
HUFLIT International Conference On Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020
doi: 10.15625/vap.2020.0064
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY
Mai Phú Hợp
Trường Đại học Cần Thơ
mphop@ctu.edu.vn
TÓM TẮT: Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn xác định nguồn lực con người (nguồn nhân lực) là trung tâm của mọi sự phát
triển. Vì vậy, qua các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản thì đường lối, chiến lược để phát huy vai trò của nguồn nhân lực luôn là vấn đề được
chú ý nhiều nhất. Do đó, nguồn nhân lực đã được cải thiện đáng kể về thể lực, sức khỏe; trình độ tay nghề; tính sáng tạo; khả năng thích
nghi với môi trường làm việc,... Tuy nhiên, nhìn chung, vẫn còn nhiều hạn chế như số lượng đang giảm, chất lượng chưa cao mà nhất là
còn thiếu nhiều kỹ năng, cơ cấu còn bất hợp lý. Đó là những“thách thức” rất lớn khi hội nhập quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bài viết này phân tích những hạn chế thách thức, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
T Chất lượng nguồn nhân lực, cơ cấu nguồn nhân lực, số lượng nguồn nhân lực, Việt Nam.
I. GIỚI THIỆU
Thực tiễn đã cho thấy những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại đã góp phần quan trọng đối với sự phát triển lực
lượng sản xuất của nhân loại. Tuy nhiên, dù khoa học, công nghệ có thể tạo ra cuộc cách mạng vĩ đại trong lực lượng sản
xuất nhưng bản thân nó không bao giờ là yếu tố độc lập, tự chủ để quyết định cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong
bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì người lao động mới thật sự là nhân tố đóng vai
trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ xưa đến nay, nguồn lực con người (nguồn nhân lực) luôn là nhân tố quyết định và cũng là thước đo chủ yếu sự phát
triển của mỗi quốc gia, do đó các nước trên thế giới đều coi trọng và tìm những cách thức để phát triển. Từ những năm
1940, C. Mác đã khẳng định, người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất. Ông viết: “Thiên nhiên không chế
tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động, v.v… Tất cả những cái đó đều là sản phẩm
lao động của con người, là vật liệu tự nhiên được chuyển hóa thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự
nhiên, hoặc hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người
do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã được vật hóa của tri thức…” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 2000). Trong giai
đoạn nền đại công nghiệp phương Tây, V. I. Lênin cũng nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của con người trong nền sản xuất
của xã hội, mà lực lượng cốt lõi của lực lượng lao động lúc bấy giờ là giai cấp công nhân. Ông viết: “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” (V. I. Lênin, 1977). Đây là cơ sở lý luận nền tảng để
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đưa ra đường lối, chính sách nhằm phát huy vai trò quyết định của nhân
tố người lao động.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, nghiên cứu con người với tư cách là nguồn lực của sự phát triển cần được quan
tâm xây dựng, bồi dưỡng hơn nữa đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vì thế trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011). Trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược để phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh
tranh quốc gia. Mặc dù là “Quốc sách” xuyên suốt, tuy nhiên năng lực thực tế của người lao động vẫn đang là rào cản lớn
trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay và cũng là rào cản không nhỏ khi Việt Nam tham gia các
Hiệp định thương mại tự do (FTA). Và hiện thực là khó cạnh tranh về trình độ tay nghề, chuyên môn với nhiều quốc gia
trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Vậy, Việt Nam cần phải làm gì để phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát
triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Trên cơ sở chỉ ra thực trạng của nguồn nhân lực Việt Nam, nhất là
những hạn chế, bài viết sẽ đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong giai đoạn hiện nay, việc xác định đúng và huy động có hiệu quả các nguồn lực có ý nghĩa to lớn đối với việc thực
hiện chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn lực là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần có khả năng tạo ra sức
mạnh tổng hợp, thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, của tự nhiên và xã hội. Trong các nguồn lực
thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định.
Thuật ngữ Human resources - Nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX, là một khái niệm rất phức tạp và được
tiếp cận nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau theo đối tượng và mục tiêu của các ngành khoa học đặc thù. Cho đến nay,

82 NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
khái niệm “nguồn nhân lực” được nêu lên bởi nhiều tổ chức và cá nhân khác nhau. Các khái niệm này có nhiều điểm tương
đồng nhưng cũng có sự khác biệt, song chúng đã đề cập đến các đặc trưng như sau: Một là, số lượng nguồn nhân lực (có
bao nhiêu người và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai); hai là, chất lượng nguồn nhân lực (trí tuệ, trình độ, sự hiểu
biết, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, năng lực thẩm mỹ…) của người lao động; ba là, cơ cấu nguồn nhân lực (như cơ cấu về
chuyên ngành, trình độ được đào tạo, độ tuổi, giới tính, cơ cấu về phân bố…).
