BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

LÊ NGUYÊN BẢO TRÂM

GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG

TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh- Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

LÊ NGUYÊN BẢO TRÂM

GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG

TẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH- NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ MỘNG TUYẾT

TP. Hồ Chí Minh- Năm 2013

-i-

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng

dẫn của TS. Trần Thị Mộng Tuyết. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận

văn là trung thực và chính xác.

-ii-

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các đồ thị

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG ............... 4

1.1. Vàng và vai trò của vàng ................................................................................... 4

1.1.1. Vàng ................................................................................................................. 4

1.1.2. Phân lọai vàng .................................................................................................. 4

1.1.2.1. Vàng tài sản tài chính (financial gold) ...................................................... 4

1.1.2.2. Vàng hàng hóa (commodity gold) ............................................................. 5

1.1.3. Công dụng của vàng trong đời sống kinh tế- xã hội........................................... 5

1.2. Thị trƣờng vàng ................................................................................................. 8

1.2.1. Kinh doanh vàng ............................................................................................... 8

1.2.1.1. Khái niệm ................................................................................................. 9

1.2.1.2. Một số hình thức kinh doanh vàng ............................................................ 9

1.2.2. Thị trường vàng .............................................................................................. 10

1.2.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 10

1.2.2.2. Phân loại thị trường vàng ........................................................................ 11

1.2.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến giá vàng ..................................................... 13

1.2.3.1. Cung-cầu vàng........................................................................................ 13

1.2.3.2. Sự biến động của giá Đô la Mỹ ............................................................... 14

1.2.3.3. Sự biến động của giá dầu ........................................................................ 14

1.2.3.4. Lạm phát ................................................................................................ 15

1.2.3.5. Tình hình kinh tế của các cường quốc Mỹ và Châu Âu ........................... 16

1.2.3.6. Chính sách tài khóa và tiền tệ của quốc gia trong điều hành vĩ mô .......... 16

1.2.3.7. Nhu cầu đầu tư và đầu cơ vàng ............................................................... 17

-iii-

1.2.3.8. Tình hình chính trị- xã hội ...................................................................... 17

1.2.4. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng thị trường vàng ............................................. 18

1.2.5. Ổn định thị trường vàng .................................................................................. 19

1.2.5.1. Sự cần thiết ổn định thị trường vàng ....................................................... 19

1.2.5.2. Các tiêu chí đánh giá sự ổn định thị trường vàng .................................... 19

1.3. Kinh nghiệm ổn định thị trƣờng vàng của một số nƣớc trên thế giới.......... . 23

1.3.1. Ấn Độ ............................................................................................................. 23

1.3.2. Trung Quốc .................................................................................................... 26

Kết luận chƣơng 1 .................................................................................................. 29

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG TẠI VIỆT

NAM ........................................................................................................................ 30

2.1. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng trên thế giới và Việt Nam ................... 30

2.1.1. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng trên thế giới ........................................... 30

2.1.2. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng tại Việt Nam .......................................... 37

2.2. Biến động giá vàng trên thế giới và Việt Nam những năm gần đây .............. 41

2.2.1. Biến động giá vàng trên thị trường thế giới từ năm 2008 đến nay ................... 41

2.2.2. Biến động giá vàng trên thị trường Việt Nam từ năm 2008 đến nay ................ 47

2.2.2.1. Đơn vị đo lường và cách quy đổi giá vàng thế giới và trong nước ........... 47

2.2.2.2. Phân tích biến động giá vàng và diễn biến thị trường vàng từ năm 2008

đến nay ..................................................................................................................... 48

2.3. Đánh giá thực trạng ổn định thị trƣờng vàng Việt Nam hiện nay ................ 57

2.3.1. Tích cực .......................................................................................................... 57

2.3.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội ........................................................................ 57

2.3.1.2. Các yếu tố liên quan đến Chính phủ- luật pháp ....................................... 57

2.3.1.3. Vấn đề cân bằng cung- cầu trên TTV, ổn định giá vàng .......................... 58

2.3.1.4. Các yếu tố khác ...................................................................................... 59

2.3.2. Hạn chế........................................................................................................... 59

2.3.2.1. Tình hình kinh tế- xã hội ........................................................................ 59

2.3.2.2. Các yếu tố liên quan đến Chính phủ- luật pháp ....................................... 60

-iv-

 Chính sách quản lý thiếu ổn định .............................................................. 60

 Những quy định bất cập tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP ............................ 63

 Mâu thuẫn trong điều hành thị trường vàng với Nghị quyết Quốc hội về

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 .......................................................... 68

 Mức giá đấu thấu vàng miếng chưa hợp lý ............................................... 69

 Vấn đề huy động vàng trong dân chưa có hướng giải quyết ...................... 70

 Vàng Việt Nam chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế .................................... 71

2.3.2.3. Vấn đề cân bằng cung- cầu trên TTV, ổn định giá vàng .......................... 71

 Khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn còn lớn71

 Tình trạng nhập lậu, đầu cơ vàng khá phổ biến ......................................... 74

 Tác động qua lại giữa vàng và tỷ giá, lạm phát ......................................... 75

2.3.2.4. Các yếu tố khác ...................................................................................... 76

Kết luận chƣơng 2 .................................................................................................. 76

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG TẠI VIỆT NAM . 77

3.1.Định hƣớng thị trƣờng vàng ............................................................................ 77

3.2. Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý ........................................................ 80

3.2.1. Hoàn thiện chính sách pháp lý ........................................................................ 80

3.2.2. Chính sách tài chính và tiền tệ phù hợp ........................................................... 83

3.2.3. Dự trữ vàng hợp lý .......................................................................................... 84

3.2.4. Kinh doanh vàng theo tiêu chuẩn quốc tế ........................................................ 85

3.2.5. Chính sách xuất nhập khẩu vàng ..................................................................... 86

3.2.6. Có chính sách huy động vàng trong dân .......................................................... 88

3.2.7. Thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia ............................................................ 89

3.2.8. Hình thành và phát triển quỹ đầu tư vàng ........................................................ 92

3.2.9. Phát triển kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài ..................................... 92

3.2.10. Hỗ trợ, tạo điều kiện để ngành kim hoàn Việt Nam tham gia thị trường thế

giới ........................................................................................................................... 93

3.2.11. Ổn định tâm lý thị trường .............................................................................. 93

3.3. Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh vàng ............................................. 95

-v-

3.3.1. Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, hòan thiện hệ thống truyền tin .......... 95

3.3.2. Phát triển, hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ mới theo hướng phát triển hội

nhập ......................................................................................................................... 95

3.3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ nhân viên ................................... 96

3.3.4. Xây dựng chính sách tiếp thị, chăm sóc khách hàng hiệu quả ......................... 96

Kết luận chƣơng 3 .................................................................................................. 96

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 97

Danh mục các tài liệu tham khảo

Phụ lục

-vi-

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ đầy đủ

Cục dự trữ liên bang Mỹ ( Federal Reserve System) FED

Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product) GDP

Quỹ đầu tư vàng (Gold Exchange Traded Funds) GETFs

Qũy tiền tệ thế giới (International Monetary Fund) IMF

Kinh doanh vàng KDV

Hiệp hội thị trường vàng Luân Đôn (London Bullion LBMA

Market Association)

NĐT Nhà đầu tư

Nghị định 24 Nghị định 24/2012/NĐ-CP

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN

Ngân hàng thương mại NHTM

Ngân hàng trung ương NHTW

Giao dịch trao tay (không qua sàn) (Over-the-counter) OTC

Ngân hàng nhân dân Trung Quốc PBOC

Ngân hàng trung ương Ấn Độ RBI

Công ty TNHH MTV Vàng Bạc Đá Quý Sài Gòn (Saigon SJC

Jewelry Company Limited)

Tổ chức tín dụng TCTD

Thị trường bất động sản TTBĐS

Thị trường chứng khoán TTCK

Thị trường vàng TTV

Thị trường tài chính TTTC

Hội đồng vàng thế giới (World Gold Council) WGC

-vii-

DANH MỤC CÁC BẢNG

1. Bảng 2.1: 10 quốc gia khai thác vàng lớn nhất thế giới năm 2011

2. Bảng 2.2: 10 quốc gia tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới năm 2011

3. Bảng 2.3: 10 quốc gia có lượng dự trữ vàng lớn nhất thế giới tính đến

tháng 3/2013

4. Bảng 2.4: Giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam (giá bán) từ 28/5/13

đến 5/8/13

-viii-

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

1. Đồ thị 1.1: Biến động giá vàng Ấn Độ và giá vàng thế giới

2. Đồ thị 1.2: Biến động giá vàng Trung Quốc và giá vàng thế giới

3. Đồ thị 2.1: Tình hình cung vàng khai thác trên thế giới từ năm 2007, dự

báo đến năm 2013

4. Đồ thị 2.2: Nguồn cung vàng trung bình 5 năm 2008-2012

5. Đồ thị 2.3: Nhu cầu vàng thế giới từ năm 2003-2012

6. Đồ thị 2.4: Nhu cầu vàng thế giới trung bình giai đoạn 2008-2011 theo

quốc gia

7. Đồ thị 2.5: Nhu cầu vàng thế giới năm 2012 và trung bình năm 2008-

2012

8. Đồ thị 2.6: Cầu vàng Việt Nam giai đoạn 2008-2011

9. Đồ thị 2.7: Biến động giá vàng thế giới từ tháng 8/2003 đến nay

10. Đồ thị 2.8: Biến động giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam từ năm

2008 đến nay

11. Đồ thị 2.9: Tốc độ tăng giá vàng tại Việt Nam qua các năm 2002-2012

12. Đồ thị 2.10: Chỉ số Vnindex và khối lượng giao dịch từ 2008 đến 2012

-1-

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vàng là hàng hóa và tài sản đặc biệt, cầu vàng dễ biến động, kéo theo sự bất

ổn TTV, đặc biệt khi các nền kinh tế quốc gia và thế giới trong tình trạng bất ổn vĩ

mô. TTV ảnh hưởng đến sự ổn định vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế, chính trị và đời

sống xã hội của người dân, đặc biệt là hoạt động KDV. Hơn nữa, người dân Việt

Nam đang tích trữ lượng vàng khá lớn, nếu không có những kênh đầu tư hấp dẫn thì

lượng vốn tồn trữ này trở nên lãng phí, trong khi nền kinh tế nước ta đang cần vốn

đầu tư trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. TTV Việt Nam lại

đang có phần tách biệt với TTV thế giới, không phù hợp với xu thế hội nhập toàn

cầu. Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động KDV và khoảng cách chênh

lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn đang là vấn đề nóng nhận được

những luồng ý kiến trái chiều từ dư luận, về năng lực điều hành, quản lý của các cơ

quan nhà nước. Nhận thức được vấn đề khoa học quan trọng này, với mong muốn đi

sâu tìm hiểu, nghiên cứu những phương hướng, giải pháp ổn định và phát triển TTV

tại Việt Nam, tác giả quyết định chọn đề tài: "GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THỊ

TRƢỜNG VÀNG TẠI VIỆT NAM” cho nội dung luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tổng quan các nghiên cứu trƣớc:

Trong những năm gần đây, trước những biến động lớn về giá vàng cũng như

TTV trong nước và thế giới trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ở Việt

Nam đã có nhiều bài viết và nghiên cứu về vàng và TTV dưới nhiều góc độ khác

nhau. Có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như:

 Nguyễn Hữu Định (1996), Kinh doanh vàng tại TP. HCM: Chính sách và

giải pháp, Luận văn Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế TP. HCM.

 Đặng Thị Tường Vân, (2008), Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng

tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.

 Nguyễn Vân Anh (2009), Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh

doanh vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa học

cấp ngành- NHNN Việt Nam.

-2-

 Lê Hoàng Nga và Hoàng Phương Linh (2011), “Quản lý thị trường vàng ở

Việt Nam”, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

 Nguyễn Thị Thanh Hương (2011), “Quản lý hoạt động kinh doanh vàng

bằng các giải pháp đồng bộ”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

 Phạm Huy Hùng (2011), “Thị trường vàng Việt Nam: Những bất cập và

yêu cầu cải cách”, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế- xã hội, chính sách pháp luật tại thời điểm

nghiên cứu và hiện nay có nhiều đổi khác, một số kiến nghị tác giả đề cập đã được

thực hiện hoặc không còn phù hợp, do đó cần có nghiên cứu mới nhằm đưa ra giải

pháp ổn định TTV trong bối cảnh hiện nay.

3. Mục tiêu nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu để hướng đến ba mục tiêu cốt lõi:

 Hệ thống lại những quan điểm, lý luận về vàng và TTV, cùng với việc đúc

kết kinh nghiệm quản lý TTV của các nước có nền văn hóa và tập quán sử dụng

vàng tương tự Việt Nam.

 Phân tích thực trạng TTV tại Việt Nam và đánh giá những mặt tích cực và

những mặt còn hạn chế của TTV Việt Nam.

 Đề xuất các giải pháp nhằm ổn định TTV tại Việt Nam trong xu hướng hội

nhập với thế giới, không còn các cơn biến động giá vàng gây bất ổn xã hội, gây ra

các hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế- xã hội, giảm áp lực lên TTV vật chất, sử dụng

hiệu quả nguồn lực vàng trong dân.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: TTV tại Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung đến thị trường vàng miếng, thời gian

nghiên cứu từ năm 2008 đến đầu tháng 8/2013, khoảng thời gian mà thị trường

trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: thống kê, so sánh đối chiếu,

tổng hợp, phân tích... Thông tin được tham khảo từ các bài tổng kết và phân tích

-3-

trên báo, trên các trang web tài chính trong và ngoài nước, các văn bản pháp luật

của Nhà nước và các luận văn trước.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, kết cấu đề tài bao gồm ba chương:

 Chương 1: Cơ sở lý luận về ổn định thị trường vàng.

 Chương 2: Thực trạng ổn định thị trường vàng tại Việt Nam.

 Chương 3: Giải pháp ổn định thị trường vàng tại Việt Nam.

-4-

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG

1.1. Vàng và vai trò của vàng:

1.1.1. Vàng:

Theo đĩnh nghĩa của Wikipedia, vàng là tên nguyên tố hoá học có kí hiệu Au

(tên Latinh là Aurum) và số nguyên tử 79 trong bảng tuần hoàn. Là kim loại chuyển

tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng

không phản ứng với hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường

toan (aqua regia) để tạo thành axít cloroauric cũng như chịu tác động của dung dịch

xyanua của các kim loại kiềm. Kim loại này có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và

trong các mỏ bồi tích và là một trong số kim loại đúc tiền.

Vàng là một tài sản đặc biệt, vừa là một loại hàng hóa, vừa là tài sản tài

chính. Vàng là kim loại quý được đánh giá cao trong hàng ngàn năm qua với các

tính năng dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, tính bền vững và có khả năng chống ăn mòn, mềm

dẻo và dễ chia nhỏ, dễ nhận biết và có tính đồng nhất cao; vàng là hàng hóa tiền tệ

trong hơn 6.000 năm với đỉnh cao là chế độ bản vị vàng trước khi hệ thống Bretton

Woods sụp đổ năm 1971.

1.1.2. Phân lọai vàng: để phục vụ cho việc quản lý, IMF chia vàng ra làm 2

loại: vàng tài sản tài chính và vàng hàng hóa.

1.1.2.1. Vàng tài sản tài chính (financial gold) là vàng được sử dụng như tài

sản tài chính bao gồm vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ.

 Vàng tiền tệ (monetary gold) là vàng được nắm giữ bởi các cơ quan quản

lý tiền tệ như một phần của dự trữ chính thức quốc gia, các tổ chức quốc tế như

IMF, BIS. Giao dịch vàng tiền tệ là giao dịch trực tiếp giữa các cơ quan quản lý tiền

tệ hoặc giữa các cơ quan quản lý tiền tệ với các tổ chức quốc tế như IMF, BIS, được

ghi nhận là giao dịch tài khoản vốn trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).

 Vàng phi tiền tệ (non- monetary gold) là vàng được nắm giữ bởi các tổ

chức tài chính trung gian, các nhà KDV cho mục đích kinh doanh, đầu tư. Doanh số

bán vàng tiền tệ chuyển sang vàng phi tiền tệ được phân biệt rõ: làm thay đổi phân

loại vàng của cơ quan quản lý tiền tệ thể hiện bằng sự thay đổi số tiền trên bảng cân

-5-

đối kế toán và số tiền trên tài khoản vốn của cơ quan quản lý tiền tệ hoặc giá trị

hàng hóa xuất khẩu nếu người mua là người không cư trú (hoặc giá trị hàng hóa

nhập khẩu nếu người mua là người không cư trú).

1.1.2.2. Vàng hàng hóa (commodity gold) là vàng được nắm giữ phục vụ

cho mục đích sản xuất (trang sức, công nghệ), tồn kho hoặc cất trữ giá trị.

Trong nhiều trường hợp với cách phân loại đơn giản hơn thì vàng hàng hóa

và vàng phi tiền tệ được gom chung vào một nhóm, gọi là vàng phi tiền tệ, được

hiểu là tất cả vàng không được nắm giữ bởi cơ quan quản lý tiền tệ như phần dự trữ

chính thức của quốc gia. IMF cho rằng vàng phi tiền tệ phải được đối xử như bất kỳ

hàng hóa nào khác trong nền kinh tế, trong đó vàng phi tiền tệ cũng có thể thực hiện

quản lý tương tự như việc quản lý các tài sản tài chính khác.

1.1.3. Công dụng của vàng trong đời sống kinh tế- xã hội:

 Vàng được dùng làm tài sản tiết kiệm truyền thống phổ biến, đặc biệt ở

nước Á Đông. Vàng không có đối thủ trong việc làm tài sản bảo tồn giá trị sau

cùng, vì có lợi thế tâm lý xuất phát từ việc sử dụng nó cho mục đích này bao trùm

nhiều thế kỷ qua.

 Vàng được sử dụng làm trang sức, là đầu vào sản xuất công nghiệp, sử

dụng trong công nghiệp vũ trụ, sản xuất vũ khí... Với tính năng dẫn điện tốt, cho

phép chuyển tải dữ liệu nhanh và chính xác giữa thiết bị kỹ thuật số, vàng được

dùng sản xuất mạch tích hợp, vi xử lý, đồng hồ, thiết bị bán dẫn, thông tin liên lạc…

Do dễ dát mỏng và linh họat, vàng được sử dụng trong xây dựng nhiều tòa nhà trên

khắp thế giới.

 Vàng được sử dụng trong nha khoa, y tế, như chữa viêm khớp, ung thư,

bệnh ở mắt, làm dụng cụ phẩu thuật, thiết bị trợ giúp... Do có tính sát khuẩn cao,

vàng được chọn làm vật liệu trong cấy ghép tránh nguy cơ nhiễm trùng.

 Vàng được ứng dụng trong bảo vệ môi trường. Chất xúc tác vàng có thể

làm sạch quá trình hóa học quan trọng để sản xuất dược phẩm, chất tẩy rửa và phụ

gia thực phẩm, kiểm soát ô nhiễm (khí thải thủy ngân) và các tế bào nhiên liệu, phát

-6-

hiện các loại khí trong các quá trình công nghiệp và là chất xúc tác trong các quá

trình hóa dầu.

 Vai trò tiền tệ: đây là chức năng đặc biệt của vàng. Không giống những

đồng tiền trên thị trường gắn liền và được kiểm soát bởi chính phủ và nền kinh tế

nước đó, vàng mang tính chất của công cụ trao đổi nhưng không chịu kiểm soát hay

ảnh hưởng bởi nền kinh tế cụ thể nào. Trong lịch sử, vàng là hàng hóa tiền tệ trong

hơn 6.000 năm với đỉnh cao là chế độ bản vị vàng trước khi sụp đổ năm 1971, khi

Mỹ bỏ chế độ chuyển đổi USD ra vàng. Khi đó, giá trị đồng tiền được xác định qua

sức mua hàng hóa của tiền tệ, không phụ thuộc vào khối lượng vàng nhà nước sở

hữu, nhưng vai trò tiền tệ của vàng không hoàn toàn mất đi, đặc biệt là chức năng

cất trữ giá trị và tiền tệ quốc tế. Vai trò tiền tệ của vàng được xem là sản phẩm của

quá trình tiến hóa tự nhiên, là sản phẩm của nền kinh tế thị trường chân chính, là

tiền tệ thực đáng tin cậy của loài người. Hầu như quốc gia nào cũng dự trữ vàng

trong dự trữ ngoại hối của mình. Dù có thời kỳ các nước phát triển xem nhẹ vai trò

tiền tệ của vàng vì động cơ khống chế tiền tệ thế giới thì đến nay, chưa bao giờ họ

xa rời được vàng. Trong lịch sử tiền tệ thế giới, vàng được coi là một loại tiền tệ đặc

biệt hội đủ 5 chức năng của đồng tiền: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,

phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ quốc tế. Vàng khác với các tài

sản khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh khỏan cao và phản ứng với

những thay đổi giá (Lawrence, 2003). Hơn nữa, không giống hàng hóa khác, vàng

được sản xuất để tích lũy, tất cả số vàng từng được khai thác vẫn còn tồn tại đến nay

(Ranson và Wainwright, 2005).

 Vàng giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư, bổ sung vào những tài sản

truyền thống như cổ phiếu, trái phiếu, hạn chế những rủi ro, tăng khả năng sinh lời.

