống nhất tên hàng và mã số hàng
hóa ở cấp độ 10 chữ số của Biểu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, chuẩn hóa 6 quy tắc
phân loại, các chú giải pháp lý, đồng thời cần tiến hành sửa đổi lại mức thuế suất
của Biểu thuế, quy định phân loại hàng hóa hướng tới mục tiêu đảm bảo công khai,
minh bạch và dễ thực hiện.
Để tiết kiệm thời gian thông quan và đảm bảo việc áp mã được chính xác hơn,
hình thức phân loại trước khi hàng về đến cửa khẩu cũng là một biện pháp hay, nên
xem xét và mở rộng nhằm mục đích tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong phân loại
và tính phương án kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chặt chẽ và chính xác,
nên tách và quy định rõ ràng phân loại trước đối với trường hợp có mẫu hàng và
không có mẫu hàng.
Việc hoàn thiện Biểu thuế nhập khẩu hiện hành cần phải dựa vào danh mục
hàng hóa xuất, nhập khẩu của Tổ chức Hải quan thế giới, và phải chi tiết, cụ thể với
từng nhóm mặt hàng, đảm bảo tính ổn định cao để tránh tình trạng khiếu nại của các
doanh nghiệp. Trong tương lai, cần giảm bớt các mức thuế suất, đơn giản hóa biểu
thuế cả về số lượng mức thuế suất và khoảng cách giữa các mức thuế suất để tạo sự
thông thoáng, thống nhất và phù hợp với các cam kết quốc tế. Một điều cần đăc biệt
chú ý là không nên để mức thuế suất quá chênh lệch giữa các mặt hàng có cấu tạo,
công dụng gần giống nhau để tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng sơ hở vi
phạm.
3.3.1.2 Xác định đúng trị giá tính thuế trên cơ sở dữ liệu được hoàn thiện.
Do vai trò hết sức quan trọng của cơ sở dữ liệu giá trong xác định trị giá tính
thuế, trong việc tham khảo và xây dựng căn cứ để tổ chức tham vấn và xác định giá
trị tính thuế cho lô hàng nhập khẩu...do vậy, cần hoàn thiện cơ sơ dữ liệu về giá trị
tính thuế theo các biện pháp sau:
- Bổ sung thêm kịp thời các nguồn thông tin làm cơ sở xây dựng về trị giá tính
thuế ngoài nguồn thông tin do doanh nghiệp khai báo khi kiểm tra, tham vấn và xác
định trị giá cho hàng hóa nhập khẩu.
- Danh mục dữ liệu quản lý rủi ro về giá được sử dụng như một công cụ để
phân tích, đánh giá độ tin cậy của trị giá khai báo, phân loại các lô hàng nghi ngờ để
thực hiện công tác tham vấn và các bước tiếp theo trong quy trình kiểm tra, xác định
trị giá. Một điều cần chú ý là không được sử dụng các mức giá trong danh mục dữ
liệu giá để áp đặt trị giá tính thuế và xây dựng cơ chế pháp lý cho việc thu thập, cập
nhật, phân tích, đánh giá thông tin từ nguồn khác vào hệ thống.
Xây dựng các tiêu chí phân loại, đánh giá độ tin cậy của các nguồn thông tin
theo mức độ rủi ro trước khi cung cấp cho Cục Hải quan địa phương sử dụng để có
biện pháp nghiệp vụ kịp thời và phù hợp với từng trường hợp. Chẳng hạn như nếu
thông tin có độ tin cậy cao dùng để kiểm tra, tham vấn và xác định trị giá lô hàng;
Nếu là thông tin có độ tin cậy trung bình thì dùng để kiểm tra trị giá khai báo, phân
loại các lô hàng; còn với thông tin có độ tin cậy thấp dùng để tham khảo khi kiểm
tra, tham vấn lô hàng.
- Tập hợp dữ liệu về giá của các mặt hàng có khả năng gian lận cao, xác định
các doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận đưa vào diện kiểm tra, trên cơ sở đó, phân
công, chỉ đạo cụ thể cho từng địa phương tiến thực hiện kiểm tra giá phù hợp.