Số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít, cơ cấu
không hợp lý sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội và từ đó sẽ làm chất lượng lao động bị hạn chế. Chất lượng
nguồn nhân lực được nâng cao sẽ góp phần làm giảm số người hoạt động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm
số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể
người trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội. Nguồn nhân lực không phải là phép cộng giản đơn của các cá nhân với:
phẩm chất, năng lực… mà là tổng hợp các yếu tố số lượng, cơ cấu và chất lượng con người: tư tưởng, đạo đức, lối sống,
trình độ, sức khỏe… gắn kết với nhau trong một hệ thống xã hội, hoạt động có mục đích, tạo thành sức mạnh tổng hợp, là
sự cộng hưởng sức mạnh của mỗi cá nhân và cộng đồng. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò nhất định trong cấu trúc của nguồn
nhân lực, song giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, tạo ra sự phát triển bền vững của nguồn nhân lực. Trong đó, những
yếu tố tạo nên chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định. Việc phát triển chất lượng nguồn nhân lực được xem là
cốt lõi trong phát triển nguồn nhân lực.
A. Những ưu điểm nguồn nhân lực của Việt Nam
1. Số lượng nguồn nhân lực
Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn
nhân lực dồi dào. Nếu năm 2015, dân số là 93,57 triệu người và số lao động từ 15 tuổi trở lên có 54,6 triệu người, thì đến
năm 2019 có khoảng 96,48 triệu người, số lao động có khoản 55,8 triệu người, đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN về tỷ
lệ lực lượng lao động (xem bảng 1). Có thể nói, gia tăng dân số trong những năm qua kéo theo gia tăng về lực lượng lao
động.
Bảng 1: Số lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong 5 năm gần đây (2015 - 2019)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Năm
Dân số cả nước
(triệu người)
Số lao động từ 15 tuổi trở lên
(triệu người)
Tỷ lệ người lao động trên
tồng dân số (%)
2015
93,57
54,6
58,3
2016
94,57
54,4
57,5
2017
95,54
54,8
57,4
2018
96,96
54,4
56,1
2019
96,48
55,8
57,8
Theo Bảng 1 cho thấy, số lượng nguồn nhân lực của Việt Nam trong 5 năm lại đây, tính từ 15 tuổi trở lên so với tổng dân số
là có tăng tương đối. Nhìn chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Đây là một
lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
2. Chất lượng nguồn nhân lực
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã thu hẹp
khoảng cách phát triển với các nước trong quá trình hội nhập. Đặc biệt, Việt Nam đạt được những tiến bộ trong cải cách
lao động, vì vậy chất lượng lao động có những bước tiến đáng kể và lao động Việt Nam được đánh giá có ưu điểm là thông
minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật và công nghệ của thế giới; Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ phát triển khá đông, số doanh nhân ngày càng
tăng và kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế; Nhiều nhà kinh tế, cán bộ khoa học của Việt
Nam đã tiếp cận và tiếp thu nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; Đội ngũ nhân lực có trình độ
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như
bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và
xuất khẩu lao động.
Công tác đào tạo nghề tại Việt Nam bước đầu gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động; cơ cấu ngành
nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh theo cơ cấu ngành nghề sản xuất, kinh doanh; đã mở thêm nhiều nghề đào tạo
mới mà thị trường lao động có nhu cầu và các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
và giải quyết việc làm cho người lao động… Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công
nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia

Mai Phú Hợp 83
nước ngoài; số lao động xuất khẩu sang các nước ngày càng được đánh giá cao về tay nghề và tác phong lao động công
nghiệp.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, quý III/2019, lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên
là 12,7 triệu người, chiếm 25,86 % số lao động có việc làm của toàn quốc. Trong số lao động có việc làm phi chính thức,
lao động có trình độ trung học cơ sở chiếm tỷ trọng cao nhất (35 %), tiếp đến là lao động có trình độ tiểu học (23 %) và
trung học phổ thông (17,4 %). Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở lên chỉ chiếm tỷ trọng 15,4 %
tổng số lao động có việc làm phi chính thức. Giáo dục nghề nghiệp năm 2019 đã có những chuyển biến tích cực, chất
lượng nguồn nhân lực tiếp tục được nâng cao; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (Tổng cục Thống kê, 2019).