Sherman (1986), Jaffe (1989), Chua và cộng sự đã chứng minh rằng vàng cung cấp

lợi ích cho việc đa dạng hóa. Danh mục đầu tư có vàng sẽ ổn định hơn so với các

danh mục đầu tư khác. Vàng là một tài sản tài chính có giá trị thực ít biến động hơn

các loại tài sản tài chính khác. Được xem là tài sản tài chính an toàn nhất, vàng sẽ

đảm bảo về giá trị trong trường hợp thị trường biến động dẫn đến rủi ro mất giá của

-7-

các tài sản tài chính. Trong tất cả các loại hàng hóa chỉ có vàng mang thuộc tính của

tiền tệ, tính đồng nhất, khó làm giả, dễ vận chuyển và trở thành công cụ bảo toàn

giá trị để các NĐT “tránh bão” khi khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế, bất

ổn do thiên tai, chiến tranh…

 Vàng là công cụ phòng chống lạm phát. Khi chế độ bản vị vàng sụp đổ,

các nước trên thế giới sử dụng chế độ tiền giấy thì lạm phát luôn tiềm ẩn. Trong

thực tế, vàng thường được phân tích với vai trò hàng hóa, nhưng không giống hàng

hóa thông thường khác, vàng có sự khác biệt lịch sử, đã và đang được sử dụng để

bảo tồn giá trị, là nơi trú ẩn chống lạm phát. Nếu xem vàng là tài sản tài chính, vàng

có thể được kỳ vọng là nhân tố dự báo hàng đầu cho lạm phát. Giá vàng đem lại

thông tin đáng kể cho việc dự báo lạm phát, đặc biệt đối với các nước áp dụng chính

sách lạm phát mục tiêu chính thức. Khi lạm phát xảy ra, tiền tệ mất giá liên tục, giá

trị các đồng tiền có thể thay đổi theo diễn biến chính trị, giữ tài sản sẽ có lợi hơn giữ

tiền, nói cách khác, hàng hóa là công cụ phòng ngừa rủi ro lạm phát. Trong đó, vàng

là hàng hóa đặc biệt, luôn duy trì được giá trị trao đổi cao trên thị trường, tính thanh

khoản mạnh. Tất cả những yếu tố này đã biến vàng thành công cụ chống lạm phát

hiệu quả. Alan Greenspan, cựu giám đốc FED, đã chỉ ra: ”Trong tình huống không

có bản vị vàng, sẽ không có bất kì biện pháp nào bảo hộ sự tích lũy của dân chúng

khỏi sự thống sóai của lạm phát. Điều này có nghĩa, tài sản của dân chúng sẽ không

có nơi cất giữ an toàn. Nói cách khác, bội chi ngân sách là âm mưu tước đoạt tài

sản, và vàng đã chặn đứng quá trình nguy hiểm này, đóng vai trò bảo hộ tài sản của

dân chúng”. Hội đồng vàng thế giới (WGC) tuyên bố vàng tương quan tỷ lệ nghịch

với USD và do đó là tiền tệ trú ẩn chống lạm phát tốt, nếu những thay đổi trong lợi

nhuận trên đầu tư vàng có thể bù đắp được những thay đổi trong mức giá chung của

một quốc gia cụ thể. Ariovich (1983), Aggarwal và cộng sự (1992), Dooley và cộng

sự (1995) cũng chỉ ra vàng là hàng rào hiệu quả chống lạm phát, tình trạng bất ổn

chính trị và rủi ro tiền tệ. Nghiên cứu của Harmston (1998) cũng khẳng định vàng là

nơi trú ẩn hiệu quả chống lại lạm phát lâu dài.

-8-

 Vàng giữ vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại hối quốc gia, dù không

còn là trung tâm của hệ thống tài chính thế giới. Dù bị tước đi khả năng làm đơn vị

tiền tệ, vàng vẫn hấp dẫn mọi quốc gia. Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên

thế giới tăng cường giữ vàng trong danh mục đầu tư của mình để bảo tòan vốn hoặc

đầu cơ tích trữ. Để đối phó tình trạng mất ổn định trong giá trị các đồng tiền và suy

thoái kinh tế, các NHTW đều muốn dự trữ vàng trong danh mục dự trữ, và có xu

hướng tăng để tránh nguy cơ giảm giá trị do lạm phát và phá giá tiền tệ, bảo đảm hỗ

trợ cán cân thanh toán quốc tế và đối phó với khủng hoảng hay các sự cố như thiên

tai, hỏa hoạn, chiến tranh… Vàng trở thành kênh huy động và luân chuyển vốn liên

thông giữa các TTTC (tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, chứng khoán), là công cụ thực hiện

mục tiêu khống chế tiền tệ, nâng cao uy tín và tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế.

Các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc và tác động lẫn nhau thì rủi ro bất ổn vĩ mô

càng cao, do chính sách kinh tế các nước thay đổi, hoặc bản thân kinh tế trong nước

bất ổn, hoặc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lan rộng, lạm phát tăng cao thì vàng vẫn

đảm bảo được giá trị nguyên bản, vẫn là công cụ có thể kích thích mọi hoạt động

của nền kinh tế. Vàng cũng mang đến sự đa dạng cần thiết trong danh mục đầu tư

tại NHTW. Mức dự trữ đỉnh cao được xác định vào năm 1960 với khối lượng

38.000 tấn, chiếm khoảng 50% số vàng tồn kho trên mặt đất lúc đó. NHTW và các

tổ chức đa quốc gia (như IMF) hiện giữ khoảng 1/5 tổng lượng vàng dự trữ toàn

cầu. Tính trung bình, vàng chiếm khoảng 15% tài sản dự trữ của các chính phủ. Các

nước phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ giữ khoảng hơn 40% tổng dự trữ toàn cầu. Các

nước đang phát triển nắm giữ khoảng 5% tổng dự trữ. Tổng dự trữ vàng thế giới

tính đến tháng 3/2013 là 31.671,4 tấn. Trong đó, Mỹ có lượng dự trữ vàng lớn nhất,

với số lượng chính thức là 8.133,5 tấn vàng, tỷ lệ dự trữ ngoại hối bằng vàng chiếm

75,6%; gấp hơn 2 lần nước đứng vị trí thứ hai là Đức (3.391,3 tấn).

1.2. Thị trƣờng vàng (TTV):

1.2.1. Kinh doanh vàng (KDV):

-9-

1.2.1.1. Khái niệm: KDV là hoạt động sử dụng các yếu tố sản xuất nhằm sản

xuất, gia công các sản phẩm bằng vàng; mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu vàng. Vàng

là hàng hóa đặc biệt, KDV vừa là kinh doanh hàng hóa, vừa là kinh doanh tiền tệ.

Trên thế giới hiện nay chủ yếu thực hiện KDV tài khoản do đảm bảo tính

thanh khoản cao, đồng thời không thực hiện chuyển giao vàng vật chất trực tiếp làm

giảm chi phí vận chuyển cùng rủi ro phát sinh trong quá trình này.

1.2.1.2. Một số hình thức kinh doanh vàng:

 Giao dịch vàng giao ngay (Gold Spot): thực hiện theo giá tại thời điểm

giao dịch và kết thúc thanh toán, giao, nhận vàng trong vòng hai ngày làm việc tiếp

theo. Hình thức này có ưu điểm là rủi ro thấp.

 Giao dịch vàng kỳ hạn (Gold Forward): ngân hàng và khách hàng thỏa

thuận với nhau về giá và số lượng ngày hôm nay, thanh toán vào một thời điểm xác

định trong tương lai. Lợi ích là có thể cố định được giá trị các khoản thu, chi bằng

vàng trong tương lai nhằm bảo hiểm khỏi những tổn thất khi giá vàng biến động

mạnh, thu lợi nhuận dựa trên sự phán đoán về xu hướng biến động giá.

 Giao dịch hoán đổi vàng (Physical Gold Swap): là cam kết mua và bán tại

một mức giá xác định trước, trong đó việc mua và bán được tiến hành tại các thời

điểm khác nhau. Thực chất đây là một nghiệp vụ kép của: giao dịch giao ngay

(Spot) và giao dịch kỳ hạn (Forward) với cùng một lượng vàng nhưng theo hướng

ngược nhau.

 Giao dịch quyền chọn vàng (Gold Option): nói cách khác là Bảo hiểm rủi

ro biến động giá vàng- là hợp đồng giữa hai bên, theo đó người mua Option có

quyền, chứ không phải nghĩa vụ, mua hoặc bán số lượng vàng cụ thể với giá đã

được ấn định tại thời điểm giao dịch cho một khỏang thời gian xác định trong tương

lai sau khi đã chi trả cho người bán Option một khoản phí lúc ký hợp đồng. Người

bán Option có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo điều khỏan đã thỏa thuận, bất luận

giá vàng trên thị trường diễn biến thế nào, khi người mua Option muốn thực hiện

quyền của mình. Như vậy, rủi ro của người bán Option rất lớn, nếu không có khả

năng tài chính, năng lực phân tích và công cụ bảo hiểm rủi ro, trong khi người mua

-10-

Option không chịu rủi ro nào ngòai phí. Quyền chọn là dịch vụ bậc cao trên TTTC

quốc tế, cung ứng việc bảo hiểm giá đối với các lọai tài sản. Quyền chọn mua (Call

Option) và Quyền chọn bán (Put Option) là quyền được mua/ bán vàng tại giá thỏa

thuận trong khỏang thời gian xác định trong tương lai. Khách hàng có nhu cầu mua

vàng trong tương lai có thể mua Quyền chọn mua để bảo hiểm trường hợp giá vàng

tăng và ngược lại. Có hai kiểu quyền chọn :

 Quyền chọn kiểu Mỹ: Người mua quyền chọn có thể thực hiện quyền

chọn tại bất cứ thời điểm nào trong thời gian hiệu lực của hợp đồng.

 Quyền chọn Châu Âu: Người mua quyền chọn chỉ có thể thực hiện

quyền chọn vào ngày đáo hạn của hợp đồng.

Các nghiệp vụ trên sử dụng rất phổ biến trong lĩnh vực KDV ở các nước

cũng như trên thế giới, tương tự kinh doanh ngoại tệ. Phương thức kinh doanh kiểu

Option, Swap hoặc Forward giúp hạn chế rủi ro, góp phần ổn định TTV, đảm bảo

nguồn vàng đáp ứng nhu cầu chế biến của các công ty. Tuy nhiên, khối lượng giới

hạn khá lớn và phải mất phí, chỉ phù hợp với khách hàng có quy mô giao dịch lớn

hoặc là bảo hiểm rủi ro cho những giao dịch không chắc chắn cũng như tận dụng sự

biến động mạnh của thị trường để tìm kiếm lợi nhuận.

1.2.2. Thị trƣờng vàng:

1.2.2.1. Khái niệm: TTV là nơi có các quan hệ mua bán vàng và các dịch vụ

liên quan đến vàng giữa những người mua và người bán có quan hệ cạnh tranh với

nhau. TTV có vai trò quan trọng thực sự khác nhau ở các nền kinh tế vì vàng đảm

nhiệm vai trò vừa là hàng hóa thông thường, vừa là tài sản tiền tệ.

Về thành phần tham gia, người bán chủ yếu là các nước khai thác, sản xuất

vàng và các quỹ dự trữ vàng, người mua chủ yếu là các nhà sản xuất và kinh doanh

nữ trang, nhà tư bản công nghiệp, NĐT, người có nhu cầu tích trữ vàng và nhà đầu

cơ, trong một vài trường hợp có cả sự tham gia của các NHTW. Hầu hết TTV ở các

quốc gia đều hợp pháp, tuy nhiên một số nước, chính phủ cấm công dân giao dịch

vàng, sẽ tồn tại thị trường vàng chợ đen. Ở các TTV quốc tế, vàng được xuất và

nhập khẩu tự do. TTV Luân Đôn là một trong những thị trường lâu đời nhất trên thế

-11-

giới và là thị trường lớn nhất xét về khía cạnh giao dịch vàng vật chất, sau đó là

TTV New York, Zurich và Tokyo. Dù các thị trường giao dịch vàng vật chất ở khắp

nơi, nhưng hầu hết các giao dịch bán buôn OTC đều được thanh toán qua Luân

Đôn. Phần đông các thành viên của Hiệp hội TTV Luân Đôn (London Bullion

Market Association-LBMA) là những ngân hàng quốc tế, thương gia và những nhà

chế tạo vàng tầm cỡ. Hai lần một ngày, 10g30 sáng và 3g chiều, các thành viên

quan trọng nhất gặp nhau để xác định mức giá cho thị trường, gọi là chốt giá vàng.

Lần xác định đầu tiên theo phương pháp này vào ngày 12/9/1919 giữa 5 nhà giao

dịch vàng lớn nhất bấy giờ, ở mức 4,9375 GBP/troy oz. Ngày nay, giá vàng thường

đuợc ấn định bằng USD, GBP và EUR. Những TTV quan trọng khác trên thế giới

nằm ở Tokyo, Sydney, Hồng Kông, Thượng Hải, Singapore, Dubai và Zurich.

Trên TTV còn có sự tham gia tích cực của Quỹ đầu tư vàng– Gold Exchange

Traded Funds (GETFs). GETFs là loại hình đặc biệt của quỹ kinh doanh ngoại tệ

với mục tiêu là giá vàng, hoạt động như kinh doanh cổ phiếu chủ yếu trên các sàn

giao dịch Luân Đôn, Paris, New York. GETFs đầu tiên chính thức hoạt động vào

tháng 3/2003 trên TTCK Úc dưới dạng cổ phiếu thỏi vàng (Gold Bullion

Securities– GBS). GBS được đảm bảo bằng lượng vàng dự trữ, cung cấp công cụ tài

chính để các NĐT cá nhân có thể nắm giữ vàng và đạt lợi nhuận từ giá vàng không

cần phải giữ vàng vật chất. Phí hoạt động là 0,4% bao gồm: Phí quản lý, phí bảo

hiểm, phí lưu kho, trong đó phí lưu kho thay đổi theo năm và phí quản lý được cấp

thông qua giấy chứng nhận đại diện cho một khối lượng vàng nhỏ được bán đi. Trên

thị trường hiện nay, có một số GETFs tiêu biểu liên kết với nhau và đưa ra thị

trường những loại chứng khoán khác nhau, niêm yết dưới các tên: Gold Bullion

Securities, Lyxor Gold Bullion Securities, Street Tracks Gold Shares, New Gold

Issuer. Hoạt động tại các GETFs được bảo trợ bởi WGC.

1.2.2.2. Phân loại thị trường vàng:

 Dựa vào phạm vi địa lý:

 TTV nội địa: nơi tiến hành các giao dịch vàng trong phạm vi một quốc

gia, trên cơ sở tuân theo những quy định của luật pháp quốc gia đó.

-12-

 TTV toàn cầu: nơi giao dịch vàng giữa các thị trường lớn của các

nước trên thế giới. Luân Đôn và Zurich là hai TTV quốc tế chính, có mối quan hệ

liên thông nhau. Luân Đôn được coi là trung tâm giao dịch vàng của thế giới, chi

phối toàn bộ doanh số khai thác vàng của các quốc gia.

 Dựa vào hình thức giao dịch:

 TTV giao ngay: Người mua phải thanh toán trong 48 giờ. KDV giao

ngay chiếm tỷ trọng lớn, xảy ra giữa hai đối tác giao dịch trực tiếp với nhau, giao

dịch 24 giờ mỗi ngày. Việc định giá thị trường gồm các thành viên của LBMA. Các

trung tâm chính gồm Luân Đôn, New York và Zurich. Các công ty khai thác mỏ,

NHTW, doanh nghiệp sản xuất nữ trang đều có khuynh hướng hoạt động qua thị

trường này. Quy mô chuẩn của giao dịch từ 5.000 đến 10.000 ounces. Chênh lệch

giá mua và bán khoảng 0,5 USD/oz. Tính thanh khoản lớn nhất tại Luân Đôn và

New York. Quy trình thanh toán tương tự thị trường ngoại hối quốc tế, bằng thỏi

vàng (London Gold Delivery) và Đô la Mỹ thông qua tài khoản tại New York. Tiến

trình quyết toán là một hệ thống chuyển dịch chứng từ thông qua các tài khoản vàng

trung gian nhằm tránh rủi ro về an ninh và chi phí vận chuyển vàng vật chất.

TTV vật chất là TTV giao ngay, trung tâm mua dưới dạng vàng mặt, quá

trình thanh toán và giao hàng tại thời điểm giao dịch. Một số trung tâm giao dịch

vàng vật chất trên thế giới: Thị trường Hồng Kông (The Hong Kong Chinese Gold

and Silver Exchange Society) giao dịch từ năm 1918; Thị trường Istabul Thổ Nhĩ

Kỳ (Istanbul Gold Exchange) giao dịch từ ngày 26/7/1995; Thị trường Thượng Hải

(The Shanghai Gold Exchange – SGE) giao dịch từ ngày 30/10/2002.

 TTV tương lai: là một loại thị trường hàng hóa tương lai, người mua

và người bán ký kết hợp đồng ở một mức giá xác định, tại một ngày cụ thể trong

tương lai. TTV tương lai rất hấp dẫn các NĐT, là một trong những thị trường đầu tư

lớn trên thế giới, vừa giúp nhà sản xuất, nhà kinh doanh giảm thiếu rủi ro trước sự

biến động giá mạnh mẽ của thị trường, vừa giúp nhà đầu cơ tìm kiếm lợi nhuận.

Một số TTV tương lai tiêu biểu như: New York Mercantile Exchange (NYMEX)-

thị trường lớn nhất giao dịch các loại hợp đồng Futures và Option về kim loại quý,

-13-

bắt đầu hoạt động năm 1974; Chicago Board of Trade (CBOT) giao dịch từ năm

1974; Tokyo Commodity Exchange (TOCOM)- TTV tương lai lớn nhất Châu Á

giao dịch từ năm 1982; Multi Commodity Exchange of India (MCX) hoạt động từ

tháng 11/2003 và National Commodity and Derivative Exchange (NCDEX) từ

tháng 12/2003- hai TTV tương lai tại Ấn Độ; TTV tương lai Thượng Hải– Shanghai

Futures Exchanges (SHFE) giao dịch từ ngày 9/1/2008.

1.2.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hƣởng đến giá vàng:

Khi phân tích các nhân tố tác động đến TTV và giá vàng, cần đặt nó trong

mối quan hệ vừa là hàng hóa, vừa là tiền tệ. Sự biến động giá vàng không phụ thuộc

đơn thuần vào nhu cầu vật chất mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu tài chính.

1.2.3.1. Cung-cầu vàng: do vàng là một loại hàng hóa đặc biệt, mang các

thuộc tính của hàng hóa nên cũng chịu tác động của quy luật cung cầu trên thị

trường.

Mức cung vàng phụ thuộc chi phí khai thác, mở rộng hầm mỏ cũng như việc

phát hiện mỏ vàng mới; và giao dịch về vàng của các nước có dự trữ vàng mạnh

cùng sự tuần hòan trong các ngành công nghiệp có sử dụng vàng, việc tái chế các

nguồn vàng tồn kho trên mặt đất. Vàng được cung cấp chủ yếu từ những nước có

trữ lượng vàng lớn, sản lượng xuất khẩu lớn, có tầm ảnh hưởng đến TTV thế giới

như: Nam Phi, Trung Quốc, Mỹ… Những dấu hiệu tăng giá hình thành khi các

chuyên gia cho rằng sản lượng vàng đang thiếu hụt tại các mỏ, việc khai thác vàng

ngày càng hạn chế, các mỏ vàng mới có trữ lượng không đáng kể nhưng nhu cầu thế

giới gia tăng mạnh. Ngoài ra, chi phí khai thác vàng cũng là yếu tố quan trọng quyết

định giá thành của vàng, phụ thuộc độ sâu các loại hầm, hàm lượng vàng cũng như

thành phần hóa học của quặng. Bên cạnh đó, khi các quốc gia lớn tuyên bố bán

vàng dự trữ ra thị trường, lập tức giá vàng thế giới giảm xuống. Tiêu biểu là đợt bán

vàng của Chính phủ Anh và Thụy Sỹ năm 1999, khiến giá vàng thế giới giảm từ

280 USD/oz xuống 253,15 USD/oz, tương đương 10% giá vàng ban đầu.

Mức cầu vàng phụ thuộc khu vực kim hòan (chiếm từ ½ đến ¾ sản lượng

khai thác hầm mỏ hàng năm), các ngành công nghiệp có sử dụng vàng, mức cầu dự

-14-

trữ của các ngân hàng quốc gia, mức cầu đầu tư và đầu cơ; nói cách khác, mức cầu

vàng bao gồm: cầu vàng vật chất và cầu vàng tiền tệ. Theo thống kê của WGC, hơn

60% nhu cầu vàng trang sức tập trung ở bốn quốc gia và vùng lãnh thổ là Trung

Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông. Thông thường tháng 8 vào mùa lễ hội

tại Ấn Độ, nhu cầu nữ trang tăng đáng kể khiến lượng nhập khẩu tăng làm giá vàng

tăng theo. Đặc biệt, thời điểm USD mất giá mạnh, giá dầu tăng đột biến khiến các

quốc gia xuất khẩu dầu lớn trên thế giới tăng cường mua vàng để bảo toàn tài sản

thay thế cho dự trữ bằng USD; mức cầu vàng tại đây phụ thuộc rất lớn vào nguồn

thu nhập quan trọng là dầu hỏa.

1.2.3.2. Sự biến động của giá Đô la Mỹ: Vàng là một loại hàng hóa nên giá

vàng bị tác động bởi các đồng tiền mua nó mà chủ yếu là USD. Bất kỳ quyết định

nào ảnh hưởng đến việc thay đổi lãi suất của Mỹ do FED công bố đều tác động trực

tiếp và mạnh mẽ đến giá trị USD. Dù quyết định của FED với mục đích kích thích

hay kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế hay giải quyết các vấn đề khác thì

trong ngắn hạn hay tức thời cũng sẽ làm tăng hay giảm giá trị của đồng USD. Khi

giá trị của USD dao động, giá trị các loại hàng hóa được định giá bằng USD cũng

dao động. Thông thường, sự lên giá của USD so với đồng tiền mạnh khác sẽ đi đôi

với hiện tượng giảm giá vàng và ngược lại. Tuy nhiên, do cả vàng và USD đều chịu

tác động của rất nhiều yếu tố nên thời điểm và tỷ lệ biến động của hai thị trường này

không giống nhau.