- Với trường hợp hàng hóa có giảm giá theo hợp đồng, nhập khẩu theo nhiều
chuyến khác nhau thì khoản giảm giá chỉ được xem xét và chấp nhận sau khi doanh
nghiệp nộp các tài liệu hồ sơ chứng minh đã hoàn thành việc nhập khẩu và thanh
toán toàn bộ hợp đồng, đồng thời khi tham vấn cần làm rõ những nghi ngờ về khoản
giảm giá, đối chiếu với các quy định hiện hành và thông lệ quốc tế rồi mới đưa ra
quyết định chấp nhận khoản giảm giá được trừ ra khỏi trị giá hay không.
- Các Chi cục hải quan cần tăng cường thu thập, khai thác thông tin về xuất
nhập khẩu nhằm xác định giá trị hải quan chống gian lận thương mại qua giá, cải
tiến quy trình thủ tục và áp dụng các chương trình phần mềm quản lý hải quan tiến
tiến, kết hợp đào tạo đội ngũ cán bộ công chức hải quan có trình độ chuyên môn cao
tạo mọi điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu, giao lưu thương mại được thuận
tiện.
- Với những trường hợp phức tạp và vượt quá thẩm quyền thì cơ quan Hải
quan đề nghị các cơ quan có thẩm quyền đối với vụ việc giải quyết như cơ quan
thuế nộ địa, cơ quan công an, cơ quan thẩm định giá phối hợp giúp đỡ xác định căn
cứ kết luận giá.
3.3.1.3 Về phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu
Có hai phương thức đánh thuế xuất nhập khẩu thường được biết đến là áp dụng
thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và theo giá trị tuyệt đối của hàng hóa (mức thuế phải
nộp quy định theo giá trị tuyệt đối bằng tiền trên một đơn vị hàng hóa). Ở Việt
Nam, hầu như tất cả các mặt hàng xuất nhập khẩu đều được tính theo thuế suất theo
tỷ lệ phần trăm và mới chỉ có mặt hàng xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu dưới 16
chỗ phải chịu thuế tuyệt đối theo Quyết định số 69/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc áp dụng hình thức
tính thuế theo giá trị tuyệt đối với hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ giảm được các trường
hợp gian lận về giá hàng nhập khẩu và trường hợp khó xác định được chính xác số
thuế phải nộp theo tỷ lệ phần trăm.
Thuế tuyệt đối đánh thuế không dựa trên giá trị hàng hóa nên sẽ phát huy vai
tác dụng trong các trường hợp hàng nhập khẩu khai giá tính thuế thấp khiến thuế
phần trăm giảm tác dụng. Một số mặt hàng nhập khẩu như ô tô tải đã qua sử dụng,
bộ vòi tắm, gạch ốp lát, kính xây dựng, sứ vệ sinh... do khai báo giá nhập khẩu thấp
dẫn đến giá bán thấp hơn giá bình quân mặt hàng cùng chủng loại trên thị trường
trong nước khiến nhiều doanh nghiệp trong nước phải điêu đứng vì bị cạnh tranh
gay gắt về giá. Nếu áp dụng thuế tuyệt đối với các mặt hàng này sẽ hạn chế được
tình trạng trên, góp phần bảo hộ sản xuất, tạo sự công bằng và ổn định trên thị
trường trong nước.
Đối với những mặt hàng khó xác định giá trị ngay cả khi đã áp dụng các
phương pháp của Hiệp định trị giá GATT/WTO như hàng điện tử, ô tô nhập khẩu
đã qua sử dụng... thuế phần trăm sẽ giảm tác dụng vì mức thu được tính trên giá trị
hàng hóa. Thuế tuyệt đối lúc này sẽ là một công cụ phù hợp vì tính theo các tiêu
chuẩn đo lường định lượng của hàng hóa, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý và điều tiết hoạt động nhập khẩu. Việc áp dụng thuế tuyệt đối cũng tỏ ra
hiệu quả đối với các mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu giá trị nhỏ mà chi phí xác định
giá trị tính thuế lớn.