3. Cơ cấu nguồn nhân lực
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì lực lượng lao động trong độ tuổi lao động từ năm 2016 đến năm 2019
tăng gần 1 triệu người/1 năm. Trong đó, cơ cấu lao động xét theo giới tính giữa nam và nữ có sự chênh lệch qua 4 năm
không lớn và tương đối ổn định. Xét về tỷ lệ, lao động nam chiếm 54 % - 55 %, lao động nữ chiếm khoảng 45 % - 46 %
trong tổng số người ở độ tuổi lao động (xem bảng 3). Tỷ lệ gần tương đồng giữa lao động nam và lao động nữ là điều kiện
thuận lợi cho sự phân bổ và dịch chuyển việc làm, phù hợp với kinh tế tri thức, với cách mạng công nghiệp 4.0 khi đặc
điểm của cuộc cách mạng này cho thấy sức mạnh cơ bắp của nam giới không phải là ưu thế. Điều này cũng cho thấy, chính
sách bình đẳng giới ở Việt Nam nhìn chung được thực hiện khá tốt trên lĩnh vực lao động.
Xét về cơ cấu lao động là lực lượng lãnh đạo, Việt Nam có khoảng 1,1 % lao động là lãnh đạo trong các ngành, các cấp và
các đơn vị. Tỷ trọng này ở nam giới cao gấp 2,5 lần ở nữ giới (tương ứng là 1,6 % so với 0,6 %), ở khu vực thành thị cao gấp
gần 4 lần khu vực nông thôn (tương ứng là 2,3 % so với 0,6 %). Những lao động này hầu hết đều đã qua đào tạo chuyên môn
kỹ thuật (chiếm 99,2 %) (Tổng cục Thống kê, 2019). Với tỷ lệ người lao động là lực lượng lãnh đạo được đào tạo chuyên
môn gần 100 % là điểm mạnh của Việt Nam, bởi vì họ là lực lượng hoạch định chiến lược, chính sách, kế hoạch cho từng lĩnh
vực, khu vực và cả quốc gia.
Với đà phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, cơ cấu lao động trong các
ngành đang có sự chuyển dịch từ khu vực Nông, Lâm nghiệp, Thủy sản sang khu vực Công nghiệp, Xây dựng và Dịch vụ.
Trong quý III năm 2019, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính là
18,8 triệu người, chiếm 34,4 %; khu vực công nghiệp và xây dựng là 16,3 triệu người, chiếm 29,9 %; khu vực dịch vụ là
19,5 triệu người, chiếm 35,7 % (Lê Anh, 2019). Việc chuyển dịch từ các khu vực truyền thống ít có giá trị gia tăng sang
khu vực kinh tế gắn liền kinh tế tri thức tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn.
Với những ưu điểm trên, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã được cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều
qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. So với các nước trong khu vực
châu Á, khoảng cách tương đối của năng suất lao động Việt Nam ít nhiều đã được thu hẹp. Nếu năm 2011, năng suất lao
động của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp năng suất lao động của Việt Nam 17,6 lần; 6,3 lần; 2,9 lần
và 2,4 lần thì đến năm 2018 khoảng cách tương đối này giảm xuống tương ứng còn 13,7 lần; 5,3 lần; 2,7 lần và 2,2 lần
(Đức Tuân, 2019). Đây là điều đáng khích lệ và là dấu hiệu của năng lực cạnh tranh của Việt Nam có xu hướng được cải
thiện. Báo cáo thường niên năm 2018-2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy: Năm 2019, Việt Nam được
xếp hạng là nền kinh tế có tính cạnh tranh thứ 67/141 quốc gia và vùng lãnh thổ với 61,3 điểm, tăng 10 bậc và +3,5 điểm
đánh giá so với năm 2018 - mức tăng mạnh nhất thế giới tại “Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019” (Giang Khôi,
2019).