1.2.3.3. Sự biến động của giá dầu: Vàng và dầu có mối quan hệ chặt chẽ về

giá, cùng được định giá bằng USD, cùng chịu ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị-

xã hội. Mối quan hệ của vàng và dầu có thể giải thích tốt nhất thông qua lạm phát.

Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, sự biến động giá dầu tác

động dây chuyền lên toàn bộ kinh tế thế giới. Khi giá dầu tăng cao tác động xấu đến

kinh tế, khiến giá cả hàng hóa sản xuất ra đắt đỏ, mức giá chung tăng, tác động làm

giá vàng tăng do vàng cũng là hàng hóa và do nhu cầu đầu tư tránh rủi ro. Dầu mỏ

tăng tất yếu dẫn đến hệ quả USD giảm giá trị và các nước càng có xu hướng nhập

vàng tích trữ, do đó nhu cầu vàng sẽ tăng kéo theo sự tăng giá vàng. Ngoài ra, về cơ

-15-

bản, vàng là một phần của kênh đầu tư dự trữ quốc tế của các nước, bao gồm các

quốc gia xuất khẩu dầu, lập luận rằng nếu có cú sốc dẫn tới mong đợi việc mua

vàng thì dự kiến trong tương lai giá vàng sẽ tăng lên. Khi giá dầu tăng, những nhà

xuất khẩu dầu thu được nhiều ngoại tệ, nhằm đa dạng hóa dự trữ ngoại hối, và với

tâm lý thích dự trữ vàng, Melvin và Sultan (1990) lập luận điều này có thể tác động

đến giá vàng, họ sẽ mua vàng tương ứng cho sự giàu có của mình, dẫn đến nhu cầu

vàng tăng, kéo theo sự tăng giá của vàng. Giá dầu và vàng thường biến động cùng

chiều do đều là nguồn tài nguyên không phục hồi được, đồng thời nếu sự biến động

của dầu là do tác động của USD thì dao động giá dầu và giá vàng phần lớn tương

quan với nhau. Sự tăng, giảm giá dầu đều tác động ít nhiều đến nền kinh tế Mỹ,

nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới, do đó sẽ tác động trở lại USD và giá

vàng. Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế hiện nay, giá vàng đôi khi tách khỏi ảnh

hưởng và biến động ngược chiều, cụ thể khi OPEC cắt giảm sản lượng khiến giá

dầu sụt giảm thì vàng lại tách ra và đi ngược với giá dầu. Điều này có thể giải thích

bởi khi kinh tế thế giới suy thoái và tăng trưởng chậm khiến giá dầu giảm thì vàng

vẫn là hàng hóa các NĐT cần nắm giữ trong danh mục của mình. Vàng và dầu là

hai loại hàng hóa khác nhau nên sẽ chịu tác động đến cầu và giá khác nhau. Thực tế

không thể khẳng định giá vàng và dầu có quan hệ cùng chiều hay ngược chiều. Một

bài báo tháng 4/2005 của Zeal LCC chỉ ra rằng “Từ năm 1965 đến 1994, chỉ số

tương quan giá vàng và dầu là 0,879. Từ năm 1995 đến 2000 hệ số này là -0.133”.

Thêm vào đó, theo “The gold-oil relationship” của Steven Saville (2006), mối quan

hệ của dầu và vàng chỉ có thể thấy rõ trong dài hạn và hai yếu tố này chỉ có một yếu

tố ảnh hưởng chung đó là giá trị của đồng Đô la Mỹ.

1.2.3.4. Lạm phát: Lạm phát thấp dưới một con số sẽ thúc đẩy sản xuất, tiêu

dùng trong xã hội, ngược lại lạm phát quá cao lại là nhân tố kìm hãm tiêu dùng,

khiến giá cả hàng hóa tăng cao và giảm sức mạnh của đồng tiền. Lạm phát kéo dài

làm suy giảm niềm tin vào mại lực của đồng tiền, hệ quả là nạn Đô la hóa trong nền

kinh tế và nhập siêu vàng. Lạm phát cũng làm thâm hụt thương mại vì tỷ giá bị kềm

nén, tăng rủi ro của họat động kinh tế, và suy giảm mức sống của người dân. Kềm

-16-

nén tỷ giá thì bất lợi cho ngoại thương, nhưng phá giá đồng tiền ít nhiều làm sụt

giảm lòng tin của đối tác quốc tế. Về lý thuyết, sự gia tăng kỳ vọng lạm phát làm

giảm sức mua của đồng tiền, người dân tránh giữ tiền mặt, tạo tâm lý tìm đến vàng

để bảo tồn vốn, làm tăng nhu cầu vàng, khiến giá vàng tăng cao và mức tăng sẽ cao

hơn mức tăng của lạm phát.

1.2.3.5. Tình hình kinh tế của các cường quốc Mỹ và Châu Âu cũng ảnh

hưởng lớn đến giá vàng, do tác động đến nhu cầu tài chính của các NĐT, bởi vàng

được xem là nơi trú ẩn và bảo tồn giá trị an tòan nhất. Với hệ thống tài chính phát

triển, khi nền kinh tế quốc gia này biến động thì các quốc gia khác cũng bị ảnh

hưởng do cùng tham gia vào thị trường châu Âu hoặc Mỹ (đầu tư trực tiếp, gián

tiếp, mua trái phiếu hoặc do các công ty đa quốc gia họat động trên khắp thế giới).

Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và tòan cầu, các NĐT có nhiều phương án

lựa chọn để tối đa hóa lợi nhuận. Khi kinh tế ổn định, đồng tiền không bị mất giá thì

đa số NĐT lựa chọn đầu tư vào chứng khoán nhằm sinh lời một cách nhanh nhất.

Ngược lại, khi kinh tế xuất hiện những bất ổn, đồng tiền mất giá thì các NĐT lại đổ

xô mua vàng và có thể bán tháo chứng khoán để bảo tòan vốn. Các chỉ số kinh tế

được công bố định kỳ là cơ sở thấy được tình hình tài chính của các quốc gia: Chỉ

số đo lường mức độ lạm phát (CPI, PPI, PCE); GDP; Chỉ số tiêu dùng (Chỉ số bán

lẻ, bán sỉ, hàng hóa lâu bền), Chỉ số về sức sản xuất, lãi suất và các hoạt động khác

của FED công bố; Thị trường lao động (Báo cáo việc làm, Chỉ số việc làm trong

khu vực dịch vụ, Chỉ số thất nghiệp); Thị trường nhà (Chỉ số nhà hoàn thành,

Doanh số nhà mới, Doanh số nhà mua bán, Dự án cấp phép); Dòng vốn (Báo cáo

Ngân Sách, Cán cân thương mại, Chỉ số niềm tin tiêu dùng); Chỉ số tổng hợp (Tài

khoản vãng lai, ISM). Các chỉ số này được dự báo trước, nếu chỉ số chính thức

giống dự đoán thì thị trường ít biến động còn ngược lại sẽ đảo chiều.

1.2.3.6. Chính sách tài khóa và tiền tệ của quốc gia trong điều hành vĩ mô:

Cụ thể sau mỗi lần FED cắt giảm lãi suất nhằm kích thích tiêu dùng và đầu tư cho

tăng trưởng, giá vàng lại biến động tăng cao, do lo sợ tình hình kinh tế khó khăn,

vịêc mở rộng cung tiền quá mức khiến nguy cơ lạm phát rình rập nên các NĐT đổ

-17-

vào mua vàng như một giải pháp cuối cùng. Ngày 1/8/2011, đàm phán giữa thành

viên đảng Dân Chủ và Cộng Hòa xung quanh vấn đề nâng trần nợ công 14.300 tỷ

USD của Mỹ trở thành tâm điểm của TTTC; lo ngại trần nợ được nới rộng, đồng

nghĩa Mỹ sẽ đối mặt với khủng hỏang nợ công khiến giá vàng bắt đầu giai đọan

tăng mạnh nhất năm.

1.2.3.7. Nhu cầu đầu tư và đầu cơ vàng: Vàng là hàng hóa đặc biệt có thể

thực hiện đầy đủ các chức năng của tiền tệ và mang tính bảo toàn vốn tốt nhất, là

nơi trú ẩn an tòan khi có biến động chính trị- kinh tế- xã hội, nên dược xem như tài

sản phải duy trì trong danh mục đầu tư, nhất là trong trường hợp kinh tế thế giới

trên đà giảm và lạm phát tăng cao. Động thái mua vào, bán ra của các quỹ đầu tư

đều tác động đến biến động giá vàng. Cụ thể, 3/9/2008, trong bối cảnh USD lên giá

so với EUR, quỹ đầu tư SPDR Gold Share bán ra 9,19 tấn vàng, làm tâm lý bán của

các NĐT và quỹ khác tăng lên, tạo xu hướng kéo giá vàng xuống 737 USD/oz ngày

11/9. Từ 17/9 đến 24/9, quỹ này đã gom vào gần 100 tấn vàng do biến động tình

hình tài chính tại Mỹ khiến giá vàng trong một đêm tăng đến 120 USD/oz. Vàng và

USD là hai mặt hàng thay thế cho nhau, khi giá vàng tăng thì các NĐT chuyển từ

đầu tư USD sang vàng làm nhu cầu Đô la Mỹ giảm, ảnh hưởng giá USD giảm và

ngược lại. Ngoài ra, khi TTCK họat động tốt, các NĐT đổ tiền vào TTCK; và

ngược lại, khi thị trường khó khăn, giới đầu tư dự cảm xấu về chứng khoán, sẽ rút

tiền khỏi thị trường, và chuyển sang các kênh đầu tư khác, trong đó có vàng. Giá

vàng có liên quan chặt chẽ tới niềm tin của giới đầu tư trên TTCK, giá vàng thường

có xu hướng tăng với vai trò là bệ đỡ trước bước giảm của cổ phiếu, các khoản đầu

tư sẽ chạy sang vàng để phòng ngừa rủi ro.

1.2.3.8. Tình hình chính trị- xã hội: ảnh hưởng gián tiếp đến giá vàng, tuy

không phải là cơ bản và lâu dài nhưng cũng khiến giá vàng thế giới thay đổi tức thì.

Những đợt biến động giá vàng lớn trên thế giới phần lớn đều bị ảnh hưởng bởi

những nguyên nhân như: chính trị, chiến tranh, khủng bố, thời tiết, thiên tai, chu kỳ

lễ hội… Chiến tranh gây những tổn thất không lường và có thời kỳ Mỹ phải phá giá

đồng tiền và vô hiệu hóa thỏa thuận Bretton Woods để giải quyết hậu quả chiến

-18-

tranh tại Việt Nam, giá vàng khi đó đạt mức lịch sử 875 USD/oz ngày 21/1/1981.

Ngày 2/2/2011, khi giá vàng điểu chỉnh giảm mạnh từ 1.400 USD/oz xuống mức

đáy thấp nhất năm 1.342,4 USD/oz, thì cuộc biểu tình chống chính phủ ở Ai Cập,

kêu gọi tổng thống Hosni Mubarak từ bỏ quyền lực sau 30 năm đã hỗ trợ giá vàng

đi lên. Ngoài ra, chu kỳ lễ hội và phong tục tập quán mua vàng làm tài sản hồi môn

trong đám cưới tại Ấn Độ cũng khiến giá vàng tăng theo chu kỳ này.

1.2.4. Các nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng thị trƣờng vàng:

Do giá cả là yếu tố phản ánh thực trạng thị trường, nên cũng như giá vàng,

TTV chịu tác động chủ yếu bởi các nhân tố sau:

 Nhân tố tự nhiên như nguồn nguyên liệu, cơ cấu dân số… ảnh hưởng

lượng và chất của nguồn cung và cầu vàng.

 Do vàng mang các thuộc tính của hàng hóa nên chịu tác động của quy

luật cung- cầu trên thị trường.

 Tình hình biến động kinh tế- chính trị- xã hội của các nước trên thế giới,

đặc biệt các quốc gia có nền kinh tế chủ lực đối với thế giới như Mỹ, các nước châu

Âu, có tác động đến TTV do có thể làm thay đổi nhu cầu đối với mặt hàng này.

 Tình hình kinh tế- xã hội trong nước thể hiện thông qua: tốc độ tăng

trưởng, sự ổn định của nền kinh tế, sự ổn định của giá cả tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hối

đoái... Khi kinh tế bất ổn, lạm phát cao và kéo dài, người dân thiếu niềm tin vào sức

mạnh đồng nội tệ, có khuynh hướng tăng cầu vàng để bảo toàn giá trị tài sản, lựa

chọn đây là nơi trú ẩn an toàn trước sự thiếu ổn định của thị trường.

 Sự phát triển của các kênh đầu tư thay thế khác như TTCK, TTBĐS, thị

trường ngoại tệ… Khi các kênh đầu tư này phát triển và ổn định, NĐT sẽ có nhiều

lựa chọn hơn cho quyết định đầu tư của mình ngoài vàng, làm dịch chuyển nguồn

lực, thay đổi nhu cầu đầu tư, đầu cơ vàng của các NĐT, và ngược lại.

 Chính trị- pháp luật: các yếu tố chính phủ, hệ thống pháp luật, xu hướng

chính trị... là công cụ duy trì cho TTV hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả

và ngày càng phát triển. Những thay đổi trong chính sách quản lý của Nhà nước

-19-

(chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách quản lý TTV...) có thể tác động

mạnh mẽ lên giá vàng, tâm lý của người dân, ảnh hưởng lớn đến TTV.

 Hiệu quả thực thi các công cụ chính sách và khả năng kiểm soát của cơ

quan quản lý.

 Mức độ liên thông giữa TTV nội địa và TTV thế giới.

 Tâm lý, nhận thức của người dân đối với vàng và hoạt động tích trữ,

KDV.

 Kỹ thuật- công nghệ như cơ sở hạ tầng, kỹ thuật sản xuất, công nghệ

thông tin... nhằm tạo ra sản phẩm mang tính cạnh trạnh trên thị trường, cũng như

cập nhật tin tức, định hướng đầu tư đúng đắn, ứng phó kịp thời trước những biến

động của TTV thế giới, đồng thời tạo cơ sở cho hoạt động giao dịch diễn ra suôn sẻ,

thuận lợi.

 Nhóm nhân tố thuộc quản lý vi mô trong nội bộ doanh nghiệp sản xuất

kinh doanh, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn, độc quyền kinh doanh, có ảnh

hưởng chi phối thị trường giá cả, mặt hàng.

 Văn hóa ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động KDV cũng như hoạt động

quản trị kinh doanh của doanh nghiệp KDV.

1.2.5. Ổn định thị trƣờng vàng:

TTV ổn định là TTV đảm bảo được sự liên thông với TTV thế giới, giá vàng

trong nước theo sát biến động giá vàng thế giới, hoạt động theo chính sách quản lý

ổn định, nhất quán phù hợp đặc trưng của TTV trong nước và thông lệ quốc tế.

1.2.5.1. Sự cần thiết ổn định thị trường vàng:

Ổn định TTV có ảnh hưởng đến sự ổn định vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế,

chính trị và đời sống xã hội của người dân, đặc biệt là hoạt động KDV. Hơn nữa,

người dân Việt Nam lại đang tích trữ lượng vàng lớn, nếu không quản lý được sẽ

tác động trực tiếp đến sự ổn định của TTTC và tiền tệ, đặc biệt là nguy cơ bất ổn tỷ

giá, cũng như ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào Chính phủ. Vì vậy, cần

xem việc ổn định TTV là một phần không thể thiếu trong điều tiết TTTC và tiền tệ.

1.2.5.2. Các tiêu chí đánh giá sự ổn định thị trường vàng:

-20-

 Tình hình kinh tế- xã hội:

 Tình hình kinh tế- xã hội ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt, tỷ giá

ngoại tệ ổn định, tạo niềm tin cho người dân vào sức mạnh đồng nội tệ, thay đổi tâm

lý tích trữ vàng trong dân, giảm nhu cầu nắm giữ vàng cho mục đích bảo tồn giá trị,

từ đó có thể chuyển hóa nguồn lực này vào các ngành kinh tế.

 Sự phát triển của các kênh đầu tư khác như TTCK, TTBĐS, thị trường

ngoại tệ… hấp dẫn, thu hút NĐT, gia tăng lựa chọn đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư,

tích trữ vàng trong dân, giảm áp lực lên TTV.

 Các yếu tố liên quan đến Chính phủ- luật pháp:

 Chính sách quản lý ổn định, nhất quán, phù hợp kinh tế thị trường, phù

hợp đặc trưng của TTV trong nước và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập,

đảm bảo sự thống nhất trong chính sách quản lý của các cơ quan điều hành, tạo

niềm tin cho người dân, đồng thời, cơ quan quản lý có thể can thiệp TTV kịp thời

và hiệu quả. Cơ chế quản lý công khai, minh bạch, tách biệt các chức năng quản lý,

kiểm soát thị trường, giảm thiểu sự can thiệp hành chính của Nhà nước, cần để thị

trường định hướng thị trường, tránh tối đa sự chi phối của các nhóm lợi ích.

 Chính phủ có cái nhìn toàn diện về TTV, định hướng được khả năng

thay đổi của thị trường, để đưa ra được những chính sách quản lý hiệu quả, theo kịp

nhu cầu thị trường, đồng thời xây dựng được hệ thống quy định đầy đủ, chặt chẽ

liên quan đến giao dịch vàng, đảm bảo tính khách quan.

 Cơ quan quản lý kiểm soát, giám sát được một cách hiệu quả khả năng

thực thi các công cụ chính sách, tăng cường thanh tra, kịp thời phát hiện và xử lý

nghiêm những tiêu cực, có những chế tài phù hợp vì mục tiêu phát triển chung của

thị trường, đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh dưới sự kiểm soát của Chính

phủ.

 Chính phủ làm tốt công tác truyền thông, có những phát ngôn chính

thức kịp thời nhằm giải thích rõ định hướng, chính sách của Nhà nước đối với hoạt

động KDV, cũng như diễn biến TTV, nhằm ổn định tâm lý thị trường, tránh tạo ra

cú sốc cho thị trường.

-21-

 Thiết lập được mạng lưới KDV phân bổ rộng khắp, phục vụ tối đa nhu

cầu kinh doanh của người dân, các địa điểm kinh doanh này hoạt động dưới sự kiểm

soát của cơ quan quản lý, thực hiện đúng các quy định cuả Nhà nước về hoạt động

này, đảm bảo hoạt động này diễn ra thông suốt, ổn định.

 Đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường,

hạn chế tình trạng độc quyền chỉ gây lợi ích cục bộ và tạo nên nhiều tổn thất xã hội

không đáng có.

 Quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng hợp pháp của người dân được

đảm bảo và bảo vệ.

 Có cơ chế xuất nhập khẩu vàng linh hoạt, nhằm giúp TTV trong nước

liên thông với thị trường quốc tế, đồng thời, phối hợp các lực lượng để kiểm tra,

giám sát hoạt động này hiệu quả. Đảm bảo nguồn cung cho thị trường thông qua cơ

chế cấp phép nhập khẩu công khai, công bằng, minh bạch; cho phép hoạt động xuất

khẩu vàng vàng góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại và tạo cơ hội tăng dự

trữ ngoại hối chính thức, giảm áp lực tăng tỷ giá, khơi thông nguồn vàng trong

dân...

 Cho phép và quản lý hiệu quả hoạt động KDV qua tài khỏan nhằm tạo

thêm kênh đầu tư hấp dẫn, thu hút lượng vàng tích trữ trong dân; giảm tải hoạt động

giao dịch vàng vật chất, từ đó hạn chế được tình trạng nhập khẩu vàng gây gánh

nặng cho dự trữ ngoại hối, ảnh hưởng lớn đến tỷ giá và cán cân thanh toán quốc gia;

tăng khả năng thanh khỏan của vàng; tăng khả năng kinh doanh và kiến thức đầu tư

vàng trong dân; cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của TTV, cung

cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên TTV chủ động

hơn, để có những điều tiết kịp thời.

 Phát triển KDV theo tiêu chuẩn quốc tế, để được chấp nhận lưu thông

trên thị trường thế giới, góp phần thuận lợi cho việc phát triển giao dịch trên sàn

giao dịch vàng và tạo sự gắn kết tốt hơn giữa TTV Việt Nam và TTV thế giới, giúp

việc xuất nhập vàng được dễ dàng và giảm chi phí gia công chuyển đổi vàng từ hai

tiêu chuẩn khác nhau.

-22-

 Huy động được lượng vàng lớn cất trữ trong dân, chuyển hóa thành vốn

phục vụ phát triển đất nước, không để vàng chỉ đơn thuần giữ vai trò cất trữ, gây

lãng phí nguồn lực kinh tế.

 Nhà nước có chính sách dự trữ vàng hợp lý, cùng với nguồn lực vàng

huy động được từ dân, đảm bảo khả năng can thiệp vào TTV khi cần thiết, giảm

thiểu tối đa nhu cầu nhập khẩu vàng gây tình trạng chảy máu ngoại tệ quốc gia.

 Vấn đề cân bằng cung- cầu trên TTV, ổn định giá vàng:

 Các hoạt động đầu cơ lũng đoạn thị trường, xuất nhập lậu vàng tiến đến

giảm dần, đảm bảo cân bằng cung-cầu tại TTV.

 Không có các đợt biến động giá cả gây ra những cú sốc trên TTV, tạo

tình trạng sốt giá ảo, gây tâm lý bất an trong dư luận, tạo bất ổn xã hội, không còn

hiện tượng người dân đổ xô đi bán mua vàng.