Vấn đề đặt ra ở đây là sẽ phải xây dựng mức thuế tuyệt đối như thế nào để
người tiêu dùng không bị thiệt thòi. Điều này không chỉ là nhiệm vụ của Cục Thuế
xuất nhập khẩu, các cơ quan trong ngành Hải quan mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ
của các bộ, ngành liên quan trong công tác nghiên cứu, xây dựng và ban hành mức
thuế tuyệt đối cho các mặt hàng nhằm mục địch tạo thuận lợi cho quá trình kiểm tra,
quản lý, điều tiết hàng nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu Ngân sách Nhà nước
không bị thất thoát, góp phần chống gian lận thương mại qua giá.
3.3.1.4 Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu
Các quy định về thời hạn nộp thuế nhập khẩu hiện nay còn quá phức tạp, khó
khăn cho thực hiện như: quá nhiều thời hạn nộp thuế tùy theo mục đích nhập khẩu
(tiêu dùng, sản xuất hay sản xuất xuất khẩu) và tính chất hàng hóa (kinh doanh tạm
nhập tái xuất hay tạm nhập tái xuất để thi công công trình, dự án sử dụng vốn
ODA). Từ đó sẽ dễ nảy sinh vi phạm bao gồm cả những hành vi không cố ý. Với
tình trạng này, chỉ tính riêng số nợ thuế hàng hóa nhập khẩu cũng lên tới hàng nghìn
tỷ đồng, trong khi đó hệ thống máy móc, thiết bị và nguồn nhân lực hiện tại không
thể đấp ứng được yêu cầu quản lý và theo dõi nợ thuế cưỡng chế thuế. Một biện
pháp được đưa ra để hạn chế tình trạng trên là phải quy định nộp thuế nhập khẩu
trước khi nhận hàng, với trường hợp có bảo lãnh thì áp dụng thời hạn nộp thuế bằng
thời hạn bảo lãnh nhưng không quá 30 ngày từ ngày đăng ký tờ khai hải quan chứ
không nên quy định quá nhiều thời gian nộp thuế như hiện nay.
3.3.1.5 Về các chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu
Để khuyến khích và thu hút đầu tư, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách ưu đãi thuế với hàng hóa nhập khẩu của các dự án đầu tư vào các lĩnh
vực và địa bàn ưu đãi. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này để
trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cần một cơ chế chặt chẽ
trong quản lý việc miễn thuế đối với hàng đầu tư nhập khẩu. Song song với việc rà
soát lại các lĩnh vực và địa bàn được xem xét ưu đãi đầu tư, các chính sách ban hành
cũng cần phải rõ ràng, cụ thể với các doanh nghiệp muốn được ưu đãi thuế hàng đầu
tư thì phải đăng ký với cơ quan Hải quan danh mục hàng hóa nhập khẩu miễn thuế
cho cả dự án và phải cung cấp cho cơ quan Hải quan các hồ sơ tài liệu bắt buộc như:
luận chứng kinh tế kỹ thuật, tài liệu thiết kế kỹ thuật chi tiết... để kiểm tra theo dõi
và quyết toán.
3.3.2 Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập
khẩu
Rõ ràng nếu chỉ dựa vào một hệ thống luật pháp và các quy định về thuế xuất
nhập khẩu hàng hóa thì không thể nào quản lý và ngăn chặn được những trường hợp
trốn thuế và gian lận thương mại. Công tác kiểm tra sau thông quan tuy mới trong
giai đoạn xây dựng và thực hiện nhưng đã rỏ ra có hiệu quả trong việc kiểm tra,
giám sát và phát hiện các sai sót, các hành vi gian lận tiền thuế xuất nhập khẩu. Thế
nhưng, công tác này hiện nay thường được hiểu là chỉ tiến hành khi phát hiện đối
tượng có dấu hiệu vi phạm, chứ chưa được coi là một chức năng của cơ quan hải
quan nhằm chia sẻ trách nhiệm với các bộ phận liên quan trong quy trình làm thủ
tục hải quan, theo đúng bản chất hoạt động này. Ngoài ra, việc lựa chọn đối tượng
để kiểm tra trong thời gian qua cũng chưa thực sự dựa vào các tiêu thức lựa chọn
khoa học mà chỉ tập trung vào các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, và các
đối tượng kê khai hải quan mà bỏ qua các đối tượng gián tiếp tham gia vào hoạt
động thương mại quốc tế như các ngân hàng, bảo hiểm, cơ quan giám định hàng
hóa...