B. Những hạn chế về nguồn nhân lực của Việt Nam
Từ những số liệu thống kê trên cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy mạnh quá trình đào tạo nguồn nhân
lực, vì vậy đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng công nghệp 4.0 thì Việt Nam đang đứng
trước những thách thức nhất định như:
1. Số lượng nguồn nhân lực đ ng giảm và tỷ lệ già hóa dân số diễn ra rất nhanh
Việt Nam được hưởng lợi từ “lợi tức nhân khẩu học” trong những thập niên gần đây, nhưng lợi thế này đang mất dần và
ngày càng trở nên thách thức do tỷ lệ sinh đang giảm, tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, điều này rất dễ dẫn tới
“già trước khi giàu”. Nếu năm 1979, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi ở Việt Nam là 41,7 % và người cao tuổi chỉ có 7 % thì đến
năm 2006, các tỷ lệ tương ứng là 26,3 % và 9,2 %. Theo dự báo, đến năm 2024 có 12.811,4 nghìn người cao tuổi, chiếm tỷ
lệ 13 % trong tổng dân số, vượt tiêu chuẩn xã hội già hóa (Nguyễn Đình Cử, 2018). và dự báo năm 2035, tỷ lệ người cao
tuổi trên tổng dân số sẽ tăng lên đến 20 % (Hà Anh, 2019). Giai đoạn từ 1979 đến năm 2009, tỷ lệ người cao tuổi tăng
trung bình 0,06 %/năm. Thế nhưng, từ 1/4/2009 - 1/4/2010, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã tăng từ 8,67 % lên 9,4 %, tỷ lệ
người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 6,4 % lên 6,8 % (Hà Anh, 2013). Con số này cho thấy, chỉ trong một năm tỷ lệ người cao
tuổi đã tăng hơn gấp 10 lần so với cả giai đoạn trước đây. Tổng điều tra dân số năm 2019 có khoảng 96,2 triệu người,
trong đó có 11,3 triệu người cao tuổi (người từ đủ 90 tuổi trở lên khoảng 350.000 người, từ đủ 80 tuổi trở lên 1,8 triệu

84 NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
người). Tuổi thọ bình quân của Việt Nam hiện nay là 74 tuổi, tuy nhiên số người cao tuổi sống thật sự khỏe mạnh rất ít và
hiện có đến 70 % sống ở nông thôn, vùng khó khăn và hầu hết họ vẫn tham gia các hoạt động tạo ra thu nhập cho gia đình.
Bảng 2: Dự báo dân số Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2035
(Nguồn: https://danso.org)
Năm
Dân số
% thay đổi
Thay đổi
Tuổi trung bình
Tỷ lệ sinh
2020
98156617
0.99
941803
33
1.95
2025
102092604
0.79
787197
35
1.94
2030
105220343
0.61
625548
37
1.93
2035
107772569
0.48
510445
39
1.93
Số liệu trên cho thấy, mặc dù hằng năm lao động tăng thêm khoảng 1 triệu người, tuy nhiên sự già hóa dân số của Việt
Nam đang diễn ra rất nhanh. Điều này đồng nghĩa với số lượng nguồn nhân lực sẽ giảm, và đang trở thành khó khăn để
phát triển kinh tế - xã hội. Lực lượng lao động mới không đủ thay thế số lao động nghỉ hưu hàng năm, doanh nghiệp khó
tuyển được lao động. Ngoài ra, tỷ lệ sinh dưới ngưỡng trung bình còn tạo áp lực lên những người trong độ tuổi lao động,
bởi họ là những người có trách nhiệm chăm sóc cho nhóm dân số cao tuổi trong tương lai, và song song đó, nó còn ảnh
hưởng tiêu cực lên mức tiêu dùng của một quốc gia khi quy mô dân số ngày càng giảm.
2. Chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế
Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ “dân số vàng” với nguồn cung lao động ổn định, song, chất lượng nguồn nhân lực vẫn
còn nhiều hạn chế:
Một là, tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo còn thấp, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành
nghề thiếu nhiều so với nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Số lao động có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết lý
thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp. Số lao
động được đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới có 23,67 %. Đặc biệt, cơ cấu lao động theo các cấp trình độ đào tạo còn bất
hợp lý: tỷ lệ lao động có bằng đại học trở lên cao hơn nhiều so với tỷ lệ lao động có bằng cao đẳng, bằng trung cấp và sơ
cấp nghề. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên trong tổng lực lượng lao động là 9,1 %; cao đẳng là 3,2 %; trung cấp là
5,4 %; và sơ cấp nghề là 3,5 % (ILO và ILSSA, 2018). Tỷ lệ người làm các công việc giản đơn còn cao trong bối cảnh đào
tạo chuyên môn kỹ thuật (từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên) cho người lao động còn thấp (khoảng 22,5 % đối với lực lượng
lao động và 22,2 % đối với lao động có việc làm) (Tổng cục Thống kê, 2019).
Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lại khá thấp so với các nước trong khu vực.
Việc hơn 70 % nhân lực không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đây là hạn chế lớn và thực sự là rào cản trong cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Ngân hàng Thế giới đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm, xếp thứ
11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng (Thái Lan đạt 4,94 điểm, còn Malaysia 5,59 điểm; chỉ số Kinh tế Tri thức (KEI) đạt
3,02 điểm, xếp thứ 102/133 quốc gia được phân loại) (Giang Nam, 2018).
Với lao động kỹ năng, tay nghề còn yếu nên năng suất lao động thấp là điều không tránh khỏi. Mặc dù năng suất lao động
đã được cải thiện nhiều trong những năm gần đây, góp phần tăng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhưng
mức tăng năng suất lao động Việt Nam còn thấp. Năng suất lao động của Việt Nam năm 2017 là 4.019 USD, so với Thái
Lan 11.633 USD, thấp hơn 3 lần (bằng 34 % tức là 1/3); năng suất của Malaysia gấp 5 lần; năng suất Hàn Quốc gấp 14
lần; Nhật Bản gấp 18 lần và Singapore gấp 25 lần (LTS, 2018). Nếu tính theo sức mua tương đương, năng suất lao động
của Việt Nam năm 2017 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7 % của Singapore; 17,6 % của Malaysia; 36,5 % của Thái Lan; 42,3 %
của Indonesia; 56,7 % của Philippines và bằng 87,4 % năng suất lao động của Lào.
Hai là, sự không phù hợp giữa bằng cấp đạt được và nghề nghiệp trong thực tiễn của người lao động có xu hướng ngày
càng rộng hơn, đặc biệt là ở nhóm có trình độ từ đại học trở lên. Khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của
thị trường lao động ngày càng lớn. Đồng thời, sự chuyển dịch mô hình, cơ cấu kinh tế khiến cho cung và cầu lao động thay
đổi, trong khi các ngành đào tạo trong nhà trường chưa bắt kịp được xu thế sử dụng lao động của doanh nghiệp. Năm
2012, có 15,43 % lao động có bằng đại học trở lên làm nghề chuyên môn kỹ thuật bậc trung trở xuống; quý 2 năm 2017 tỷ
lệ này tăng lên 22,15 %(ILO và ILSSA, 2018).
Ba là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, kỷ luật lao động chưa đáp ứng được yêu cầu
đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Lao động đa số xuất thân từ nông thôn nên bị ảnh hưởng lớn bởi tác phong sản
xuất nông nghiệp: tùy tiện về giờ giấc và hành vi, chưa có kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng hợp tác và gánh chịu rủi
ro thấp, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc... Thêm vào đó là tình trạng thể lực ở mức trung bình
kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu
trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.

Mai Phú Hợp 85
Bốn là, nguồn nhân lực Việt Nam thiếu nhiều kỹ năng trước yêu cầu của doanh nghiệp. Theo các chuyên gia phân tích, xét
về mặt kỹ thuật, lao động đã qua đào tạo có thể đáp ứng được những yêu cầu của thị trường lao động. Song các kỹ năng
mềm như làm việc nhóm, ngoại ngữ, tư duy phản biện, sáng tạo, tuân thủ công nghệ… Do đó, lao động Việt Nam đang
được đánh giá là thua kém so với lao động các nước trong khu vực ASEAN như trên. Tại Tọa đàm “Gắn kết đào tạo,
nghiên cứu với nhu cầu của doanh nghiệp”, diễn ra ngày 12/10/2019 tại Hà Nội, cho thấy các nhà tuyển dụng không hài
lòng về thái độ, ý thức và cách làm việc của sinh viên mới ra trường, cũng như chê sinh viên thiếu kỹ năng mềm như
không biết viết email, công văn và ngoại ngữ chưa tốt (Dương Tâm, 2019).
Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2018 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) năm 2018 chỉ ra rằng, sự
thiếu hụt kỹ năng lao động nổi lên như một rào cản đối với việc thu hút FDI, và đối với hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Khảo sát lao động của Ngân hàng Thế giới cho thấy, việc tìm được ứng cử viên cho các vị trí việc làm đòi hỏi tay nghề cao
là một thách thức lớn cho hầu hết các doanh nghiệp, khoảng 70 - 80 % ứng viên cho các vị trí quản lý và kỹ thuật không
đáp ứng yêu cầu (Bảo Anh, 2018). Với thực trạng như vậy, lợi thế về chi phí nhân công thấp đang dần mất đi sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các ngành chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt
Nam chỉ chiếm 9 % tổng số lao động trình độ cao, trong khi với các nước phát triển, tỷ lệ này lên đến 40 - 60 %. Báo cáo
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện và công bố
năm 2017 cho thấy, 55 % doanh nghiệp Việt khẳng định khó tìm kiếm nguồn lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của
công ty. Tương tự, 69 % doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng cho rằng họ gặp khó khăn trong việc tuyển dụng được cán
bộ kỹ thuật có tay nghề để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (Diệu Thiện, 2018). Đây là một thách thức
không nhỏ đối với nền công nghiệp Việt Nam nói riêng và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung khi tác động của khoa học
công nghệ ngày càng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động, như: Phần lớn lao động di
cư chỉ đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa bệnh... trình độ học vấn của lao động di
cư thấp và phần đông chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất - nơi sử dụng đến 30 % lao
động di cư không có dịch vụ hạ tầng xã hội (ký túc xá, nhà trẻ, nhà văn hóa, đào tạo nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…),
lao động di cư ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hậu quả là nguồn cung lao động
không có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của các vùng, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
3. Cơ cấu nguồn nhân lực phân bố còn c ư cân đối
Xét theo cơ cấu giới tính thì số lao động nam giới nhiều hơn nữ giới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ là 71,1 %,
thấp hơn 11,3 điểm phần trăm so với lực lượng lao động nam (82,4 %). Lý do chủ yếu là phụ nữ ít tham gia hoạt động
kinh tế hơn nam giới (để tham gia các công việc khác như nội trợ gia đình) và mức độ gia tăng thời gian đi học của nữ giới
nhanh hơn so với nam giới. Số năm đi học bình quân của dân số nữ từ 15 tuổi trở lên đã tăng từ 8,05 năm vào năm 2012 lên
8,55 năm vào năm 2016, tăng 0,5 năm; trong cùng thời kỳ này, số năm đi học bình quân của dân số nam từ 15 tuổi trở lên
tăng từ 8,8 năm lên 9,08 năm, tăng 0,28 năm (Tổng cục Thống kê, 2019).
Xét cơ cấu lao động theo lĩnh vực việc làm thì lao động giản đơn chiếm 35 % số lao động, tỷ lệ này là cao trong bối
cảnh đào tạo chuyên môn kỹ thuật (từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên) cho người lao động còn thấp (khoảng 22,5 % đối với
lực lượng lao động và 22,2 % đối với lao động có việc làm) (Tổng cục Thống kê, 2019). Tỷ lệ này chứng tỏ chất lượng
nguồn nhân lực và nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp, vì vậy nhu cầu để đầu tư và phát triển vào khu vực công nghiệp vẫn
còn khoảng trống lớn.
Xét cơ cấu lao động theo khu vực thì tỷ lệ lao động ở nông thôn cao hơn khoảng 10 % so với thành thị: trong 4 năm
(2016-2019), lao động khu vực thành thị chiếm 33 % - 34 %, lao động khu vực nông thôn chiếm khoảng 65 % - 66 % (xem
bảng 3), do lao động nông thôn chiếm tỷ lệ cao (gần 70 % lao động cả nước) (Tạp chí Tài chính Việt Nam, 2019)., thế
nhưng 80 % trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn đây là trở ngại lớn cho lao động nông thôn trong tìm kiếm việc
làm trước sự đô thị hóa và phát triển như hiện nay.
Bảng 3 Cơ cấu lao động Việt Nam theo giới tính và khu vực
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Năm
Lực lượng lao động trong
độ tuổi lao động của cả
nước (triệu người)
Lực lượng lao
động nam (triệu
người); tỷ lệ (%)
Lực lượng lao
động nữ (triệu
người); tỷ lệ (%)
Lao động khu vực
thành thị (triệu
người); tỷ lệ (%)
Lao động khu vực
nông thôn (triệu
người); tỷ lệ (%)
2016
47,5
25,73; 54,1
21,81; 45,9
15,89; 33,4
31,65; 66,6
2017
48,2
26,07; 54,1
22,12; 45,9
16,09; 33,4
32,1; 66,6
2018
49,0
26,8; 54,8
22,2; 45,2
16,5; 33,6
32,5; 66,4
2019
49,1
26,7; 54,4
22,4; 45,6
17,0; 34,7
32,1; 65,3