 Ổn định giá vàng, từng bước thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước và

thế giới, tiến tới liên thông giá giữa hai thị trường.

 Ngăn chặn được ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá và lạm

phát, từ đó ổn định kinh tế vĩ mô.

 Ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế; không

còn tình trạng sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.

 Các yếu tố khác:

 Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin... phát triển, đảm bảo cập nhật tin

tức kịp thời, định hướng đầu tư đúng đắn, ứng phó nhạy bén trước những biến động

của TTV thế giới, đồng thời tạo cơ sở cho hoạt động giao dịch diễn ra suôn sẻ,

thuận lợi.

 Trình độ quản lý, kinh doanh hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia

sản xuất, kinh doanh trên TTV; mức độ am hiểu tốt, kiến thức kinh doanh đầy đủ

của các thành viên tham gia TTV.

 Đa dạng các sản phẩm, dịch vụ kinh doanh vàng theo hướng phát triển

hội nhập, phục vụ tối đa nhu cầu đầu tư của người dân.

-23-

1.3. Kinh nghiệm ổn định thị trƣờng vàng của một số nƣớc trên thế giới:

Ấn Độ và Trung Quốc là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế

giới, chiếm hơn 42% nhu cầu vàng toàn cầu, và có nhiều nét tương đồng với Việt

Nam về tập quán sử dụng vàng. Đồng thời, đây cũng là hai quốc gia từng trải qua

thời gian dài kiểm soát chặt TTV nhưng sau đó phải tiến hành cải cách theo hướng

tự do hóa và đã đạt được các thành công đáng kể.

1.3.1. Ấn Độ:

Ấn Độ có truyền thống sử dụng vàng, chiếm trên 25% nhu cầu tiêu thụ vàng

thế giới. Với mục đích kiểm soát thị trường này, năm 1962, chính phủ Ấn Độ ban

hành luật hạn chế dân sử dụng vàng và tập trung vàng vào NHTW: cấm các cơ sở

vàng sản xuất trang sức vàng hàm lượng trên 14 carat; cơ sở sản xuất và kinh doanh

trang sức phải ghi đầy đủ thông tin về mua, sản xuất, và bán vàng; cá nhân/hộ gia

đình chỉ được giữ vàng trang sức; NHNN độc quyền xuất nhập khẩu vàng... Những

năm đầu, chính phủ Ấn Độ đã kiểm soát khá thành công TTV. Thông qua việc phát

hành trái phiếu vàng, chỉ trong 3 năm 1962- 1965, chính phủ đã huy động được 19,8

tấn vàng. Chính phủ ban hành luật quản lý vàng năm 1968, và luật điều tiết ngoại

hối năm 1973. Tuy nhiên, chính sách này đã bộc lộ khiếm khuyết: dân chúng tiếp

tục giữ vàng như tài sản tiết kiệm, nhà nước huy động được rất ít; xuất- nhập lậu

vàng quy mô lớn liên tục diễn ra và không thể kiểm soát, có lúc giá vàng bán ra cao

hơn 50% giá vàng quốc tế, chính sách ngoại hối liên tục bị ảnh hưởng bởi vàng.

Trước tình hình đó, đầu thập niên 1990, Ấn Độ bãi bỏ đạo luật kiểm soát vàng,

đồng nghĩa với việc thừa nhận thất bại trong kiểm soát chặt chẽ TTV. Đạo luật về

quản lý ngoại hối đã bao gồm vàng, bạc và đối xử với các hàng hóa này như ngoại

tệ. Hạn chế sở hữu tư nhân về vàng giảm đi, thương nhân KDV không còn phải xin

giấy phép. Nhìn chung, chính sách mở cửa này nhằm mục tiêu: giảm nhập lậu, tăng

thu ngân sách thông qua thu được thuế nhập khẩu vàng, kích thích sản xuất nữ trang

xuất khẩu, phát triển ngành sản xuất và chế tác trang sức, khuyến khích tái chế vàng

nữ trang. Năm 1997, Ủy ban về tài khoản vốn của Ấn Độ xây dựng chính sách toàn

diện "giải phóng" TTV, mục tiêu nhằm dỡ bỏ rào cản đối với việc xuất nhập khẩu

-24-

vàng, chống buôn lậu và tích trữ vàng; phát triển công cụ tài chính phái sinh gắn với

vàng; phát triển TTV vật chất và vàng phái sinh; khuyến khích các NHTM và tổ

chức tài chính tham gia. Tháng 7/1997, các NHTM Ấn Độ được cấp phép tham gia

xuất nhập khẩu vàng, được mua bán vàng trong nước và quốc tế không giới hạn.

Đầu 1999, NHTW Ấn Độ (RBI) cho phép các NHTM huy động tiền gửi đảm bảo

bằng vàng; các sổ tiết kiệm vàng này được chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường

thứ cấp. Sau năm 2000, Ấn Độ đã phát triển các thị trường phái sinh và kỳ hạn liên

quan đến vàng. Nhờ những chính sách này, Ấn Độ không những đáp ứng được nhu

cầu sử dụng vàng của dân, ngăn cản hoạt động buôn lậu mà còn giải phóng được

nguồn vốn khổng lồ dưới dạng vàng vào phát triển kinh tế. Tỷ giá USD/INR được

duy trì ổn định trong thời gian dài. Từ 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao

dịch hợp đồng vàng kỳ hạn trong nước hoặc quốc tế nhưng không được giao dịch

với các tổ chức phi ngân hàng. Đến 2006, các quỹ đầu tư vàng (GETFs) được hoạt

động và có dấu hiệu tăng trưởng đáng kể khi tổng giá trị nắm giữ của quỹ lên đến

khoảng 11 tấn vào tháng 8/2010 so với mức 3 tấn vào tháng 6/2007. Cuối năm

2011, có 4 sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch vàng. Đầu năm 2012, ở Ấn Độ

có 30 ngân hàng bao gồm cả NHNN, ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài

được phép nhập khẩu vàng, bạc để bán tại thị trường trong nước. Các hạn chế về

xuất khẩu vàng, đặc biệt là vàng trang sức được gỡ bỏ. Thị trường bán lẻ vàng thoi

OTC phổ biến, không có quy định giao dịch vàng thoi phải diễn ra tại các sàn giao

dịch. Thị trường bán lẻ vàng trang sức phân tán khắp cả nước với trên 1 triệu cửa

hàng bán lẻ. Ấn Độ cho phép nhập khẩu vàng, đặc biệt là vàng trang sức, nhưng

kiểm soát chặt vàng thoi thông qua việc cấp phép, kiểm soát chứng nhận xuất xứ,

các chứng từ khác cùng với yêu cầu vàng phải đạt độ tinh khiết từ 99,5% trở lên.

Như vậy, chính sách quản lý vàng của Ấn Độ đã có sự thay đổi lớn từ kiểm soát

chặt chẽ đến tự do hóa TTV thông qua nới lỏng dần các biện pháp hành chính. Nhìn

chung, Ấn Độ đã đạt được thành công đáng kể trong quản lý TTV theo cơ chế mới,

giá vàng trong nước đã biến động song hành cùng giá vàng thế giới ở mức chênh

-25-

lệch rất thấp trong nhiều năm, đồng thời đã huy động được khối lượng vàng đáng kể

để đáp ứng nhu cầu phát triển và ổn định TTTC.

Đồ thị 1.1: Biến động giá vàng Ấn Độ và giá vàng thế giới

Nguồn: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ

Tuy nhiên, từ năm 2012, Chính phủ Ấn Độ áp dụng nhiều biện pháp giảm

nhập khẩu vàng do đây là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai

nước này. Hiệp hội các phòng thương mại và công nghiệp Ấn Độ cho biết, giai

đoạn 2010- 2011, nước này đã chi gần 33,8 tỷ USD để nhập vàng. Từ 2001 - 2002

đến nay, hóa đơn nhập vàng tăng gấp 8 lần. Nhu cầu vàng Ấn Độ cao hơn 37,6% so

với Trung Quốc trong khi GDP Trung Quốc bằng 3,5 lần Ấn Độ. GDP Mỹ đạt 14

nghìn tỷ USD- gấp 10 lần Ấn Độ, nhưng nhu cầu vàng nước này chỉ bằng 1/5 Ấn

Độ. Tháng 1/2012, Chính phủ Ấn Độ tăng thuế nhập khẩu lên 2%, từ mức cố định

300 rupee/10g vàng. Tháng 3, tiếp tục tăng gấp đôi thuế đánh vào vàng xu và vàng

thỏi, lên 4%. RBI cấm các ngân hàng cho vay mua vàng dưới mọi hình thức, vì lo

ngại thổi bùng nhu cầu vàng nhằm mục đích đầu cơ; chỉ đạo công ty tài chính phi

ngân hàng giới hạn giá trị khoản vay ở mức 60% giá trị tài sản thế chấp bằng vàng

so với tỷ lệ 90-100% trước đây. Nhu cầu vàng Ấn Độ ước tính giảm khoảng 170 tấn

năm 2012, còn hơn 800 tấn do các biện pháp hạn chế. Đầu năm 2013, Ấn Độ nâng

thuế nhập khẩu vàng lên mức 6%. Thâm hụt tài khoản vãng lai Ấn Độ lên kỷ lục

4,8% GDP trong năm tài khóa 2012- 2013 kết thúc vào tháng 3/2013 (so với 4,3%

năm 2011- 2012) do nhập khẩu xăng dầu và vàng tăng, chiếm 45% tổng nhập khẩu

hàng hóa Ấn Độ. Mức độ vàng hóa cao không chỉ đẩy Ấn Độ đối mặt với thâm hụt

cán cân vãng lai, tác động bất lợi tới dự trữ ngoại hối mà còn đẩy đồng Rupee liên

-26-

tục mất giá. Việc giá vàng thế giới giảm thời gian qua cũng thúc đẩy cầu vàng trong

nước tăng, người dân tranh thủ mua sớm để phục vụ kỳ lễ hội (tháng 8-10), mùa

cưới (tháng 11-12 và tháng 3-5). Đầu tháng 5/2013, RBI quy định các ngân hàng

được cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là vàng trang sức và tiền xu vàng do ngân

hàng đúc (mỗi khách hàng không quá trọng lượng 50gram vàng), nhưng không

được cho vay để mua vàng dưới bất kỳ hình thức nào. Tháng 6/2013, RBI ra hàng

loạt quyết định mới như mở rộng phạm vi áp dụng quy định hạn chế nhập khẩu

vàng trên cơ sở ủy thác của ngân hàng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của đơn vị xuất

khẩu vàng trang sức sang các tổ chức khác được chính phủ cho phép nhập khẩu

vàng; yêu cầu các ngân hàng khu vực nông thôn không được tiếp tục cho vay dựa

trên thế chấp bằng vàng miếng. Ngày 5/6/13, Chính phủ tăng thuế nhập khẩu vàng

lần thứ hai trong năm, lên 8%. Các nhà phân tích dự báo biện pháp của Chính phủ

và RBI có thể làm nhập khẩu vàng của Ấn Độ giảm 20-32% so với năm ngoái và

các chỉ số kinh tế như thâm hụt cán cân vãng lai sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, các

biện pháp này chỉ mang tính ngắn hạn và có thể dẫn tới chênh lệch giá vàng trong

nước và quốc tế gia tăng, khuyến khích tình trạng nhập lậu vàng. Việc kiềm chế

nhập khẩu vàng để thu hẹp thâm hụt tài khoản vãng lai, hạn chế nhu cầu bằng cách

giảm lượng cung chỉ có hiệu quả trong ngắn hạn, nhu cầu này vẫn có thể được đáp

ứng thông qua thị trường chợ đen và chắc chắn sẽ không tốt cho cả nền kinh tế và

xã hội. Thực tế, theo báo cáo mới nhất của WGC về nhu cầu vàng quý 2/2013, cầu

vàng ở Ấn Độ tiếp tục tăng cao, tăng 71% so với năm ngoái, đạt 310 tấn, các biện

pháp của chính phủ hạn chế nhu cầu đã có rất ít ảnh hưởng trên số liệu của quý.

1.3.2. Trung Quốc :

Nhu cầu vàng Trung Quốc đứng thứ hai thế giới sau Ấn Độ, chiếm khoảng

16% tổng cầu vàng toàn cầu. Mặc dù Trung Quốc là nhà sản xuất vàng lớn nhất thế

giới, đóng góp khoảng 13% tổng cung vàng nhưng vẫn phải nhập khẩu vàng. Thời

gian trước, TTV Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất đến phân

phối bán lẻ. Gía vàng và hạn ngạch được quyết định bởi Ngân hàng nhân dân Trung

Quốc (PBOC) phối hợp với các cơ quan khác ở trung ương. PBOC cấp giấy xuất

-27-

khẩu vàng và nhập khẩu vàng trang sức với mức thuế nhập khẩu 60% năm 1996

(trước đây là 100%). Giai đoạn 1995-2005, Trung Quốc đẩy nhanh cải cách, dần tự

do hóa và bãi bỏ việc nhà nước độc quyền vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép bán lẻ,

bán buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng. Tháng 10/2002, Sàn giao dịch

vàng Thượng Hải- SGE được thành lập để tổ chức giao dịch vàng thay thế cho

PBOC, giá vàng tại Trung Quốc đã rất sát với giá vàng thế giới. Từ năm 2002,

Trung Quốc mở cửa cho phép các NĐT nước ngoài tham gia khai thác và sản xuất

vàng. Dù vẫn duy trì cấp phép khai thác và xuất nhập khẩu vàng nhưng từ năm

2005, Trung Quốc đã chủ trương nới lỏng quản lý cấp phép theo hướng sẽ bãi bỏ

kiểm soát xuất nhập khẩu vàng phụ thuộc vào tiến trình tự do hóa tài chính và mức

độ chuyển đổi của Nhân dân tệ. Năm 2006, Trung Quốc cho phép các NHTM giao

dịch các sản phẩm đầu tư vàng với NĐT cá nhân, hệ thống giao dịch vàng thoi hai

giá được triển khai, và đến 2007, các NHTM, tổ chức nước ngoài được phép tham

gia giao dịch tại SGE, Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải- SHFE, nên

nhìn chung cơ chế cấp phép xuất nhập khẩu vàng đã không còn kiểm soát hoàn toàn

việc xuất nhập khẩu vàng ở Trung Quốc.

Đồ thị 1.2: Biến động giá vàng Trung Quốc và giá vàng thế giới

Nguồn: World Gold Council

Nhờ mở cửa TTV thận trọng theo lộ trình dài, Trung Quốc từng bước hướng

dần tự do hóa TTV, tuy vẫn còn duy trì kiểm soát mang tính hạn chế so với các

-28-

nước phát triển, biến động giá vàng trên thị trường nội địa đã có sự liên thông chặt

chẽ hơn với giá trên thị trường thế giới, chênh lệch giá đã không còn có sự khác biệt

lớn như trước đây.

 Bài học kinh nghiệm cho TTV tại Việt Nam:

Qua cái nhìn từ cách quản lý TTV của Ấn Độ và Trung Quốc, có thể thấy

đây là hai quốc gia từng trải qua thời kỳ kiểm soát chặt TTV, nhưng không đạt được

những mục tiêu kỳ vọng, trái lại còn tạo tình hình bất ổn cao, không thể kiểm soát

được đối với TTV trong nước. Chính phủ các nước này đã có sự thay đổi trong

chính sách quản lý vàng, tiến dần đến tự do hóa TTV thông qua nới lỏng dần các

biện pháp hành chính và đã đạt được thành công đáng kể, giá vàng trong nước đã

biến động song hành cùng giá vàng thế giới ở mức chênh lệch rất thấp trong nhiều

năm, đồng thời huy động được vàng để đáp ứng nhu cầu phát triển và ổn định

TTTC, các hoạt động đầu cơ lũng đoạn thị trường, xuất nhập lậu vàng tiến đến giảm

dần, đảm bảo cân bằng cung- cầu tại TTV.

Vàng là mặt hàng rất nhạy cảm, vì vậy mọi chính sách cứng rắn, kiềm tỏa

với vàng phần lớn đều thất bại. Cơ quan quản lý cần có quan điểm rõ ràng không

dùng giải pháp hành chính can thiệp vào giá cả thị trường, cần để thị trường định

hướng thị trường, các biện pháp hành chính mang nặng tính cấm đoán chỉ nên thực

hiện trong ngắn hạn, về lâu dài có thể dẫn tới những hệ lụy tiêu cực, chênh lệch giá

vàng trong nước và quốc tế gia tăng, khuyến khích tình trạng nhập lậu vàng… gây

ảnh hưởng không tốt cho cả nền kinh tế và xã hội.

Chính phủ cần làm tốt công tác quản lý nhà nước đối với TTV, khắc phục bất

cập trong quản lý, tăng cường thanh tra, xử lý nghiêm những tiêu cực, bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá

vàng đến tỷ giá, lạm phát, cần hướng đến tạo lập thị trường giao dịch vàng chính

thức với các công cụ kinh doanh dựa trên cơ chế thị trường để các NĐT có thể dễ

dàng giao dịch, cất trữ và tìm kiếm lợi nhuận, cần cho phép tồn tại nhiều thương

hiệu vàng khác nhau trong nền kinh tế để tạo sự cạnh tranh lành mạnh.

-29-

Thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, tạo thêm kênh đầu tư hấp dẫn, thu

hút lượng vàng tích trữ khá cao trong dân, giảm tải hoạt động giao dịch vàng vật

chất, tăng khả năng thanh khỏan của vàng và thúc đẩy TTTC trong nước sôi động,

tăng khả năng kinh doanh và kiến thức đầu tư vàng trong dân. Việc này sẽ khơi

thông kênh đầu tư vàng, tạo dòng chảy cho thị trường dưới sự kiểm soát của Nhà

nước, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của TTV, cung cầu ngoại tệ

liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên TTV chủ động hơn, để có

những điều tiết kịp thời.

Cần nghiên cứu chính sách huy động vàng trong dân, tránh được tình trạng

vàng chỉ đơn thuần giữa vai trò cất trữ trong bối cảnh nền kinh tế đang thiếu vốn, có

thể dùng lượng vàng này đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế nhập khẩu, từ đó

không chịu sức ép cầu ngoại tệ để nhập khẩu vàng; đồng thời, có thể sử dụng một

phần để chuyển hóa thành vốn, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.

Theo các chuyên gia, nguyên tắc chung trong quản lý vàng và kinh nghiệm ở

hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Australia, Canada, Nhật Bản… đều đã tự do

hóa TTV từ rất lâu. TTV ở các nước này hoạt động theo các chuẩn mực rõ ràng, chủ

yếu giao dịch các chứng chỉ vàng thông qua sàn giao dịch tập trung. Các giao dịch

này được tổ chức rất quy củ, minh bạch và chủ yếu liên quan đến vàng lưu kho tại

Luân Đôn thông qua thay đổi sở hữu vàng của các bên liên quan tại kho vàng này.

Kết luận chƣơng 1:

Chương 1 khái quát vai trò của vàng, nền tảng lý luận về TTV, phân tích các

nhân tố cơ bản ảnh hưởng giá vàng và TTV, đồng thời, tìm hiểu kinh nghiệm quản

lý TTV của hai quốc gia tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới và có nhiều nét

tương đồng với Việt Nam về tập quán sử dụng vàng, nhằm tạo cở sở phân tích diễn

biến giá vàng và TTV, cũng như đưa ra những nhận định về TTV tại Việt Nam ở

chương 2, hướng đến đề xuất giải pháp nhẳm ổn định TTV Việt Nam ở chương 3.

-30-

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG

TẠI VIỆT NAM

2.1. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng trên thế giới và Việt Nam:

2.1.1. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng trên thế giới:

Vẫn còn nhiều tranh luận về tổng lượng vàng trên thế giới đã khai thác được.

Theo Trung tâm số liệu Reuters Thomson GFMS– nơi thường tổ chức khảo sát

vàng hàng năm, lượng vàng trên thế giới khoảng 175.000 tấn. Tuy nhiên, các

chuyên gia ước tính lượng vàng thực tế có thể gấp gần 15 lần số đó, tức khoảng hơn

2,5 triệu tấn, dù họ thừa nhận rằng bằng chứng chưa đầy đủ và con số này có hơi

hướng của sự đầu cơ. Theo Trung tâm Khảo sát Địa chất của Mỹ ước tính, hiện trên

trái đất còn khoảng 52.000 tấn vàng chưa được khai thác.

Đồ thị 2.1: Tình hình cung vàng khai thác trên thế giới từ năm 2007, dự báo

đến năm 2013

Nguồn: Thomson Reuters GFMS, World Gold Council

Vàng được khai thác trên mọi châu lục (trừ Nam Cực bị cấm khai thác

khoáng sản). Trong thế kỷ 20, Nam Phi là quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới

(đầu những năm 1970, đã sản xuất được 1.000 tấn/năm, chiếm hơn 70% sản lượng

toàn thế giới thời điểm đó). Vị thế độc tôn của Nam Phi giảm dần trong thập kỷ kế

tiếp khi sản lượng khai thác tăng đáng kể ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Giai

đoạn 2008-2012, nguồn cung vàng thế giới bình quân khoảng 4.147 tấn/năm, trong

đó 2.547 tấn, tương đương 62% là khai thác mới từ mỏ vàng và 1.600 tấn, tương

-31-

đương 38% từ tái chế vàng trên mặt đất, chủ yếu là từ các thiết bị có sử dụng vàng

và đồ trang sức.

Đồ thị 2.2: Nguồn cung vàng trung bình 5 năm 2008-2012

Nguồn: Thomson Reuters GFMS, World Gold Council

Bảng 2.1: 10 quốc gia khai thác vàng lớn nhất thế giới năm 2011.