Vì vậy, để thực hiện nghiệp vụ này theo đúng thông lệ quốc tế, trước hết phải
có cách nhìn nhận thật đúng về công tác kiểm tra sau thông quan như là hoạt động
nghiệp vụ thường xuyên của cơ quan hải quan và phải áp dụng kỹ thuật quản lý rủi
ro trong việc lựa chọn đối tượng kiểm tra để thích ứng với điều kiện hạn chế về
nguồn lực và phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Để thực
hiện được như vậy đòi hỏi hệ thống thông tin phải thật kịp thời, chính xác về đối
tượng xuất nhập khẩu như lịch sử hình thành và phát triển, quy mô, lĩnh vực hoạt
động quá trình hoạt động, các thông tin về hàng hóa....nhằm xác định được mức độ
rủi ro về gian lận thương mại và loại trừ những doanh nghiệp, hàng hóa ít hoặc
không có dấu hiệu vi phạm pháp luật ra khỏi diện nghi vấn và kiểm tra.
Việc hình thành đội ngũ cán bộ kiểm tra sau thông quan đủ năng lực, phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp được coi là chìa khóa để đi đến thành công của mô hình
kiểm tra sau thông quan. Ngoài ra, cần xây dựng mô hình kiểm tra thông quan trên
cơ sở các chuẩn mực cần thiết và theo quy trình chặt chẽ. Đặc biệt cần tập trung
kiểm tra vào những mặt hàng nhạy cảm , có thuế suất cao, hàng hóa áp mã chưa
thống nhất giữa các Chi cục, mặt hàng dễ gian lận giá, kiểm tra định mức tiêu hao
nguyên liệu thực tế, thanh khoản hợp đồng gia công, kiểm tra việc sử dụng hàng
hóa nhập khẩu được miễn thuế...
3.3.3 Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý vi phạm về thuế của người nộp
thuế
* Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Trong các quy định hiện hành, một số hành vi có mức xư phạt hành chính
thấp, chưa có tác dụng răn đe, một số hành vi thì chưa có tiêu chí xác định rõ ràng
nên chưa có cơ sở để phân biệt hành vi. Do vậy, cần thiết phải có các văn bản
hướng dẫn, phân biệt rõ ràng các tiêu chí xác định hành vi vi phạm để cơ quan Hải
quan không bị lúng túng trong thực hiện, đồng thời phải tăng mức xử phạt đảm bảo
đủ mức răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm.
* Biện pháp trích tiền từ tài khoản của người nộp nộp thuế để nộp thuế
Cần quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, cơ quan
Kho bạc Nhà nước trong việc trích tiền từ tài khoản của người nộp thuế để nộp thuế,
nộp phạt vào Ngân sách Nhà nước theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan Hải
quan. Ngoài ra, cần phải có các quy định điều kiện ràng buộc trong việc mở, cung
cấp đầy đủ, chính xác tất cả cá tài khoản giao dịch của người nộp thuế trong giao
dịch, mua bán hàng hóa cũng như thanh toán tiền hàng, làm cơ sở xác định đúng số
tiền đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán nhằm xác định đúng trị giá tính thuế.
Cũng từ đó, cơ quan Hải quan có thể nắm được thực tế số dư tài khoản tại ngân
hàng, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước để áp dụng hiệu quả biện pháp trích
tiền hay phong tỏa tài khoản của những người nộp thuế cố tình chây ỳ, trốn thuế.
* Áp dụng hiệu quả biện pháp tạm giữ hàng hóa hoặc kê biên tài sản
Cần quy định rõ ràng về quyền hạn của cơ quan Hải quan trong việc tạm giữ
hàng hóa, kê biên tài sản theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn nhất định, kể
từ ngày cơ quan Hải quan có quyết định tạm giữ hàng hóa, kê biên tài sản mà người
nộp thuế vẫn chưa nộp đủ tiền thuế, tiền phạt thì cơ quan Hải quan có quyền bán
đấu giá hàng hóa, tài sản theo quy định nhằm thu đủ tiền thuế, tiền phạt.
* Áp dụng biện pháp cưỡng chế dừng làm thủ tục hải quan
Cơ quan Hải quan sẽ không làm thủ tục hải quan cho chuyến hàng tiếp theo
của doanh nghiệp nợ thuế cho đến khi doanh nghiệp nộp đủ tiền thuế, tiền phạt
hoặc sẽ tiến hành làm thủ tục hải quan tại cơ quan Hải quan trực tiếp quản lý sô nợ
thuế nếu doanh nghiệp đó nộp ngay tiền thuế của lô hàng hiện tại và một phần tiền
thuế nợ đọng theo cam kết cảu người nợ thuế với cơ quan Hải quan.
3.4 Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
3.4.1 Về con người
Con người được coi là yếu tố quyết định trong công tác chống thất thu thuế
nhập khẩu. Để thực hiện các chính sách thuế và các quy trình xuất nhập khẩu có
hiệu quả, cần quan tâm hơn đến việc nâng cao trình độ của cả cán bộ công chức hải
quan và cả các đối tượng nộp thuế.
* Đối với cán bộ, công chức hải quan
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới yêu cầu đội ngũ hải quan phải đáp ứng các
yêu cầu: giỏi về nghiệp vụ, thành thạo về chuyên môn, kỹ năng làm việc, có trình
độ tin học, ngoại ngữ, tư tưởng chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và có
tinh thần phục vụ nhân dân. Do vậy, ngoài sự đầu tư thỏa đáng với những người làm
công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu cả về trình độ, năng lực chuyên môn, tư cách
đạo đức, cần phải có chế độ đãi ngộ hợp lý, quy định thưởng phạt rõ ràng, nghiêm
minh để các cán bộ, công chức Hải quan yên tâm công tác, nhiệt tình và có trách
nhiệm thực sự với công việc.
Một việc cần thiết phải làm nữa là việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức
Hải quan. Do đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan được hình thành từ nhiều nguồn,
nhiều trường, nhiều loại hình đào tạo khác nhau nên trình độ nhận thức không đồng
đều, nên cần phân loại thành đội ngũ cán bộ công chức chưa đào tạo đại học, cao
đẳng và đội ngũ công chức có trình độ từ cao đẳng trở lên để có phương pháp đào
tạo thích hợp. Với nhóm thứ nhất, có thể sử dụng hình thức tổ chức các lớp học theo
từng đợt ngắn hạn nhưng liên tục trong nhiều năm, nội dung từ cơ bản đến chuyên
sâu. Với đội ngũ công chức trình độ từ cao đẳng trở lên thì có thể đào tạo theo
phương thức hội thảo, thảo luận theo các chuyên đề sát thực tế, gắn với các kỹ năng,
tình huống trong thực tế để nâng cao trình độ, kỹ năng giải quyết các tình huống
phát sinh trong thực tế.
* Đối với người nộp thuế
Để thực hiện tốt công tác chống thất thu thuế nhập khẩu thì không chỉ xuất
phát từ yếu tố đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan tinh nhuệ mà còn cần sự phối
hợp từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Họ cần phải là những người am hiểu
luật pháp, quyền và nghĩa vụ của bản thân đối tượng nộp thuế, phải có thái độ trung
thực và hợp tác trong việc kê khai, tính và nộp thuế. Một giải pháp được đưa ra là,
cơ quan Hải quan có thể hỗ trợ các đối tượng nộp thuế qua các khóa huấn luyện
ngắn hạn, đào tạo cơ bản, hệ thống chính sách thuế nhập khẩu; lập các diễn đàn về
Hải quan và thuế xuất nhập khẩu nhằm giải quyết mọi thắc mắc, khó khăn, tạo cầu
nối giữa Hải quan và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Để khuyến khích các đối
tượng nộp thuế trung thực, chấp hành tốt nghĩa vụ với Nhà nước, cần có các hình
thức ưu đãi nhất định như tuyên dương, khen thưởng để các đối tượng để họ ngày
càng phát huy.
3.4.2 Về khoa học kỹ thuật
Hệ thống cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện đại là một trong những điều kiện cần và
đủ để có thể phát huy một cách tốt nhất những lợi thế về con người, góp phần tạo
nên thành công của công tác quản lý thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
Về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cần nối mạng hệ thống máy vi tính toàn
ngành để đảm bảo khả năng cung cấp và xử lý các thông tin về thuế xuất nhập khẩu
chính xác, đầy đủ, kịp thời; đồng thời đối chiếu, trao đổi thông tin với các cơ quan
quản lý Nhà nước khác, với hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới. Thêm
vào đó còn cần trang bị hệ thống tàu cao tốc đủ mạnh để trấn áp hoạt động buôn lậu
trên biển, hệ thống máy soi container, hệ thống camera theo dõi, kiểm tra việc xuất
nhập khẩu ở các cửa khẩu...