Đơn vị: Tấn

STT Quốc Gia Sản lượng khai thác

1 Trung Quốc 355

2 Úc 270

3 Mỹ 237

4 Nga 200

5 Nam phi 190

6 Peru 150

7 Canada 110

8 Ghana 100

9 Indonesia 100

90 10 Uzbekistan

Nguồn: Gold Investing News October 16, 2012

Theo WGC, tổng cung vàng toàn cầu năm 2011 giảm 4% so với năm

2010,trong đó, số lượng vàng tái chế giảm 2%, xuống 1.611,9 tấn; sản lượng vàng

khai thác tăng 4%, lên kỷ lục 2.809,5 tấn. Nhìn chung, khai thác vàng từ các mỏ khá

ổn định, trung bình 2.602,2 tấn/năm. Tuy nhiên, từ năm 2011, nguồn cung vàng đôi

-32-

khi bị gián đoạn do các cuộc đình công ngừng sản xuất ở Nam Phi. Năm 2012, tổng

cung vàng toàn cầu đạt 4.453,3 tấn, trong đó, sản lượng mỏ đạt 2,847.7 tấn, tái chế

vàng là 1.605,6 tấn. Trung Quốc năm thứ sáu liên tiếp giữ nguyên vị trí quán quân

thế giới về khai thác vàng. Những khu vực khai thác chính nằm tại các tỉnh Sơn

Đông, Hà Nam và Giang Tây. Theo Hiệp hội vàng Trung Quốc, tổng sản lượng khai

thác năm 2012 tại đây đạt 403 tấn, cao hơn 13% so với năm 2011. Trung Quốc cũng

là quốc gia có tài nguyên vàng đã thăm dò lớn thứ ba xét về trữ lượng vàng đã thăm

dò. Tổng cung vàng quý 1/2013 là 1.051,6 tấn, trong đó, sản lượng khai thác đạt

688 tấn, tăng 4% so với quý 1/2012. Tổng cung vàng quý 2/2013 thấp hơn so với

một năm trước 6%, trong đó, sản xuất mỏ trong quý này cao hơn cùng kỳ năm trước

4%, đạt 732 tấn, tái chế giảm 21%.

Đồ thị 2.3: Nhu cầu vàng thế giới từ năm 2003-2012

Nguồn: LBMA, Thomson Reuters GFMS, World Gold Council

Nhu cầu tiêu thụ vàng phân bố rộng toàn cầu. Sự khác biệt giữa các nền văn

hóa, kinh tế, xã hội tạo nên mức độ nhu cầu khác nhau trên các thị trường. Theo

WGC, vàng trang sức thường chiếm 2/3 cầu vàng toàn cầu. Năm 2011, nhu cầu

vàng toàn cầu tăng 0,4%, trị giá khoảng 205,5 tỷ USD, là lần đầu tiên nhu cầu toàn

cầu vượt quá 200 tỷ USD. Nhu cầu từ khu vực đầu tư là động lực thúc đẩy nhu cầu

vàng đạt mức cao nhất trong 14 năm vào năm 2011, đạt 1.640,7 tấn, tăng 5% so với

năm 2010 với giá trị khoảng 82,9 tỷ USD, với Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu (chủ

yếu là Đức và Thụy Sĩ) chiếm chủ yếu. Nhu cầu trang sức giảm 1,9%, đạt 1.979 tấn;

-33-

lượng vàng sử dụng vào công nghiệp điện tử tăng mạnh, vàng sử dụng cho mục

đích tiền tệ giảm dần, chỉ khoảng 13% dùng đúc đồng xu, vàng miếng; phần còn lại

dùng cho nhiều mục đích khác như sản xuất công nghiệp hoặc nha khoa. Năm 2011

có 12 tấn vàng được bảo hiểm rủi ro, đây là năm đầu tiên trong 12 năm, mức vàng

ròng được bảo hiểm là dương, năm 2010 có 108 tấn không được bảo hiểm. Năm

2011, cầu vàng Trung Quốc là 811,2 tấn- tăng 20%, trong đó có 510,9 tấn vàng nữ

trang- tăng 13%, nhu cầu vàng thỏi và tiền xu tăng 38% so với 2010. Cầu vàng nữ

trang Trung Quốc tăng hàng quý và là thị trường tiêu thụ lớn nhất nửa cuối năm

2011, riêng quý 4/2011, Trung Quốc tiêu thụ 190,9 tấn, con số này ở Ấn Độ là 173

tấn. Năm 2011, thị trường Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 49% nhu cầu thế giới và

55% trang sức toàn cầu. Năm này, Trung Quốc nhập khẩu 490 tấn vàng, sản xuất

trong nước khoảng 360,96 tấn. Ấn Độ năm 2011 tiêu thụ 933,4 tấn, giảm 7%, trong

đó 500 tấn phục vụ nhu cầu nữ trang. Bên cạnh đó, Châu Âu cũng là thị trường tiêu

thụ vàng mạnh năm 2011, do khủng hoảng nợ công khu vực thúc đẩy các NĐT tìm

đến vàng như “vịnh tránh bão”. WGC cho biết cầu vàng Châu Âu trong năm tăng

hơn 25%, đạt 374,8 tấn, chủ yếu ở Đức và Thụy Sỹ. Tuy nhiên, Chính phủ các nước

châu Âu kiểm sóat rất chặt họat động kinh doanh, mua bán vàng trên thị trường;

người dân muốn sở hữu vàng phải hội tụ đủ 4 yếu tố: mua qua môi giới và phải trả

phí; phải gửi vàng tại các ngân hàng và chịu phí tiền gửi; khi trao đổi vàng phải có

điều kiện và giấy phép; và sở hữu vàng phải chịu thuế suất rất cao.

Bảng 2.2: 10 quốc gia tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới năm 2011.

Đơn vị: Tấn

STT Quốc Gia Tiêu Thụ

1 Ấn Độ 933.4

2 Trung Quốc 811.2

3 Mỹ 194.9

4 Đức 159.3

5 Thổ Nhĩ Kỳ 144.2

6 Thụy Sĩ 116.2

-34-

7 Thái Lan 108.9

8 Việt Nam 100.3

9 Nga 75.1

10 Arab Saudi 72.2

Nguồn: Global Demand Trends Report- WGC

Đồ thị 2.4: Nhu cầu vàng thế giới trung bình giai đoạn 2008-2011 theo quốc gia

Nguồn: báo cáo của WGC

Năm 2012, theo WGC, nhu cầu vàng tòan cầu sụt giảm lần đầu tiên từ năm

2009, do sức mua của thị trường hàng đầu là Ấn Độ giảm mạnh, thu hẹp khỏang

cách với quốc gia mua vàng thứ hai thế giới là Trung Quốc. Nhu cầu vàng năm

2012 giảm 3,85% so với năm 2011, còn 4.405,5 tấn, tuy nhiên, về giá trị lại tăng

cao kỷ lục 236,4 tỷ USD do giá vàng tăng, cao hơn 15% so với trung bình 5 năm

trước. Như vậy, 9 năm qua, cầu vàng đã tăng 680% tính theo giá trị (30,3 tỷ USD

năm 2003) và tăng 69,83% tính theo khối lượng (2.594 tấn năm 2003). Riêng quý

4/2012, cầu vàng tòan cầu tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, lên 1.195,9 tấn, trị

-35-

giá khỏang 66,2 tỷ USD. Nhu cầu về đồ trang sức thế giới chiếm khỏang 43% tổng

nhu cầu, trượt giảm hơn 3% trong năm 2012, xuống 1.908,1 tấn, tương đương 102,3

tỷ USD, do nhu cầu trong nửa đầu năm giảm mạnh. Theo các nhà phân tích của

WGC, nhu cầu vàng trang sức trên thế giới có thể sẽ dịu lại về mặt khối lượng trong

năm 2013. Năm 2012, Ấn Độ và Trung Quốc vẫn là hai nước tiêu thụ vàng trang

sức nhiều nhất, chiếm 65% nhu cầu tòan cầu; trong đó, cầu vàng trang sức chiếm

đến 43% tổng cầu vàng. Tại Ấn Độ, nhu cầu vàng năm 2012 giảm xuống còn 864,2

tấn, dù được phục hồi khá mạnh vào quý cuối, thời điểm của lễ hội tôn giáo và mùa

cưới, nhờ vào đà phục hồi của giá vàng và dự báo thuế nhập khẩu vàng sẽ tiếp tục

tăng cao, tăng vọt 41% so với cùng kỳ năm trước, lên 261,9 tấn. Còn tại Trung

Quốc, nhu cầu vàng năm 2012 là 776,1 tấn, riêng quý 4/2012 là 202,5 tấn.

Đồ thị 2.5: Nhu cầu vàng thế giới năm 2012 và trung bình năm 2008-2012

Nguồn: http://www.monex.com/gfms/2013/gold-market-supply.html

Theo WGC, năm 2010 là năm các NHTW lần đầu tiên mua ròng vàng trong

21 năm, tổng cộng 77 tấn vàng, trái với mức bán ròng 1.143 tấn trong 3 năm trước

đó. Năm 2011 mua vào gấp 6 lần, đạt 439,7 tấn. Mexico là nước mua ròng lớn nhất,

sau đó là Nga. Theo báo cáo WGC công bố ngày 14/2/2013 cho thấy năm 2012 các

NHTW đã mua vàng nhiều nhất trong gần nửa thập kỷ, 534,6 tấn, cao nhất từ năm

1964 nhằm đa dạng hóa kho dự trữ, giảm phụ thuộc vào Đô la Mỹ. Nhu cầu vàng

thế giới tăng cao do khủng hoảng kinh tế tài chính, chủ yếu nhu cầu đầu tư, nhu cầu

mua vàng của các NHTW tăng lên. Nước mua ròng nhiều nhất là Nga, Brazil và

-36-

Iraq. Lượng mua ròng của các NHTW chiếm 12% tổng cầu vàng năm 2012, cao

hơn mức 10% năm 2011. NHTW Hàn Quốc (BOK), Nga, Kazakhstan tăng dự trữ

vàng tháng thứ 4 liên tiếp trong tháng 1/2013. Cụ thể, tính đến tháng 2, NHTW Hàn

Quốc mua 20 tấn vàng và tổng lượng vàng đang sở hữu khỏang 104,4 tấn. Trong

năm 2011 và 2012, Hàn Quốc mua thêm lần lượt là 40 và 30 tấn vàng.

Bảng 2.3: 10 quốc gia có lượng dự trữ vàng lớn nhất thế giới tính đến tháng 3/2013

Tỷ lệ vàng trong dự trữ STT Quốc Gia Trữ lƣợng (Tấn) ngoại hối (%)

1 Mỹ 8.133,5 75,6

2 Đức 3.391,3 72,7

3 Italia 2.451,8 72,2

4 Pháp 2.435,4 69,2

5 Trung Quốc 1.054,1 1,7

6 Thụy Sỹ 1.041,1 10,5

7 Nga 969,9 9,8

8 Nhật Bản 765,2 3,2

9 Hà Lan 612,5 59,2

10 Ấn Độ 557,7 9,9

Nguồn: báo cáo của WGC

Trái ngược xu hướng trên, GETFs bán tháo vàng do lo ngại kỷ nguyên tăng

giá 12 năm của vàng đã kết thúc. Lượng nắm giữ vàng của GETFs giảm còn 2.500

tấn tính đến ngày 4/3/13, thấp nhất từ tháng 9/2012. Hiện tại, lượng vàng do GETFs

nắm giữ chiếm khoảng hơn 1% tổng dự trữ vàng 175.000 tấn toàn cầu. Lượng nắm

giữ vàng của GETFs lên kỷ lục 2.632,5 tấn vào ngày 20/12/12.

WGC cho biết quý 1/2013, nhu cầu vàng thế giới giảm 13% xuống thấp nhất

9 năm còn 963 tấn, so với 1.107,5 tấn cùng kỳ năm ngoái; xét về giá trị, đạt 50,5 tỷ

USD, giảm 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng nhu cầu đầu tư giảm 49% xuống

còn 200,8 tấn, chủ yếu do các quỹ tín thác bán tháo gần 177 tấn vàng. Nhu cầu trang

sức toàn cầu là 551 tấn, tương ứng giá trị kỷ lục 28,9 tỷ USD. Ấn Độ và Trung

-37-

Quốc chiếm 62% nhu cầu trang sức toàn cầu của quý 1, tăng so với cùng kỳ năm

trước tương ứng là 15% và 19%. Nhu cầu vàng trong lĩnh vực công nghệ giảm 4%

so với cùng kỳ năm trước, ở mức 102 tấn, tương đương 5,4 tỷ USD, giảm 7% về giá

trị. NHTW các nước bổ sung 109,2 tấn vàng dự trữ trong quý này, tương đương 5,7

tỷ USD, chiếm 11% nhu cầu trong quý. Lượng mua vàng của hai thị trường chính là

Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tăng cao. Cụ thể, nhu cầu đầu tư vàng của Trung Quốc

tăng 22% lên kỷ lục 109,5 tấn, Ấn Độ tăng 52% lên 97 tấn. Nhu cầu vàng xu và

vàng thỏi tại Mỹ tăng 43% lên 20,1 tấn.

Theo WGC, nhu cầu tiêu thụ vàng thế giới trong quý 2/2013 tăng 53% so với

cùng kỳ năm ngoái, đạt 1.083 tấn, do tăng trưởng mạnh mẽ cầu vàng ở Trung Quốc

và Ấn Độ. Sự sụt giảm giá vàng tạo ra sự gia tăng đáng kể trong nhu cầu. Nhu cầu

đầu tư tăng 78% trên toàn cầu, cầu trang sức tăng 37%, đạt 576 tấn, từ 421 tấn so

với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức cao nhất từ quý 3 năm 2008. NHTW mua ròng

vàng quý thứ mười liên tiếp, mua 71 tấn, tuy nhiên, giảm 57% so với cùng kỳ năm

trước. Nhu cầu trong lĩnh vực công nghệ tổng cộng 104 tấn, tăng 1% so với năm

ngoái. Nhu cầu vàng ở Trung Quốc tiếp tục tăng mạnh, tổng cộng 276 tấn trong quý

2, tăng 87% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, nhu cầu trang sức là 153 tấn, tăng

54%, nhu cầu về vàng thỏi và vàng xu là 123 tấn, tăng 157%. Nhu cầu ở Ấn Độ tiếp

tục tăng cao, các biện pháp của chính phủ hạn chế nhu cầu đã có rất ít ảnh hưởng

trên số liệu của quý, tăng 71% so với năm ngoái, đạt 310 tấn, trong đó, nhu cầu về

vàng thỏi và vàng xu tăng 116%, nhu cầu trang sức tăng 51%. Ngoài ra, còn có sự

gia tăng đáng kể trong nhu cầu vàng trang sức ở khu vực Trung Đông (tăng 33%),

và ở Thổ Nhĩ Kỳ (tăng 38%).

2.1.2. Tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng tại Việt Nam:

Theo báo cáo của WGC, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng

nhập khẩu trừ đi lượng vàng xuất khẩu) khỏang 1.000 tấn. Tuy con số này chưa

được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân

nắm giữ, trở thành luồng vốn họat động không chính thức, gây sức ép không nhỏ

đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và họat động của các NHTM

-38-

nói riêng. Theo Ngân hàng Phát Triển Châu Á (The Asian Development Bank-

ADB), tỷ lệ giữ vàng so với thu nhập của người dân Việt Nam cao nhất thế giới.

Nhu cầu nhập khẩu vàng ở Việt Nam đến 95% lượng vàng tiêu thụ, lượng vàng khai

thác từ các mỏ trong nước chỉ khoảng 2 tấn/năm. Vàng trong nước hiện đang mất

cân đối cung cầu nghiêm trọng, cầu vàng tăng mạnh, trong khi cung vàng khan

hiếm. Cung cầu loại hàng hóa đặc biệt này phụ thuộc chủ yếu vào chính sách Nhà

nước. Nguồn cung vàng chủ yếu từ nhập khẩu, do vậy, mọi biến động về giá vàng

thế giới, tỷ giá, lãi suất các đồng tiền chủ đạo trên thế giới đều gây những ảnh

hưởng nhất thời đến thị trường trong nước. Các nhà địa chất dự báo trữ lượng vàng

nước ta còn khoảng 1.000 đến 3.000 tấn trong các mỏ quặng với nhiều hình thái và

quy mô khác nhau ở Cao Bằng, Thanh Hóa, Quảng Nam, Thái Nguyên, Phú Thọ,

Nghệ An, Lạng Sơn, Qủang Ngãi, Lâm Đồng, Phú Yên…

Việt Nam bắt đầu cho phép nhập khẩu vàng đầu những năm 1990. Đến 1997,

do khan hiếm ngoại tệ, Chính phủ cấm nhập vàng. Năm 2001, vàng tiếp tục được

nhập khẩu trở lại, tuy nhiên, chỉ cho phép nhập khẩu theo hạn ngạch do NHNN quy

định cho từng đầu mối nhập khẩu và theo từng năm. Hiện nay, theo Nghị định

24/2012/NĐ-CP, Nhà nước độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất

vàng miếng.

Không tìm được tài liệu thống kê từ NHNN về thực trạng giao dịch vàng ở

Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn cung vàng nước ta phụ thuộc vào hạn ngạch NHNN

cho phép nên đáp ứng chậm so với nhu cầu, điều này càng đẩy giá vàng lên cao

hơn, tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ và buôn lậu vàng. Lượng vàng nhập khẩu

theo chính ngạch các năm qua rất nhỏ so với mức tiêu thụ thực tế, có vẻ như lượng

vàng chuyển lậu vào Việt Nam khá lớn. Chẳng hạn, năm 2003, NHNN cấp tổng hạn

ngạch nhập khẩu vàng 10 tấn, nhưng WGC ước tính tiêu thụ vàng thực tế trên lãnh

thổ Việt Nam cao hơn rất nhiều, 58,8 tấn. Một phần rất lớn chênh lệch này được

giải thích bằng lý do buôn lậu. Một trường hợp cụ thể nữa là năm 2008, NHNN chỉ

cấp phép nhập 73,5 tấn vàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh giá dầu thế giới tăng liên

tục, chứng khoán mất giá, giá USD và BĐS không ổn định, vàng trở thành phương

-39-

tiện hiệu quả để đầu tư cũng như bảo toàn vốn. Lượng vàng nhập khẩu vào Việt

Nam lên tới 43 tấn chỉ trong bốn tháng đầu năm 2008, bằng một nửa khối lượng

nhập khẩu cả năm 2007, trị giá ước tính khoảng 1,2 tỷ USD. Trong khi theo IMF,

mỗi năm thị trường thế giới giao dịch chỉ khoảng 400-500 tấn vàng. Sáu tháng đầu

năm 2008, các doanh nghiệp nhập vàng vào Việt Nam đến 56,8 tấn. Từ tháng

7/2008, Nhà nước tạm ngừng nhập khẩu vàng để hạn chế tình trạng nhập siêu, do

cán cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng gây áp lực tăng mạnh tỷ giá. Do đó, số

lượng vàng bổ sung cho thị trường sau thời điểm này, theo Hiệp hội KDV Việt

Nam, chỉ có thể là nhập lậu, tỷ giá thị trường tự do vì vậy vẫn tạo khỏang cách khá

xa so với tỷ giá chính thức, thị trường ngoại tệ càng phức tạp hơn. Tổng vàng nhập

khẩu vào Việt Nam năm 2008 đến 125 tấn, tăng 60,3% so với năm trước.

Không có thống kê chính thức về nhu cầu vàng của Việt Nam, thông số

thường được sử dụng là mức ước tính của WGC. Dễ dàng nhận thấy cầu vàng có xu

hướng tăng theo thời gian, thường tăng đột biến vào quý 1 và quý 4 do thói quen

tiết kiệm kỳ cuối năm. Người dân vẫn duy trì thói quen tích trữ vàng thay vì sử

dụng loại tài sản tài chính khác. Việt Nam có thời điểm là một trong những nước

tích trữ vàng nhiều nhất thế giới. Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2010,

kim ngạch nhập khẩu đá quý, kim loại quý đạt hơn 1,1 tỷ USD, tăng 124,7% so với

năm trước. Theo WGC, Việt Nam xếp thứ 8/10 quốc gia có nhu cầu vàng lớn nhất

thế giới với tổng số vàng tiêu thụ trong 2011 ở mức 100,3 tấn, tăng 23% từ mốc

81,4 tấn năm 2010, trong đó nhu cầu vàng nữ trang giảm 9% còn 13 tấn, nhu cầu

đầu tư vào vàng miếng tăng 30% lên 87,3 tấn. WGC cho biết năm 2011, lượng vàng

trung bình người Việt Nam mua đã vượt Trung Quốc và Ấn Độ. Chỉ trong năm

2011 và 2012, tổng nhu cầu vàng Việt Nam đã lên đến gần chục tỉ USD, trong đó,

giá trị vàng nữ trang đã lên đến gần 1,3 tỉ USD, lần lượt là 634 triệu USD năm 2011

(11,9 tấn) và 666 triệu USD năm 2012 (12,5 tấn). Trong 2 năm này số lượng vàng

thỏi nhập vào Việt Nam là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD trong năm 2011 và 75,2

tấn, tương đương trên 4 tỉ USD năm 2012. Theo số liệu WGC cung cấp năm 2012,

-40-

lượng vàng dự trữ trong dân ở Việt Nam có thể lên đến 1.072 tấn, khoảng 45 tỷ

USD, tương đương bằng 45% GDP Việt Nam năm 2010.