Với mục tiêu tiết kiệm thời gian, chi phí cho các đối tượng nộp thuế và cơ
quan Hải quan, việc thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế xuất nhập khẩu,
chuyên môn hóa công tác quản lý thu thuế, hiện đại hóa trong công tác thu thuế là
điều tất yếu. Tuy nhiên, bên cạnh việc đầu tư các trang thiết bị, phương tiện làm
việc theo tiêu chuẩn hiện đại, cần phải có giải pháp sử dụng hiệu quả các trang thiết
bị này và thiết kế những phần mềm chuyên nghiệp nhưng không quá phức tạp nhằm
hỗ trợ đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế xuất, nhập khẩu.
3.4.3 Về sự phối hợp Hải quan
3.4.3.1 Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức
thu, kiểm tra, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
Công tác theo dõi, quản lý, xử lý vi phạm về thuế xuất nhập khẩu, chống thu
xuất nhập khẩu không thể chỉ là nhiệm vụ của Cục Thuế xuất nhập khẩu, để thực
hiện tốt nhiệm vụ đó, cần sự phối kết hợp của các Vụ, Cục, cơ quan trong ngành,
Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao, các tổ chức tín dụng... Trong đó, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Thương mại nhằm trao đổi, bổ sung thông tin về chính sách mặt hàng; phối hợp
với ngân hàng để nắm số dư trong tài khoản của doanh nghiệp xuất nhập khẩu;
Triển khai thu thuế xuất nhập khẩu, thu Ngân sách Nhà nước qua ngân hàng; Phối
hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công thương và các cơ quan liên quan xây dựng quy chế
cưỡng chế thu nợ thuế, xử lý khoản nợ không có khả năng thu hồi... Nếu có được sự
phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong và ngoài ngành, việc kiểm tra, xử lý
hiện tượng gian lận thương mại, trốn thuế sẽ đạt hiệu quả tích cực, góp phần giảm
thiểu tình trạng nợ đọng thuế, gây thất thu Ngân sách Nhà nước.
3.4.3.2 Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước trong mặt trận đấu
tranh chống gian lận thương mại.
- Tham khảo kinh nghiệm đấu tranh chống gian lận của các quốc gia phát triển,
các quốc gia có kỹ thuật và hệ thống quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu, thuế xuất
nhập khẩu tiến bộ thông qua các cuộc họp thường niên của Tổ chức Hải quan thế
giới.
- Ký kết các Hiệp định hợp tác Hải quan với các nước trong việc hỗ trợ cung
cấp thông tin về hàng hóa, trị giá, tên doanh nghiệp nhập khẩu...tạo cơ sở dữ liệu
cho việc quản lý và kiểm tra xác định thông tin về hàng hóa, doanh nghiệp tham gia
nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã thu được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận và đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn mới – giai đoạn
phát huy nội lực kết hợp với tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế.
Cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu ngày một lớn
mạnh, đa dạng, hàng năm đóng góp nhiều vào Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên,
song với sự phát triển về số lượng và đa dạng về chủng loại hàng hóa xuất nhập
khẩu là tình trạng trốn thuế, gian lận thuế nhập khẩu với các thủ đoạn phức tạp, tinh
vi khôn lường và ngày càng khó đối phó cũng tăng lên. Để nắm bắt và đáp ứng
được thách thức này, cơ quan Quản lý Nhà nước, đặc biệt là Cục Thuế xuất nhập
khẩu, các cơ quan Hải quan cần phải hiểu rõ các xu hướng thương mại mới, nghiên
cứu sâu hơn các biến tướng của các loại hình gian lận, trốn thuế nhập khẩu để có
phương án xây dựng, định hướng hệ thống giải pháp đồng bộ để đối phó kịp thời và
hiệu quả.
Với mục tiêu đổi mới về cơ chế chính sách và quy trình nghiệp vụ trong công
tác quản lý thuế xuất nhập khẩu theo hướng cải cách hành chính, đơn giản, hiện đại,
công khai, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế, trên nền tảng công nghệ
thông tin hiện đại theo hướng tự động hóa phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước thì việc ban hành các cơ chế, quy trình quản lý hoạt động thu nộp
thuế xuất nhập khẩu sao cho hiệu quả là hết sức cần thiết. Đây không chỉ là nhiệm
vụ của Cục Thuế xuất nhập khẩu, mà còn cần sự phối kết hợp của các Vụ, Cục, Chi
cục Hải quan; của các Bộ, ngành, cơ quan có thẩm quyền liên quan; sự kết hợp,
giúp đỡ,hợp tác của Hải quan các nước trên thế giới và khu vực nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý, xử lý nợ thuế, chống thất thu Ngân sách Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS Hoàng Đức Thân, PGS.TS Nguyễn Thị Xuân Hương (2009),
Giáo trình Kinh tế Hải quan (phần 1), Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. GS.TS Hoàng Đức Thân, Giáo trình Kinh tế Hải quan (phần 2), Nhà
xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
3. Tổng cục Hải quan (tháng 7/2009), Báo cáo thành tích đề nghị phong
tặng danh hiệu “anh hùng lao động” trong thời kỳ đổi mới cho tập thể Vụ Kiểm tra
thu thuế nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan.
4. Công ước về đơn giản hóa hài hòa hóa thủ tục hải quan sửa đổi (Công
ước KYOTO)
5. GS.TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên), TS. Nguyễn Hữu Khải, ThS.
Nguyễn Xuân Nữ (2003), Giáo trình Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Giáo Dục, Hà Nội.
6. Cục tin học và thống kê – Tổng cục Hải quan (2009), Báo cáo tình
hình thu thuế giai đoạn 2002-2008.
7. Lỗ Thị Nhụ (2008), Đổi mới công tác quản lý thuế đáp ứng yêu cầu
hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam hiện nay.
8. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
9. Bộ Tài chính, Quyết định 1017/QĐ-BTC quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc
Tổng cục Hải quan.
10. Bộ Tài chính (2009), Thông tư 216/2009/TT-BTC quy định mức thuế
suất của biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU. ........................................................................................................3
1.1. Khái quát về thuế nhập khẩu.......................................................................3
1.1.1. Khái niệm về thuế nhập khẩu ................................................................3
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu ...................................................................3
1.1.2.1. Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà
nước 3
1.1.2.2. Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển ....4
1.1.2.3. Vai trò kiểm soát và điều tiết với hàng hóa nhập khẩu ......................6
1.1.2.4. Khẳng định vai trò chủ quyền quốc gia, chống phân biệt đối xử trong
thương mại quốc tế........................................................................................6
1.1.3. Một số nội dung cơ bản của thuế nhập khẩu ........................................7
1.1.3.1. Phạm vi áp dụng ...............................................................................7
1.1.3.2. Căn cứ tính thuế ...............................................................................8
1.1.3.3. Thuế suất thuế nhập khẩu ............................................................... 10
1.1.3.4. Chế độ miễn thuế, giảm thuế thuế nhập khẩu .................................. 11
1.1.3.5. Hoàn thuế, truy thu thuế nhập khẩu ................................................ 12
1.1.3.6. Thủ tục kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế nhập khẩu: ................ 15
1.2. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chông thất thu thuế nhập
khẩu 15
1.2.1. Khái niệm thất thu thuế nhập khẩu ..................................................... 15
1.2.2. Sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu ............................... 16
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế ......................................................................... 17
1.2.2.2. Đối với môi trường kinh doanh ....................................................... 18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở
CỤC THUẾ XNK THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN. ...................................... 19
2.1. Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của Cục thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng
cục Hải quan ........................................................................................................
19
2.1.1. Vị trí và chức năng............................................................................... 19
2.1.2. Đặc điểm cơ cấu tổ chức Cục thuế xuất nhập khẩu ............................ 19
2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn ....................................................................... 19
2.2. Thực trạng thất thu thuế và công tác chống thất thu thuế. ....................... 22
2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam ............... 22
2.2.2. Tình hình gian lận về thuế nhập khẩu ................................................ 23
2.2.2.1. Gian lận trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất hàng hóa
nhập khẩu ..............................................................................................................