Đồ thị 2.6: Cầu vàng Việt Nam giai đoạn 2008-2011

Nguồn: vang-24h.com.vn

Cùng với đà giảm chung của thế giới về nhu cầu vàng, báo cáo của WCG chỉ

ra, quý 1/2013, tổng đầu tư vàng miếng của Việt Nam là 14,2 tấn, giảm 18% so với

cùng kỳ năm 2012 là 17,4 tấn; nhu cầu vàng trang sức là 4,4 tấn, giảm 12% so với

quý 1/2012. Nhu cầu vàng miếng và trang sức nói chung đạt 18,6 tấn, giảm 17% so

với mức 22,4 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Xét về giá trị, đầu tư vàng miếng quý

1/2013 đạt 745 triệu USD, giảm 21% so với cùng kỳ năm 2012, giá trị mua vàng

trang sức cũng giảm còn 229 triệu USD, từ 269 triệu USD năm ngoái. Tính chung,

giá trị đầu tư vàng quý 1 của Việt Nam đạt 974 triệu USD, giảm 20% so với năm

ngoái. Trong vòng 12 tháng kết thúc vào cuối quý 1/2013, nhu cầu vàng trang sức

của Việt Nam là 10,8 tấn, tương ứng giảm 13% so với 12 tháng kết thúc vào cuối

quý 1/2012; nhu cầu vàng miếng đạt 62,2 tấn, giảm 32%.

Trong quý 2/2013, nhu cầu vàng trang sức ở Việt Nam ở mức 3,2 tấn và nhu

cầu vàng miếng đạt 20 tấn, tăng lần lượt 25% và 23% so với cùng kỳ năm ngoái.

Xét về giá trị, đầu tư vàng trang sức là 147 triệu USD, vàng miếng đạt 910 triệu

USD, tăng lần lượt 10% và 9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính chung 12

tháng tính đến cuối quý 2/2013, nhu cầu vàng trang sức, vàng miếng của Việt Nam

đạt 77,4 tấn, giảm 26% so với 12 tháng kết thúc vào quý 2/2012. Xét về giá trị, đầu

tư vàng giai đoạn này cũng chỉ đạt 3,963 tỷ USD, giảm 30% so với 12 tháng kết

-41-

thúc vào quý 2/2012. So với khu vực, trong khi các thị trường như Trung Quốc,

Hồng Kông, Đài Loan tăng nhu cầu vàng trang sức và vàng thỏi, vàng xu, thì nhu

cầu tại Việt Nam giảm với lý do được cho là thu nhập khả dụng của người dân giảm

và sự kiểm soát của Chính phủ đối với TTV.

2.2. Biến động giá vàng trên thế giới và Việt Nam những năm gần đây:

2.2.1. Biến động giá vàng trên thị trƣờng thế giới từ năm 2008 đến nay:

Đồ thị 2.7: Biến động giá vàng thế giới từ tháng 8/2003 đến nay

Nguồn: kitco.com

Luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 2008 đến nay, khoảng thời

gian khủng hoảng tài chính lan rộng toàn cầu, tác động lên nhiều nền kinh tế, giá

vàng có nhiều biến động mạnh, trồi sụt thất thường.

TTV thế giới năm 2008 chịu tác động của hai xu hướng đối lập là lạm phát

và giảm phát, tạo những con sóng trồi sụt liên tục cho giá vàng. Đầu 2008, thế giới

chứng kiến sự bứt phá ngọan mục của giá vàng, các kỷ lục cũ bị phá vỡ với mức

tăng bất ngờ bởi nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá và sức mạnh kinh tế Mỹ vẫn là động

lực số một. GDP Mỹ chiếm 25% GDP tòan cầu, suy giảm kinh tế Mỹ đánh dấu sự

đi xuống tương đối của kinh tế tòan cầu. Năm 2008 khủng hoảng tài chính toàn cầu

lan rộng xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo số lượng con nợ lớn chưa

từng thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ, bắt nguồn từ chính sách nới

lỏng tiền tệ FED thực thi từ đầu những năm 2000 (giữ lãi suất dưới 2% từ 11/12/01

đến 10/11/04); giới chính trị gia ủng hộ mở rộng tín dụng cho tầng lớp thu nhập

trung bình thấp; các công ty tài chính được thành lập như giải pháp điều hòa dòng

-42-

chảy tín dụng, thu lợi nhuận chênh lệch lãi súât, tránh các quy định kiểm soát tín

dụng chặt chẽ với hệ thống ngân hàng. Hệ quả là các tiêu chuẩn cho vay hạ thấp, thị

trường tín dụng BĐS phát triển quá nóng. Do đó, khi FED tăng laĩ suất lên 4% đầu

tháng 11/2005 và duy trì trên mức này tới năm 2007, nhiều người vay tiền mua

BĐS mất khả năng thanh toán, đẩy nhiều ngân hàng và định chế tài chính đối diện

nguy cơ phá sản cao, và nhanh chóng lan rộng khắp các thị trường, khiến nhiều nền

kinh tế trên thế giới chao đảo. Trong bối cảnh lạm phát cao, các NĐT ồ ạt chuyển

vốn sang TTV, tạo hậu phương vững chắc giúp vàng thẳng tiến chinh phục những

đỉnh cao mới. Từ khi FED bắt đầu giảm lãi suất ngày 18/9/07 đến tháng 2/08, đưa

lãi suất USD từ 5,25% xuống 3%, giá vàng đã tăng thêm 31%. Tháng 2 được xem là

những tuần lễ lịch sử của giá vàng với những diễn biến khó tin. Đến 14/3/08, có lúc

vàng vượt mức lịch sử 1.000 USD/oz, do USD mất giá và thiết lập đáy mới chưa

từng có với EUR (1 EUR đổi 1,5495 USD). Từ đó, đồ thị giá vàng trở thành đường

thẳng đứng hướng lên. Chỉ trong quý 1/2008, vàng đã tăng được 14% giá trị. Nguồn

cung vàng có dấu hiệu giảm sút do khai thác khó khăn hơn, cộng thêm những biến

động chính trị đã chắp cánh cho giá vàng thăng hoa. Quý 3/2008, khủng hoảng tài

chính lan rộng, các nền kinh tế lớn có dấu hiệu giảm tốc, Chính phủ các nước lo

ngại suy thóai kinh tế. Ngày 1/8/08, vàng ở mức 912,5 USD/oz, đến 11/9/08 còn

740,75 USD/oz do kinh tế Mỹ khả quan làm giới kinh doanh chuyển từ vàng sang

chứng khóan. Ngày 29/9/08, ngân hàng chuyên cho vay BĐS Bradford & Bingley

(B&B) của Anh mất quyền kiểm soát và bị xóa tên trên TTCK. Ngày 30/9/08,

NHTW Nhật Bản (BoJ) dốc 19,2 tỷ USD cứu khỏan thua lỗ nặng nề của sáu ngân

hàng hàng đầu nước này. TTCK thế giới trước nguy cơ phá sản, giới đầu tư phải

bán ra ở danh mục hàng hóa để bù lỗ, trong đó, vàng là mặt hàng bị bán đầu tiên do

tính thanh khoản cao. Giảm phát trở thành vấn đề được các nước quan tâm, nhu cầu

tiền mặt tăng cao do ngân hàng thắt chặt cho vay và bất ổn của TTTC toàn cầu

khiến giới đầu tư Mỹ rút vốn về nước, giới đầu tư quốc tế liên tục mua vào trái

phiếu kho bạc Mỹ. Biểu hiện xấu đi của kinh tế châu Âu tạo cơ hội cho USD lấy lại

ưu thế so với Euro cũng khiến giá vàng giảm, các NĐT nhận ra USD vẫn là đồng

-43-

tiền an toàn nhất và chiếm khối lượng giao dịch lớn nhất trên thị trường ngoại hối.

Các NHTW lớn, trong đó có ECB liên tục cắt giảm lãi suất làm USD tăng giá mạnh

so với Euro. Hai tháng đầu quý 4, tiếp tục là giai đoạn đi xuống của TTV thế giới,

còn 709,5 USD/oz từ mức trên 900 USD/oz thời điểm đầu quý. Tháng 12, giới đầu

tư bắt đầu quan tâm vàng trở lại. Chính sách nới lỏng tiền tệ chống khủng hoảng

của Mỹ tạo áp lực mất giá với USD và có thể hình thành chu kỳ lạm phát mới. Khi

công cụ lãi suất không còn có thể dễ dàng sử dụng (nhiều quốc gia đã hạ thấp lãi

suất tiền của mình), các quốc gia lớn trên thế giới buộc phải nghĩ đến việc in thêm

tiền ra lưu thông và vay mượn đa quốc gia, trở thành động lực tốt cho giá vàng phục

hồi. Giá dầu thô giảm hơn 70% so với mức đỉnh gần 150 USD/thùng vào tháng 7 và

liên tục trượt dài mặc nỗ lực của các nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới cắt giảm

mạnh sản lượng, ngày 19/12 còn 33,87 USD/thùng. Vàng và dầu không còn tiếp tục

đồng hành cùng nhau, vàng vẫn giữ được phong độ là hàng hóa ít giảm giá nhất nhờ

những tính chất truyền thống vốn có. Nhìn chung, trong bối cảnh khủng hoảng kinh

tế năm 2008, vàng vẫn chứng minh được vai trò là kênh đầu tư an toàn. Năm 2008

chỉ số giá Reuters/Jefferies CRB Index của 19 loại nguyên vật liệu thô, trong có

vàng và dầu thô, đã giảm 35%, nhưng giá vàng thế giới giao ngay chỉ giảm 10%.

Tăng khá đều đặn trong các quý 1, 2, 3, rồi bứt phá mạnh trong quý 4 là xu

hướng chính của giá vàng thế giới năm 2009. Lượng giao dịch đạt mức kỷ lục, với

số lượng hợp đồng đầu cơ tăng mạnh trên sàn COMEX tháng 11. Khởi động năm

2009 với mức giá khoảng 880 USD/oz, giá vàng giao ngay thế giới ngày 23/12/09

đóng cửa ở mức gần 1.090 USD/oz, tăng xấp xỉ 24%. Ba quý đầu năm 2009, giá

vàng đi ngang trong biên độ rộng, dù có thời điểm trở lại trên mốc 1.000 USD/oz.

Đầu tháng 10, thế giới xôn xao trước tin đồn một số nứơc vùng Vịnh bàn kế hoạch

loại USD khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này bị phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ

giá USD sụt sâu, giúp giá vàng tăng tốc mạnh, mốc quan trọng nhất trong năm vượt

mức 1.033 USD/oz ngày 6/10. Thời điểm 2/12, giá vàng thiết lập mức kỷ lục mới

tại 1.226,5 USD/oz, vượt xa mức đóng cửa 1.002,8 USD/oz năm 2008. Điều đáng

nói là giá vàng thế giới năm 2009 lập kỷ lục giữa lúc khủng hoảng tài chính không

-44-

còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi ro lạm phát cũng không phải mối lo

lớn của các quốc gia. Tuy không phát huy được vai trò hầm trú ẩn an tòan, giá vàng

năm nay lại được hỗ trợ nhiều bởi chính sách tiền tệ và tài khoá nới lỏng của Mỹ.

Xu hướng suy yếu của USD do FED duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục là

nhân tố nâng đỡ tích cực nhất cho giá vàng trong năm. NHTW nhiều quốc gia như

Trung Quốc, Nga, Ấn Độ... chủ trương giảm dự trữ USD và tăng dự trữ vàng để đa

dạng hóa dự trữ ngoại hối. Cụ thể khi IMF bán 403,3 tấn vàng, Ấn Độ đã mua 200

tấn, Sri Lanka mua 10 tấn, Maritus mua 2 tấn.

Tính đến hết năm 2010, vàng có một thập kỷ tăng giá. Giá vàng tăng 29%

năm 2010, chủ yếu do tác động từ khủng hoảng nợ công châu Âu và nhu cầu tích

trữ vàng của các NHTW tăng cao. Giới đầu tư tăng cường mua vàng để bảo đảm giá

trị tài sản trước khủng hoảng nợ công châu Âu, tốc độ phục hồi chậm của kinh tế

Mỹ và lạm phát có chiều hướng tăng mạnh tại các nền kinh tế phát triển. Cuối năm

2010, Quỹ đầu tư tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ

1.280,72 tấn vàng. Sau một thập kỷ ròng liên tục bán ra, nhiều NHTW trên thế giới,

đặc biệt là các NHTW tại châu Á đã đẩy mạnh mua vàng. Trong quý 2 và 4, giá

vàng thế giới thường xuyên xác lập kỷ lục mới khi USD tăng giá so với Euro. Kỷ

lục của giá vàng giao ngay tại thị trường New York được thiết lập vào ngày 7/12 ở

mức 1.432,5 USD/oz.

Năm 2011, giá vàng thế giới tăng 12%, tăng năm thứ 11 liên tiếp do khủng

hoảng chính trị ở Bắc Phi và khủng hoảng nợ công châu Âu. Giá vàng tăng liên tục

ba quý đầu, sau đó suy giảm đáng kể vào quý 4. Gần chín tháng đầu năm, vàng duy

trì đà tăng giá do nhu cầu đầu tư và tích trữ tăng mạnh, khi giới đầu tư không còn

tin tưởng các loại tiền tệ quốc tế khác và kênh đầu tư khác như hàng hóa, chứng

khoán. Đặc biệt, tháng 7 đến tháng 9 tăng mạnh, vàng tương lai trên thị trường New

York liên tiếp lập kỷ mục mới. Đỉnh điểm ngày 6/9, vàng chinh phục mức 1.923,7

USD/oz, mức cao nhất trong lịch sử giá vàng. Tuy nhiên, theo thống kê của

Bloomberg, từ tháng 10 đến tháng 12, vàng đã giảm 21%, xuống 1.500 USD/oz do

ảnh hưởng nhiều yếu tố như hoạt động bán vàng chốt lời của các quỹ đầu cơ, điều

-45-

chỉnh về mặt kỹ thuật và khối lượng giao dịch giảm. Nguyên nhân chính là việc

FED từ chối gói kích thích định lượng QE3, yêu cầu nâng tỷ lệ ký quỹ vàng tương

lai, khủng hoảng thanh khoản ở các ngân hàng châu Âu, sự mạnh lên của đồng USD

và sự thay đổi trong nhận thức về vàng như tài sản an toàn. Tại châu Âu, khủng

hoảng nợ công bùng nổ tại Hy Lạp lan sang các quốc gia khác trong khu vực, kể cả

các nền kinh tế lớn như Tây Ban Nha, Ý, Pháp. Châu Âu phải nhờ đến sự hỗ trợ của

IMF để hạ nhiệt cơn khát vốn của hệ thống ngân hàng châu Âu và giải quyết khủng

hoảng nợ ngày một nghiêm trọng tại nhiều quốc gia thành viên.

Giá vàng thế giới có tháng giao dịch đầu năm 2012 ấn tượng sau khi trải qua

tháng 12 giảm giá hơn 10%. Chốt phiên 31/1, giá vàng ở mức 1.636,7 USD/oz, tăng

11%- mức tăng mạnh nhất từ tháng 8/2011 và là tháng khởi đầu năm tốt nhất trong

30 năm. Đồng USD mạnh lên so với Euro khiến vàng chịu áp lực. Tuy nhiên, những

bất ổn kinh tế thế giới năm 2012, tâm điểm là khủng hoảng nợ châu Âu, giúp vàng

phát huy vai trò nơi trú ẩn an toàn cho NĐT và NHTW các nước. Ngành khai thác

vàng trong năm gặp sóng gió do các cuộc đình công vũ trang quy mô lớn tranh chấp

tiền lương tại Nam Phi. Sản lượng vàng Nam Phi giảm 50% do gián đoạn sản xuất.

Trong khi đó, còn thách thức lớn hơn là khai thác ngày càng khó khăn, trữ lượng

mỏ cạn kiệt, số mỏ vàng phát hiện ngày càng ít, chi phí thăm dò kỷ lục. Chủ tịch

ECB cho biết sẽ ngăn chặn việc giải tán khu vực đồng tiền chung. Cùng lúc, Chủ

tịch FED cũng đề ra kế hoạch kích thích kinh tế Mỹ ở tất cả các ngành. Các NĐT lo

ngại nỗ lực này dẫn tới một khối lượng tiền lớn được in đẩy vào thị trường, dẫn tới

lạm phát tăng. Chính trị căng thẳng trong tam giác Iran- Mỹ- Israel, nguy cơ bất ổn

Trung Đông, dấu hiệu chiến tranh khu vực Thái Bình Dương, tranh chấp giữa Trung

Quốc và Nhật Bản... khiến kinh tế thế giới rơi vào giai đoạn nhạy cảm. Những nước

tăng dự trữ vàng nhiều nhất năm này là Brazil, Iraq, Hàn Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ...

WGC ước tính các NHTW mua vào khoảng 534,6 tấn vàng năm 2012 nhằm đa

dạng hóa dự trữ ngoại hối, giảm phụ thuộc vào USD trong bối cảnh kinh tế bất ổn.

Cũng trong năm, FED tung gói nới lỏng tiền tệ lần 3 (QE3) và NHTW nhiều nước

tăng cường kích thích kinh tế, là động lực lớn đẩy giá vàng tăng. Lượng vàng nắm

-46-

giữ bởi các quỹ tín thác tăng mạnh 12%, lên 2.630,9 tấn phiên ngày 21/12. Cầu tăng

mạnh, giá vàng theo đó được đẩy cao. Theo WGC, mức giá cao nhất năm đạt

1.791,8 USD/oz ngày 5/10 khi ECB cam kết mua trái phiếu cứu trợ các nước

Eurozone khỏi nguy cơ vỡ nợ và thấp nhất năm ngày 2/1, tại 1.531 USD/oz. Dù có

nhiều phiên dậy sóng, năm 2012, giá vàng chưa một lần vượt mốc 1.800 USD/oz.

Tuy nhiên, lực mua của các NHTW và NĐT không duy trì được giá vàng ở mức cao

bền vững, nhất là từ tháng 11. Giá vàng giảm những ngày cuối năm do nhu cầu

vàng quý 3/2012 giảm tới 11%, mức thấp nhất từ năm 2009, chủ yếu do kinh tế tăng

chậm dần tại Trung Quốc làm giảm 8% nhu cầu nữ trang và đầu tư vàng tại nước

này và nhu cầu vàng tại Ấn Độ giảm khoảng 19% so với năm trước do chính phủ áp

dụng nhiều biện pháp giảm nhập khẩu vàng, giá vàng tính theo Rupee tăng kỷ lục.

Chốt phiên giao dịch ngày 31/12/12 tại New York, giá vàng ở mức 1.675 USD/oz,

tăng gần 7% so với mức chốt năm 2011, tăng năm thứ 12 liên tiếp, tuy nhiên, mức

tăng thấp nhất từ năm 2008. So với các kênh đầu tư khác, vàng cho thấy khả năng

sinh lợi khiêm tốn hơn trong năm 2012. Chẳng hạn, chỉ số S&P 500 của TTCK Mỹ

năm qua tăng được 13,4%, các kim loại quý khác cũng tăng giá khá mạnh:

palladium tăng gần 10%, bạc tăng 9%, bạch kim tăng 8%.

Năm 2013 dự báo là năm nhiều áp lực cho TTV, khá nhiều thử thách với đà

tăng giá vàng. Vàng đã đối diện với 2 quý khó khăn, đặc biệt là tháng 4 và tháng 6

dưới tác động của đà bán tháo của các quỹ tín thác vàng. Đầu tháng 2, giá vàng ở

1.659,8 USD/oz, theo xu hướng giảm với lo lắng lực cầu tại Ấn Độ suy yếu khi

NHTW nước này hạn chế số lượng và giá trị nhập vàng bởi điều kiện tài chính khó

khăn. Dầu thô giảm mạnh, đà tăng giá của USD xuất phát từ số liệu kinh tế bi quan

của châu Âu và TTCK Mỹ khởi sắc khiến NĐT rời xa vàng. Thêm vào đó, giá vàng

cũng trượt mạnh khi kế hoạch bán 10 tấn vàng cứu hệ thống ngân hàng của đảo Síp

được tiết lộ vào 10/4, cùng áp lực bán ra một phần dự trữ vàng của những quốc gia

châu Âu nặng nợ khác như Italy và Bồ Đào Nha. Ngày 12/4, giá vàng thủng mốc

1.500USD/oz, và tiếp tục giảm khá sâu, ngày 16/4, còn 1.337,9 USD/oz, thấp nhất

trong 2 năm, là mức giảm mạnh nhất 30 năm qua. Nguyên nhân chính khiến giá

-47-

vàng giảm sâu bởi NĐT ồ ạt bán tháo và các quỹ thanh lý trạng thái. So với mức

cao kỷ lục tháng 9/2011, giá vàng đã giảm 28% và mất 20% từ cuối năm trước.

Pháp trượt sâu vào suy thoái quý đầu năm 2013, trong khi báo cáo tại Đức cho thấy

nền kinh tế chủ lực này không đủ sức vực dậy khối đồng tiền chung châu Âu, EUR

mở rộng đà giảm với USD, kéo theo sự mất giá của vàng. USD lên cao nhất 9 tháng

so với tiền tệ chủ chốt khiến vàng chịu sức ép lớn, USD nổi lên như tài sản đầu tư

chất lượng, trong khi vàng không thể phát huy ưu thế trong môi trường giảm phát.

Đến 4/6, vàng lại chịu áp lực giảm giá khi có thông tin bất lợi từ thị trường tiêu thụ

vàng lớn nhất thế giới- NHTW Ấn Độ tung thêm biện pháp hạn chế nhập khẩu kim

loại này. Lực mua tại Trung Quốc không thể xoa dịu lo lắng về khả năng FED chấm

dứt chương trình kích thích tiền tệ. Tuy nhiên, hoạt động bán tháo vàng của GETFs

mới là nguyên nhân chính khiến giá vàng giảm mạnh. Lượng vàng bán ra bởi

GETFs lập kỷ lục 8,8 tỷ USD trong tháng 4, và 6 tỷ USD tháng 5. Theo Exchange

Traded Gold, ngày 19/6, SPDR Gold Trust bán thêm 2,1 tấn vàng, nâng tổng lượng

vàng bán ra lên 351,3 tấn, giảm 26% lượng nắm giữ. Giá vàng thế giới lao dốc hơn

5% xuống thấp nhất 3 năm qua chỉ trong vòng một ngày sau khi FED tuyên bố có

thể ngừng hẳn gói nới lỏng tiền tệ năm 2014, một trong những phiên giảm giá mạnh

nhất từ khủng hoảng kinh tế 2008. Giá vàng đã giảm tổng cộng 30% từ mức kỷ lục

1.920,3 USD/oz vào tháng 9/2011. Ngày 26/6, giá vàng rớt thẳng đứng còn 1.255,9

USD/oz, và tiếp tục rơi xuống 1.190,4 USD/oz ngày 28/6. Giá vàng chịu sức ép

giảm mạnh khi USD tăng giá phiên thứ 5 liên tiếp so với các tiền tệ chủ chốt, cùng

với việc chỉ số niềm tin tiêu dùng tháng 6 của Mỹ tăng lên 81,4 điểm, vượt mọi dự

báo và cao nhất từ tháng 1/2008. Tính chung cho quý 2 năm nay, giá vàng giảm

tổng cộng 23%.

2.2.2. Biến động giá vàng trên thị trƣờng Việt Nam từ năm 2008 đến

nay:

2.2.2.1. Đơn vị đo lường và cách quy đổi giá vàng thế giới và trong nước:

 Đơn vị yết giá (thông thường) trên thế giới: USD/ounce (USD/oz)

 Đơn vị yết giá ở Việt Nam: VND/lượng, VND/chỉ

-48-

 Công thức quy đổi giá vàng từ USD/Ounce thành đơn vị tính VND/lượng:

Giá vàng quy đổi (VND/lượng) = Giá vàng thế giới (USD/oz) * 1,20556 *

Tỷ giá USD/VND

 Gía vàng Việt Nam có tính các khoản thuế và phí:

Giá 1 lượng vàng = (Giá vàng thế giới + chi phí vận chuyển + phí bảo hiểm)

* (1+ thuế nhập khẩu) * 1,20556 * tỷ giá USD/VND + phí gia công + phí hải quan

2.2.2.2. Phân tích biến động giá vàng và diễn biến thị trường vàng Việt Nam

từ năm 2008 đến nay:

Từ năm 1999, hoạt động KDV được thực hiện theo quy định tại Nghị định

174/1999/NÐ-CP ngày 9/12/1999 của Chính phủ. Trước năm 2008, giá vàng thế

giới không có biến động lớn nên hoạt động KDV trong nước diễn ra trầm lắng.

Nhưng từ năm 2008 trở lại đây, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng, các bất ổn kinh tế vĩ mô làm

gia tăng nhu cầu nắm giữ vàng, TTV thế giới biến động mạnh và diễn biến khó

lường, làm cho TTV trong nước biến động rất mạnh và kéo theo nhiều hệ luỵ.

Đồ thị 2.8: Biến động giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam từ năm 2008

đến tháng 6/2013

Nguồn: gafin.vn

Ngày 8/1/08, giá vàng thế giới lên mức 890 USD/oz thì trong nước đạt 17,05

triệu đồng/lượng. Cuối tháng 2 được ghi nhận là thời điểm lịch sử của giá vàng thế

giới lẫn Việt Nam. Ngày 29/2, TTV trong nước tăng tốc mạnh và thiết lập mức 19,1

-49-

triệu đồng/lượng, khiến giới đầu tư cũng như người dân phản ứng thận trọng. Khác

với những đợt tăng giá trước, sức mua vàng miếng không tăng vì giá đã quá cao.

Ngày 18/3, FED cắt giảm lãi suất chiết khấu còn 2,25%, giới đầu tư bán vàng bù lỗ

cho danh mục đầu tư chứng khóan, gía vàng thế giới giảm mạnh, giá vàng trong

nước cũng giảm theo. Ngày 20/3, vàng thế giới giảm tương đương 1,5 triệu

đồng/lượng kéo giá vàng trong nước giảm 1 triệu đồng/lượng trong một đêm. Ngày

23/3, vàng SJC bán ra 17,95 triệu đồng/lượng. Giá vàng trong nước luôn cao hơn

thế giới gần 500.000 đồng/lượng, cách biệt giữa giá mua và bán rất cao, thường là

150.000-200.000 đồng/lượng bởi lo sợ giá vàng biến động bất ngờ và Việt Nam

nhập khẩu trên 95% nhu cầu tiêu thụ vàng. Qua tháng 8, do tin tức ổn định từ Mỹ và

các quỹ đầu tư bán vàng mạnh bù đắp chứng khoán thua lỗ, vàng lao dốc không

phanh, khiến giá vàng trong nước rớt thảm hại, chỉ còn 16,2 triệu đồng/lượng ngày

12/9. Trong quý 3, khi cầu vàng trong nước tăng cao, Nhà nước lại ngừng cấp phép

nhập khẩu, khiến giá vàng trong nước liên tục cao hơn giá vàng thế giới. Giá vàng

trong nước dao động trong khoảng 16,5-17 triệu đồng/lượng, giữ khoảng cách cao

hơn giá vàng thế giới khoảng 100.000 đồng/chỉ.

Năm 2009 là năm giao dịch khá sôi động khi liên tục ghi nhận những đỉnh

cao mới của giá vàng thế giới cũng như giá vàng trong nước. Dưới tác động của giá

vàng thế giới, giá vàng trong nước biến động liên tục, tăng nhanh và mạnh chưa

từng có, thiết lập những mốc giá cao và kỷ lục khoảng chênh lệch lớn giữa giá vàng

trên hai thị trường. Thừa hoặc thiếu cung vàng là lý do chính các công ty kim hòan

đưa ra để lý giải sự vênh giá này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng đây là kết quả

của họat động ghìm hoặc thổi giá của giới đầu cơ. Sự lên xuống của tỷ giá

USD/VND trên thị trường tự do cũng là nguyên nhân quan trọng khiến giá vàng

trong nước không tăng giảm cùng biên độ với giá thế giới, thậm chí biến động

ngược chiều. Giữa quý 1, người dân liên tục bán vàng trong khoảng 19-20 triệu

đồng/lượng để chốt lời, các doanh nghiệp mạnh tay gom mua xuất khẩu khi giá

vàng trong nước thấp hơn giá thế giới 1,5 triệu đồng/lượng. Quý 2 và 3, TTCK và

nhà đất phục hồi, TTV trong nước vẫn trầm lắng, giá vàng lần lượt đạt các mốc 21,

-50-

22 triệu đồng/lượng. Nhiều NĐT vay vàng để bán, dự tính khi giá xuống mua vào

trả nợ. Đến quý 4, giá vàng lên 24-25 triệu đồng/lượng, hoạt động này vẫn diễn ra.

Khi giá vàng đạt 26 triệu đồng/lượng, nhiều người mua vàng để thanh toán số vàng

đã vay nhằm cắt lỗ, dẫn đến cung vàng trong nước khan hiếm trong khi NHNN

chưa cho phép nhập khẩu vàng. Bên cạnh đó, việc các NHTM tận dụng tối đa lợi

thế tài khoản vàng ở nước ngoài, vừa bán trong nước/mua nước ngoài, vừa cho vay

lại (thực chất bên vay chủ yếu đổ tiếp vào sàn vàng), NHNN lại thiếu kiểm tra, giám

sát chặt chẽ trạng thái vàng của các NHTM khiến TTV càng trở nên phức tạp, khó

kiểm soát. Ngày lịch sử của thị TTV trong nước năm 2009 là 11/11, giá vàng chinh

phục mốc 29 triệu đồng/lượng chỉ trong vài giờ, dù giá vàng thế giới chỉ tăng 15

USD/oz, khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới trên 3,8 triệu

đồng/lượng. Trước những diễn biến bất thường của TTV trong nước, NHNN quyết

định cho nhập khẩu vàng với số lượng không hạn chế (theo WGC là 10 tấn) nhằm

bình ổn TTV sau hơn 1,5 năm ngừng cấp phép nhập khẩu. Quyết định được công bố

chiều ngày 11/11 có tác động tích cực và kịp thời với cơn sốt vàng. Sau khi nguồn

cung được giải quyết, giá vàng tiếp tục có những biến động mạnh do xu hướng tăng

mạnh của tỷ giá USD thị trường tự do, NHNN đã nâng mạnh tỷ giá USD/VND liên

ngân hàng và thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% về +/-3% vào ngày 25/11. Ngày

24/12, giá vàng đạt mức 26,5 triệu đồng/lượng so với mức gần 18 triệu đồng/lượng

đầu năm, tăng 8,5 triệu đồng/lượng, tương đương 47%.

Gía vàng năm 2010 diễn biến theo hình răng cưa với chiều đi lên là chủ đạo

và liên tiếp phá các kỷ lục, cả phạm vi trong nước và quốc tế. Trong tháng 1/2010,

giá vàng tăng 53,89% so với tháng 1/2009, ở mức 26,5 triệu đồng/lượng. Từ đầu

năm đến hết tháng 4/2010, giá vàng trong nước gần như đi ngang quanh trục 26,5

triệu đồng/lượng. Cùng với xu hướng của giá vàng quốc tế, giá vàng trong nước bắt

đầu tăng mạnh từ đầu tháng 5 với mức trên 28 triệu đồng/lượng và duy trì tới giữa

tháng 8. Từ tháng 6, TTV trong nước nghiêng về hoạt động bán ra và các doanh

nghiệp gom mua vàng xuất khẩu vì giá vàng trong nước thấp hơn giá thế giới quy

đổi tới 1 triệu đồng/lượng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, trong 6

-51-

tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu vàng đạt 1,34 tỷ USD, tương đương

khoảng 36 tấn vàng, trong khi số vàng nhập khẩu hầu như không đáng kể. Cuối

tháng 9/2010, giá vàng có thời điểm lên tới 31,5 triệu đồng/lượng, cao hơn thế giới

400-500 ngàn đồng/lượng, một phần do chênh lệch cung cầu vàng trong nước. Thời

gian này, NHNN tuyên bố không thay đổi tỷ giá hối đoái chính thức 18.932

VND/USD đến hết tháng 1/2011 càng làm thị trường ngọai hối căng thẳng do chênh

lệch giữa thị trường chính thức và thị trường tự do khỏang 2.000 VND/USD. Hiện

tượng thu gom USD trên thị trường tự do để nhập lậu vàng đã xuất hiện trong khi

NHNN vẫn chưa cấp quota nhập khẩu vàng chính thức. Tháng 10 và 11, được sự hỗ

trợ từ giá vàng quốc tế và giá USD thị trường tự do lập đỉnh 21.600 VND/USD, giá

vàng trong nước lần lượt đạt từ 32 tới 38 triệu đồng/lượng. Tháng 11/2010, có thời

điểm giá vàng thế giới giảm, giá trong nước lại không ngừng tăng, có lúc tốc độ

tăng giá gấp nhiều lần so với thế giới. Đặc biệt, từ 29/10/10, khi Thông tư

22/2010TT-NHNN siết hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của các

NHTM được ban hành, các doanh nghiệp kim hoàn gặp khó khăn khi không được

vay vàng từ ngân hàng. Thông tư quy định các TCTD chỉ được huy động vốn bằng

vàng dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá; không được cho vay để sản xuất và

KDV miếng; không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các

hình thức bằng tiền khác, đối với số vốn bằng vàng đã chuyển đổi thành tiền trước

đây cần giảm dần và tất toán chậm nhất vào 30/6/11. Do tác động của yếu tố tâm lý,

người dân đẩy mạnh mua vàng tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ vàng đẩy giá

vàng tăng chóng mặt. Thông tư này đã góp phần tăng nhu cầu vàng miếng trên thị

trường của các NHTM có huy động vốn bằng vàng, tiếp tục làm căng thẳng thêm

tình trạng mất cân đối cung- cầu vàng, đẩy chênh lệch giá vàng trong nước và thế

giới lên hàng triệu đồng mỗi lượng. Chênh lệch lớn thường xuyên xuất hiện là đặc

điểm đáng chú ý của TTV năm 2010. Giá vàng ngày 9/11/10 tăng vài triệu

đồng/lượng trong một buổi sáng, đạt mức 38,5 triệu đồng/lượng, trong khi thế giới

điều chỉnh. Cầu vàng tăng một phần do các NHTM tăng lãi suất huy động vàng,

cùng tình hình lạm phát có xu hướng tăng, lãi suất ngân hàng tăng mạnh ở cả đầu

-52-

huy động và cho vay, trong khi NHNN phải lựa chọn tăng lãi suất để kiềm chế lạm

phát, niềm tin vào VND suy giảm và lợi nhuận cao từ KDV do chênh lệch giá trong

và ngoài nước, chênh lệch tỷ giá USD trên thị trường tự do và chính thức. Để giải

quyết cơn sốt giá ảo do yếu tố đầu cơ, trưa cùng ngày, NHNN tuyên bố cho phép

nhập khẩu vàng. Với biện pháp can thiệp mạnh tay của cơ quan chức năng, giá vàng

nhanh chóng sụt giảm và tương đối bình ổn dưới 36 triệu đồng/lượng trong tháng

12, tuy vẫn cao hơn thế giới nửa triệu đồng/lượng.

Đầu năm 2011, giá vàng trong nước khởi động ở 35,8 triệu đồng/lượng khi

giá thế giới dao động quanh 1.370 USD/oz. Tháng 2, giá vàng trong nước liên tục

vượt các mức 37, 38,5 triệu đồng/lượng, do tỷ giá VND/USD thị trường tự do tăng

mạnh từ 22.000 đến 22.500 VND/USD. Năm này, giá vàng trong nước hầu như

biến động cùng chiều giá thế giới. Cụ thể, tháng 3, khi giá thế giới giảm còn

1.400USD/oz, giá vàng trong nước cũng dưới mức 37 triệu đồng/lượng. Đầu tháng

4/2011, giá thế giới đến mốc 1.550 USD/oz thì giá Việt Nam cũng vượt mốc 38

triệu/lượng. Ngày 8/8/11, giá vàng thế giới tăng mạnh lên sát 1.700 USD/oz, giá

vàng Việt Nam lên 44,2 triệu đồng/lượng, cao hơn giá thế giới 2 triệu đồng/lượng.

Ngày 23/8/11, giá vàng thế giới vượt 1.900 USD/oz và giá vàng trong nước cũng

vượt 49 triệu đồng/lượng. Sang 24/8, giá vàng xuống 47,6 triệu đồng với mức giảm

gần 1,5 triệu đồng/lượng khi giá thế giới giảm mạnh xuống 1.820 USD/oz. Cuối

tháng 9/2011, TTV Việt nam chứng kiến cảnh người dân đổ xô bán vàng khi giá

vàng lao dốc xuống 41 triệu đồng/lượng. Cuối tháng 10/2011, giá vàng thế giới đảo

chiều tăng lên 1.700 USD/oz khiến vàng trong nước tăng đạt 45 triệu đồng/lượng.

Việc giá vàng trong nước biến động liên tục đã gây những hệ lụy không nhỏ, người

dân đổ xô theo giá vàng, cầu vàng trong nước không ngừng tăng, kéo theo sự gia

tăng của giá cả hàng hóa. Sự hỗn loạn của TTV trong nước giai đoạn này không

chỉ phản ánh động thái chung thị trường thế giới, mà còn liên quan đến sự thao

túng của giới đầu cơ, gây nhiễu loạn giá cả trên thị trường, có ngày giá vàng thay

đổi tới 42 lần (ngày 9/8/11). Cầu lớn hơn cung làm cho giá vàng trong nước tăng

cao so với thế giới, dẫn đến tình trạng buôn lậu vàng diễn ra ở diện rộng, làm cầu

-53-

ngoại tệ trên thị trường tự do tăng mạnh, đẩy tỷ giá thị trường tự do tăng theo, một

mặt gây áp lực phá giá đồng nội tệ, mặt khác gây áp lực buộc NHNN cho phép nhập

vàng, tạo vòng xoáy lẩn quẩn giữa vàng- ngoại tệ, gây nên tình trạng bất ổn tăng

cao. Để giảm nhiệt cho TTV, 9/11/11, NHNN cho phép nhập khẩu vàng. Năm 2010,

NHNN đã nhiều lần cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng bình ổn giá, nhưng dường như

lượng vàng nhập khẩu (17.550 kg, trị giá 712.524.000USD) chẳng thấm vào đâu so

với nhu cầu đầu cơ trong nước ngày càng tăng. Việc NHNN liên tục cấp hạn ngạch

nhập khẩu vàng đã giúp tăng lượng cung vàng trên thị trường, thu hẹp khỏang cách

cung cầu, rút ngắn chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới. Ngòai ra, Nhà

nước còn tác động đến chính sách thuế xuất nhập khẩu vàng thông qua thuế suất

thuế xuất nhập khẩu. Đầu năm 2011, thuế nhập khẩu vàng giảm từ 1% xuống 0%,

trong khi thuế xuất khẩu vàng tăng từ 0% lên 10%, nhằm giúp giảm giá vàng nhập

khẩu, tăng giá vàng xuất khẩu để hạn chế tình trạng xuất khẩu vàng, góp phần giảm

tình trạng bất cân xứng cung cầu vàng. Đồng thời, NHNN cho phép các ngân hàng

lớn cùng SJC tham gia bình ổn giá vàng trong nước, được chuyển đổi tối đa 40%

lượng vàng tồn quỹ sang VND và mở tài khoản ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro

biến động giá vàng. Những chính sách này đã phần nào kiểm sóat được tình trạng

tăng cao của giá vàng trong nước, sau một năm biến động mạnh, giá vàng dao động

quanh 42 triệu đồng/lượng. Năm 2011 là năm NHNN sử dụng nhiều biện pháp hành

chính để can thiệp trực tiếp nhằm bình ổn thị TTV. Cụ thể, ngày 29/4/11, NHNN

ban hành Thông tư 11/2011/TT-NHNN chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng

vàng của các TCTD, chấm dứt hiệu lực thi hành của Thông tư 22/2010/TT-NHNN.

Từ 1/5/11, các TCTD chỉ được phép phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng để

đáp ứng nhu cầu chi trả vàng khi thiếu hụt, và sẽ chấm dứt vào ngày 1/5/12 (sau gia

hạn đến 25/11/12). Tuy nhiên, tác động của Thông tư này không mấy rõ ràng và

hiệu quả duy trì không lâu, các NHTM với số dư huy động, cho vay quá lớn và

trạng thái vàng âm trong nước, nhưng không được nhập khẩu vàng vật chất, khỏang

cách giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn còn khá rộng (1,5-1,7 triệu

đồng/lượng), vượt xa kỳ vọng của Thống đốc NHNN (0,4 triệu đồng/lượng).

-54-

Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của TTV, Nghị định 174 đã bộc lộ nhiều

hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với tình hình thị trường. Năm 2012, TTV Việt

Nam có nhiều biến động không chỉ về giá, cung cầu mà còn đón nhận nhiều quyết

sách từ cơ quan quản lý, dù hiệu lực của chính sách chưa thực sự khả quan. Ngày

3/4/12, Thủ tướng ban hành Nghị định 24/2012 NĐ-CP về quản lý KDV, hiệu lực

thi hành từ ngày 25/5/12, thay thế Nghị định 174 và Nghị định 64/2003/NĐ-CP

ngày 11/6/03 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 174. Nghị định này được

đưa ra nhằm chấn chỉnh lại TTV, hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, sắp

xếp lại một cách cơ bản thị trường vàng miếng, bảo đảm khả năng điều tiết, nâng

cao vai trò quản lý thị trường của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho các NĐT, và

huy động nguồn vốn khổng lồ trong dân phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,

và ổn định giá vàng trong nước, đảm bảo TTV hoạt động ổn định, lành mạnh và

minh bạch, không để một bộ phận thao túng vàng trên thị trường, đẩy giá lên quá

cao, không để biến động giá vàng làm ảnh hưởng tới tỷ giá, từ đó ổn định kinh tế vĩ

mô. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa thấy kết quả khả quan, rõ rệt nào từ việc triển

khai Nghị định này. Ngày 27/4/12, NHNN ban hành Thông tư 12/2012/TT-NHNN

quy định chấm dứt phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng và hiệu lực thi hành

của Thông tư 32/2011/TT-NHNN. Điều này tác động không nhiều đến TTV, nhưng

lại dẫn đến biến tướng trong hoạt động huy động vốn bằng vàng của các TCTD- các

NHTM nhận giữ hộ vàng cho khách, khách hàng không trả phí, mà còn được ngân

hàng nhận giữ hộ trả tiền.

Năm 2012, giá vàng trong nước cũng chịu ảnh hưởng của giá vàng thế giới

nhưng phần lớn lại được điều chỉnh dưới tác động của chính sách điều hành. Giá

vàng SJC chốt năm 2012 là 46,3 triệu đồng/lượng. Trong năm, thị trường ghi nhận

hai cơn sốt vào tháng 8 (giá vàng trong nước tăng do giá vàng thế giới tăng) và

tháng 11 (do các NHTM đóng trạng thái vàng). Cụ thể, đầu tháng 8/2012, dòng tiền

ồ ạt đổ vào TTV đẩy giá vàng tăng nhanh từng ngày, trái ngược tình cảnh ảm đạm

của các kênh đầu tư khác, vượt mốc 43 triệu đồng/lượng trong thời gian ngắn rồi

đứng ở mức cao, không theo diễn biến giá vàng thế giới. Cuối tháng 10 sang tháng

-55-

11, giá trong nước lập đỉnh trong năm đạt xấp xỉ 48,5 triệu đồng/lượng. Nguyên

nhân cơ bản do các NHTM đẩy mạnh mua vào chạy trước thời hạn 25/11/12 theo

Nghị định 24, khiến thị trường khan hiếm, đẩy giá tăng. Tuy nhiên, cùng với đà sụt

giảm mạnh của giá vàng thế giới, tốc độ tăng giá vàng tại Việt Nam đã chậm lại rất

nhiều so với hơn một thập kỷ trước, nhưng chênh lệch giá vàng trong nước cao hơn

thế giới từ nhiều năm nay vẫn chưa được xử lý triệt để, trái lại còn trầm trọng hơn.