24
2.2.2.2. Gian lận trong việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu ................ 25
2.2.2.3. Làm giả giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) của hàng nhập khẩu ........ 27
2.2.2.4. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu. ............................................................................................ 29
2.2.2.5. Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa. ....................... 30
2.2.2.6. Lợi dụng các chính sách ưu đãi của nhà nước trong xuất nhập khẩu
hàng hóa. .......................................................................................................
30
2.2.2.7. Thiếu tính đồng bộ trong khâu tổ chức thu hồi nợ đọng thuế nhập
khẩu 31
2.2.2.8. Thất thu thuế do các hành vi gian lận khác ..................................... 32
2.2.3. Các hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu của Cục Thuế xuất
nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan .................................................... 33
2.2.3.1. Trong công tác thu Ngân sách Nhà nước ........................................ 33
2.2.3.2. Công tác tham vấn và tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật: 35
2.2.3.3. Về công tác quản lý nợ thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu ............ 36
2.2.3.4. Công tác phối kết hợp với các cơ quan trong và ngoài ngành để kiểm
tra, ra soát hàng hóa xuất nhập khẩu theo từng quy trình thủ tục hải quan.
36
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất
nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan ....................................................... 37
2.3.1. Kết quả ................................................................................................. 37
2.3.1.1. Góp phần quan trọng vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước, và hạn
chế nợ đọng, chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước. ............................... 37
2.3.1.2. Cục Thuế xuất nhập khẩu góp phần thực hiện cải cách mạnh mẽ và
hiệu quả thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải quan .................................. 40
2.3.1.3. Phát hiện những sơ hở thiếu sót trong chính sách quản lý thường bị
lợi dụng, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách, quy trình thủ tục hải quan và
các chính sách quản lý nhà nước khác. ....................................................... 41
2.3.1.4. Quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế về Hải quan ngày càng mở rộng
và đã đem lại hiệu quả thiết thực. ................................................................ 42
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 42
2.3.2.1. Những hạn chế ............................................................................... 42
2.3.2.2. Nguyên nhân .................................................................................. 44
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC
CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở CỤC THUẾ XUẤT NHẬP
KHẨU THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN ......................................................... 47
3.1. Mục tiêu cơ bản của chống thất thu thuế nhập khẩu ................................ 47
3.1.1. Đảm bảo được nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước .......................... 47
3.1.2. Mục tiêu tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, đúng pháp luật.. 47
3.1.3. Mục tiêu nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật ...................................... 47
3.2. Tham khảo kinh nghiệm chống thất thu thuế của hải quan một số nước
trên thế giới. .........................................................................................................
47
3.2.1. Hoa Kỳ ................................................................................................. 48
3.2.2. Philippin ............................................................................................... 49
3.2.3. New Zealand ........................................................................................ 49
3.3. Một số giải pháp chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực
thuộc Tổng Cục Hải quan ................................................................................. 50
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa .............. 50
3.3.1.1. Chuẩn hóa quy tắc phân loại hàng hóa để áp mã số thuế, hoàn thiện
biểu thuế nhập khẩu, thuế suất hiện hành .................................................... 51
3.3.1.2. Xác định đúng trị giá tính thuế trên cơ sở dữ liệu được hoàn thiện. 52
3.3.1.3. Về phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu ...................................... 53
3.3.1.4. Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu ..................................................... 54
3.3.1.5. Về các chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu ....................................... 55
3.3.2. Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập
khẩu ............................................................................................................... 55
3.3.3. Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý vi phạm về thuế của người nộp
thuế ........................................................................................................................ 57
3.4. Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu ...... 58
3.4.1. Về con người ........................................................................................ 58
3.4.2. Về khoa học kỹ thuật ........................................................................... 59
3.4.3. Về sự phối hợp Hải quan ..................................................................... 60
3.4.3.1. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức
thu, kiểm tra, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế..................... 60
3.4.3.2. Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước trong mặt trận
đấu tranh chống gian lận thương mại. ........................................................ 60
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 62