Nếu cộng cả phí chế tác và gia công vàng, các loại thuế và phí liên quan thì giá

vàng trong nước cũng chỉ chênh so với giá thế giới 1%. Mức chênh 4,5 triệu

đồng/lượng (tương đương 9,8%) như phiên giao dịch ngày 20/12/12 là bất thường.

Sự chênh lệch này hoàn toàn đi ngược mục tiêu của Nghị định 24 là bình ổn TTV

trong nước, chống đầu cơ làm giá đối với mặt hàng nhạy cảm này.

Đồ thị 2.9: Tốc độ tăng giá vàng tại Việt Nam qua các năm 2002-2012

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Điểm cần chú ý đặc biệt với TTV năm 2013 tiếp tục là khoảng cách chênh

lệch cao bất thường giữa giá vàng trong nước và thế giới, do gián đoạn nguồn cung

bởi chính sách kiềm chế nhập siêu, kiểm soát lạm phát. Giá vàng SJC ngày 13/3/13

ở mức 44 triệu đồng/lượng, trong khi giá vàng thế giới quanh mốc 1.592,77

USD/oz, thấp hơn giá SJC gần 3,6 triệu đồng/lượng, quá cao so với kỳ vọng việc

NHNN khẳng định kéo giá vàng SJC xuống sát giá vàng thế giới khi chính thức

tham gia thị trường. Ngày 15/4/13, khi vàng thế giới mất hơn 80 USD/oz bởi hoạt

động bán tháo ồ ạt của NĐT, vàng trong nước chỉ giảm 1 triệu đồng/lượng. Do

giảm quá chậm, khoảng cách giữa hai thị trường tiếp tục duy trì ở mức cao, khỏang

5,3 triệu đồng/lượng. Khoảng cách giá bán ra– mua vào cũng được nới rộng lên 500

-56-

nghìn đồng/lượng. Đến 16/4, giá vàng thế giới giảm mạnh nhất trong 30 năm qua

khiến giá vàng SJC mất hơn 2 triệu đồng/lượng, tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch

giữa hai thị trường lên kỷ lục 6 triệu đồng/lượng. Tính đến 17/4, sau 8 phiên đấu

thầu vàng miếng, NHNN đã cung ứng cho thị trường 223.600 lượng vàng, tương

đương 8,6 tấn vàng. Theo NHNN, việc này về cơ bản sẽ tăng cung vàng miếng, góp

phần cân bằng cung– cầu và từng bước ổn định TTV. Ngày 5/6/13, bất chấp những

biến động khá mạnh của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước tiếp tục đi ngang

trên ngưỡng 41 triệu đồng/lượng. Giá vàng trong nước nhìn chung vẫn diễn biến

cùng chiều với thế giới, nhưng chỉ phản ánh một phần mức biến động của giá vàng

thế giới. Ngày 21/6, ảnh hưởng từ mức giảm mạnh trên thị trường thế giới, giá vàng

SJC về mức thấp nhất 2 năm qua, 38,7 triệu đồng/lượng. Dù điều chỉnh giảm mạnh

nhưng khoảng cách giữa hai thị trường bị đẩy lên mức 6,5 triệu đồng/lượng. Giá

vàng giảm làm tăng nhu cầu mua vàng của người dân, tình trạng xếp hàng mua

vàng lại tái diễn. Ngày 28/6 là ngày đấu thầu bán vàng miếng cuối cùng của NHNN

trước thời hạn tất toán vàng 30/6/13 của các NHTM. Thống kê từ NHNN, từ

28/3/13 đến 28/6/13, qua 37 phiên đấu thầu, NHNN đã bán ra 957.000 lượng (tương

đương 36,8 tấn vàng)/1.058.000 lượng chào thầu.

Ngày 2/7/13, dù đã giúp các ngân hàng tất toán xong trạng thái, NHNN vẫn

tiếp tục chào bán 40.000 lượng vàng cho phiên thứ 38 nhằm bình ổn thị trường.

NHNN cho biết sẽ giữ vai trò điều tiết, nếu thị trường có nhu cầu thì tiếp tục tổ

chức đấu thầu bán vàng ổn định, còn nếu thị trường thừa vàng, với vai trò là người

mua bán cuối cùng, NHNN sẽ mua vào để bổ sung dự trữ ngoại hối. Kết quả phiên

này, gây bất ngờ cả về việc bán hết 40.000 lượng vàng và về giá bán, dù các TCTD

đã tất toán xong trạng thái. Giá trúng thầu cao nhất là 37,07 triệu đồng/lượng, thấp

nhất là 36,72 triệu đồng/lượng, cao hơn giá mua vàng trên thị trường từ 500 – 900

nghìn đồng/lượng. Ngày 4/7, giá vàng SJC giao dịch tại 37,6– 38,1 triệu

đồng/lượng, cao hơn 6 triệu đồng/lượng so với giá thế giới. Như vậy, dù đã qua thời

điểm tất toán huy động vàng của các NHTM nhưng giá vàng trong nước vẫn chưa

rút ngắn chênh lệch với giá vàng thế giới như kỳ vọng của nhiều chuyên gia. Tuần

-57-

đầu tháng 7/13, NHNN đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu với khối lượng lớn,

40.000 lượng/phiên, cho thấy quyết tâm bình ổn TTV. Sau 3 phiên này, NHNN

chào bán thành công 119.900 lượng vàng, cho thấy nhu cầu vàng miếng trên thị

trường vẫn ở mức cao, khả năng thẩm thấu tốt vàng đấu thầu dù lực mua vàng cho

nhu cầu tất toán của các TCTD không còn.

Thời gian qua, nhiều NHTM nhận giữ hộ vàng cho người dân, tuy nhiên,

không hoàn toàn đúng quy định hạch toán và giữ hộ. Do đó, NHNN đã có văn bản

yêu cầu các NHTM tạm ngưng cung cấp dịch vụ này để chờ hướng dẫn cụ thể.

Những NHTM có nhu cầu sẽ phải xin cấp phép của NHNN. Ngân hàng nào chưa

được NHNN cấp phép các dịch vụ quản lý, bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an

toàn, bao gồm cả dịch vụ giữ hộ vàng và còn số dư các khoản vàng giữ hộ của

khách tại thời điểm ngày 5/7/13 thì được tiếp tục giữ các khoản vàng giữ hộ đó cho

tới khi đến hạn thanh toán và được xem xét gia hạn theo đề nghị của khách hàng.

Trường hợp không còn khoản vàng giữ hộ của khách hàng tại thời điểm 5/7/13,

NHNN yêu cầu không được phép nhận mới các khoản vàng giữ hộ cho tới khi được

NHNN cấp phép.

2.3. Đánh giá thực trạng ổn định thị trƣờng vàng Việt Nam hiện nay:

2.3.1. Tích cực:

2.3.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội:

 Các chỉ số lạm phát, tỷ giá đã tương đối ổn định, được kiểm soát tốt hơn

so với thời gian trước, tuy vẫn chưa đủ làm thay đổi niềm tin của người dân vào

đồng nội tệ, thay đổi tâm lý tích trữ vàng trong dân.

2.3.1.2. Các yếu tố liên quan đến Chính phủ- luật pháp:

 Mạng lưới kinh doanh mua, bán vàng miếng có quản lý của Nhà nước

đã được thiết lập nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân với 38 TCTD,

doanh nghiệp được cấp phép và gần 2.500 địa điểm giao dịch ở tất cả 63 tỉnh, thành

phố trong cả nước, thực hiện đúng quy định về niêm yết công khai giá mua, giá bán

vàng miếng, chấp hành các quy định về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn,

-58-

chứng từ và thường xuyên được thanh tra, kiểm tra, hạn chế được những doanh

nghiệp và TCTD yếu tham gia vào lĩnh vực kinh doanh rủi ro này.

 Tuy không đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế

thị trường, nhưng với việc chọn SJC làm thương hiệu độc quyền, Nhà nước đã sản

xuất được ngay lượng vàng miếng cần thiết phục vụ cho thị trường với thời gian

ngắn và chi phí thấp hơn so với việc Nhà nước tự sản xuất, và tiết kiệm được chi phí

lớn cho xã hội vì không làm phát sinh nhu cầu chuyển đổi phần lớn vàng miếng trên

thị trường sang vàng miếng thương hiệu riêng của NHNN, đồng thời, ngăn chặn

việc sản xuất vàng miếng từ nguyên liệu vàng nhập lậu, góp phần chống nhập lậu

vàng.

 NHNN đã triển khai can thiệp ổn định TTV phù hợp với nhu cầu thực

tế của thị trường thông qua hình thức đấu thầu bán vàng miếng nhằm đảm bảo tính

công khai, minh bạch, bình đẳng về quyền lợi của các thành viên tham gia, không

bao cấp, không bù lỗ, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và bảo đảm lợi ích của

Nhà nước. Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới thu được qua

đấu thầu vàng miếng của NHNN được nộp cho ngân sách nhà nước, thay vì thuộc

về những tổ chức, cá nhân kinh doanh, đầu cơ vàng miếng.

 Quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng miếng hợp pháp của người dân

được đảm bảo.

2.3.1.3. Vấn đề cân bằng cung- cầu trên TTV, ổn định giá vàng:

 Sự mất cân đối về cung cầu vàng miếng đã được thu hẹp, giá vàng trong

nước đã sát hơn giá vàng thế giới, tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc nhiều vào

nguồn cung vàng đấu thầu từ NHNN, gây ra mối quan ngại về việc dự trữ ngoại hối

có thể bị ảnh hưởng, do phải sử dụng để nhập khẩu vàng.

 Tốc độ tăng giá vàng đã chậm lại rất nhiều so với hơn một thập

kỷ trước. TTV đã không còn các cơn sốt vàng gây bất ổn xã hội, không còn hiện

tượng người dân đổ xô đi bán mua vàng.

 TTV đã được sắp xếp lại một cách cơ bản, đã ngăn chặn được phần nào

biến động của giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô...

-59-

 Dù nhiều ý kiến e ngại khó thực hiện cấm thanh toán bằng vàng vì tập

quán lâu đời, nhưng thực tế sau thời gian Nghị định 24 hiệu lực, việc thanh toán

bằng vàng đã giảm mạnh, những niêm yết công khai hoàn toàn chấm dứt.

 Việc chấm dứt huy động, cho vay vốn bằng vàng của các TCTD về cơ

bản đã kết thúc và mang lại một số lợi ích quan trọng như: loại bỏ rủi ro liên quan

đến vàng ra khỏi hoạt động của TCTD, chấm dứt tình trạng vàng hóa chính thức

trong hệ thống TCTD, tăng cường ổn định tài chính, làm giảm tính hấp dẫn của

vàng miếng, giảm thiểu hoạt động đầu cơ quá mức vào vàng, chuyển quan hệ huy

động, cho vay vàng sang quan hệ mua, bán vàng từ đó chuyển hoá nguồn lực bằng

vàng sang VND để đưa vào sản xuất, kinh doanh hoặc tăng tiết kiệm thông qua tăng

tiền gửi VND tại hệ thống các TCTD.

2.3.1.4. Các yếu tố khác:

 Công nghệ thông tin tương đối phát triển, cập nhật tin tức thị trường

tương đối kịp thời và đầy đủ.

2.3.2. Hạn chế:

Bên cạnh những mặt tích cực trên, TTV Việt Nam hiện nay nhìn chung vẫn

còn nhiều bất ổn, thể hiện qua một số tồn tại như những vấn đề phát sinh từ tình

trạng kinh tế- xã hội chưa ổn định, các yếu tố liên quan đến quan điểm và chính

sách điều hành của Chính phủ, làm cho TTV Việt Nam có phần tách biệt so với thế

giới, cũng như tình trạng mất cân đối cung- cầu vàng trên thị trường và khoảng cách

chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới...

2.3.2.1. Tình hình kinh tế- xã hội:

 Tình hình kinh tế vĩ mô thời gian qua thiếu ổn định, tỷ lệ lạm phát tăng

làm lãi suất thực giảm, niềm tin của người dân vào giá trị Đồng Việt Nam giảm sút,

trong khi tốc độ tăng giá vàng cao làm vàng trở thành kênh đầu tư hấp dẫn, thúc đẩy

sự gia tăng cầu vàng. Bên cạnh người mua là cá nhân, tổ chức có nhu cầu đầu tư,

tích trữ vàng, một bộ phận khác tạo nên sự gia tăng lượng cầu chính là các NHTM,

do cần tất toán vàng vào thời điểm NHNN ấn định.

-60-

 TTCK đi xuống cùng với sự đóng băng của TTBĐS là một trong những

nguyên nhân làm cho vàng trở thành kênh đầu tư chính.

Đồ thị 2.10: Chỉ số Vnindex và khối lượng giao dịch từ 2008 đến 2012

Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM HOSE

Đây là một số yếu tố làm gia tăng cầu vàng trên TTV Việt Nam thời gian

qua. Cầu vàng trong nước tăng rất nhanh trong khi cung vàng tăng chậm, làm tình

trạng mất cân bằng cung- cầu càng trầm trọng, đẩy giá vàng trong nước tăng cao,

chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới ngày càng rộng. Theo một số

chuyên gia, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa giá vàng trong

nước và thế giới chính là tình trạng mất cân bằng cung-cầu nghiêm trọng tại TTV

Việt Nam.

2.3.2.2. Các yếu tố liên quan đến Chính phủ- luật pháp:

 Chính sách quản lý thiếu ổn định:

TTV trong nước thời gian qua không những chịu ảnh hưởng từ thực trạng bất

ổn vĩ mô, mà còn từ chính sách quản lý thị trường còn nhiều bất cập. Những bất cập

trong chính sách của Nhà nước làm những chính sách này không thể duy trì tác

động đến TTV, chỉ có tác dụng nhất thời, thay đổi chóng vánh, gây tâm lý bất an

cho ngừơi dân lẫn các đơn vị KDV, tác động tiêu cực lên cả phía cung và cầu vàng,

gia tăng tình trạng căng thẳng cung cầu trên thị trường. Cụ thể, cung vàng nước ta

được kiểm soát chặt, hoạt động nhập khẩu “nhỏ giọt” trong khi cầu vàng tăng đột

biến. Do phụ thuộc nguồn cung chưa được tự do hóa hoàn toàn, nên giá vàng trong

nước thường cao hơn, cũng như lên nhanh hơn, nhưng xuống chậm hơn so với giá

vàng thế giới. Một điều dễ thấy, thời gian trước, mỗi lần sốt giá, công cụ phổ biến

-61-

nhất được áp dụng là quota nhập khẩu, giá vàng dần ổn định, nhưng chỉ sau thời

gian ngắn, tình hình lại bất ổn, phức tạp. Biến động chính sách khiến doanh nghiệp

phản ứng không kịp, khó điều tiết cung cầu nên buộc phải giữ chênh lệch cao so với

giá thế giới, cả khoảng cách giữa giá mua và giá bán để an toàn.

Xem xét động thái của cơ quan làm chính sách và phản ứng TTV thời gian

qua cho thấy năng lực yếu kém của cơ quan quản lý, không lường trước được khả

năng phát triển của thị trường dẫn đến tình trạng hở đến đâu “vá” đến đó. Cụ thể,

thời gian trước, để các NHTM có công cụ phòng ngừa rủi ro trong huy động và cho

vay bằng vàng, ngày 18/1/06, NHNN ban hành quyết định 03/2006/QĐ-NHNN cho

phép KDV trên tài khoản ở nước ngoài và sàn giao dịch vàng cũng được đi vào hoạt

động tháng 5/2007. Đến năm 2009, NHNN đã cấp giấy phép KDV trên tài khoản ở

nước ngoài cho 19 đơn vị. Năm 2010, trước diễn biến phức tạp của TTV, NHNN

không cho phép các ngân hàng KDV tài khoản ở nước ngoài và chấm dứt hoạt động

của các sàn vàng từ 30/3/10. Đầu tháng 10/2011, NHNN lại phục hồi quy định cho

phép các TCTD đủ điều kiện được chuyển đổi lượng vàng tồn quỹ và mở tài khoản

vàng ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng. Ngày 27/4/12, NHNN lại

ban hành Thông tư 12/2012/TT-NHNN chấm dứt hiệu lực của Thông tư

32/2011/TT-NHNN ngày 6/10/11 và yêu cầu các TCTD tất tóan số vàng đã chuyển

đổi thành tiền, đóng tài khỏan vàng ở nước ngòai. Có thể thấy NHNN đã bị động

trước diễn biến của thị trường nên phải liên tục thay đổi chính sách quản lý. NHNN

không có cơ chế quản lý TTV mang tính hệ thống và bền vững, chỉ xử lý tình huống

trong trạng thái bị động. Về danh nghĩa, hầu hết các quy định đưa ra chỉ nhằm giải

quyết tình thế để bình ổn giá vàng, giúp các NHTM cân bằng trạng thái, hạn chế

nhập khẩu chính thức lẫn phi chính thức để hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán

nhằm ổn định tỷ giá. Một giải pháp mang tính căn cơ nhằm giải quyết tận gốc các

bất cập của TTV chưa được NHNN triển khai. Khi giá vàng biến động, NHNN luôn

trấn an và khuyến nghị người dân cẩn trọng khi mua bán vàng để tránh thiệt hại.

Tuy nhiên, thời gian qua, việc phản ứng sau thị trường cùng các quyết định mang

tính tình thế, ngắn hạn đã không thể củng cố niềm tin của người dân vào khả năng

-62-

điều hành của Chính phủ. Bất ổn giá vàng gây tâm lý bất ổn cho người dân, ảnh

hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Giá vàng càng xa giá thế giới, rủi ro càng

cao, tạo nên giá ảo do nhu cầu và tâm lý nhất thời của người tiêu dùng tạo sự khan

hiếm trong TTV. Khi giá vàng bất ổn thì người thiệt thòi trước là những người dân

thiếu thông tin, dễ bị kích động, các doanh nghiệp KDV nhỏ lẻ thiếu hệ thống

phòng vệ an toàn, hiệu quả, phán đoán thị trường theo thông tin truyền miệng.

Trong khi các doanh nghiệp lớn thỏa thuận với nhau đấy giá lên, tìm cách hạn chế

mua vào, giá mua thấp hơn giá thế giới, thậm chí các doanh nghiệp nhỏ cũng bị các

doanh nghiệp lớn ép giá, làm phân hóa lợi thế cạnh tranh giữa doanh nghiệp KDV

lớn và nhỏ.

Đề cập đến họat động KDV trên tài khỏan, đây là hình thức kinh doanh phù

hợp xu hướng quốc tế, làm giảm nhu cầu KDV vật chất và tạo kênh lưu thông hiệu

quả giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới, quan hệ thị trường trong nước

và quốc tế thể hiện đồng điệu và rõ nhất qua việc xác định giá trên sàn giao dịch

vàng. Tuy nhiên, thay vì thiết lập hành lang pháp lý đưa hoạt động này vào khuôn

khổ, Nhà nước lại dùng mệnh lệnh hành chính cấm đoán, không phù hợp với quy

luật thị trường, không tạo được hiệu ứng tích cực mà còn hình thành và phát triển

các sàn vàng chui gây nhiều tổn thất và bất ổn cho kinh tế vĩ mô. Biện pháp hành

chính này chỉ giải quyết được phần ngọn, trong khi nguồn cơn bên trong là quan hệ

cung cầu vàng đã không được quan tâm đúng mức. Đóng cửa hoạt động sàn giao

dịch vàng và cấm KDV trên tài khoản, TTV Việt Nam sẽ chuyển hoàn toàn sang

vàng vật chất, chủ yếu giao dịch mua bán vàng miếng như hiện nay, trong khi, nhu

cầu thực của thị trường đối với các loại hình giao dịch này rất lớn và phù hợp với xu

hướng hội nhập. Mặt khác, việc cấm sàn vàng và KDV tài khoản khiến cho thông

tin đầu tư bị hạn chế, tạo điều kiện cho đầu cơ làm giá trên TTV vật chất, ảnh

hưởng xấu đến giá vàng trong nước và việc quản lý TTV càng trở nên khó khăn.

Trên thế giới chỉ 20% là giao dịch vàng vật chất, chủ yếu chỉ bán vàng vật chất là

vàng nữ trang hàm lượng thấp; 80% giao dịch vàng tài khoản, trong khi Việt Nam

chủ yếu giao dịch vàng vật chất, đi ngược lại quy luật tất yếu của thế giới. Khi KDV

-63-

vật chất, các doanh nghiệp không tối đa hóa được lợi nhuận so với KDV tài khoản,

vì phải chịu các chi phí như: bảo quản, bảo hiểm, vận chuyển… Khi có sàn giao

dịch vàng, xã hội có thể hạn chế tình trạng mất an ninh, giảm thiểu rủi ro khi bảo

quản và vận chuyển, tạo lực mua và bán khá lớn cho TTV.

 Những quy định bất cập tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP:

Ngày 3/4/12, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt

động KDV, gồm 7 chương 23 điều, được ban hành nhằm khắc phục bất cập của các

quy định về quản lý hoạt động KDV, tạo cơ sở pháp lý để tổ chức lại TTV theo

hướng phát triển ổn định và bền vững, tăng cường quản lý đối với TTV, khắc phục

tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của người dân. Tuy nhiên, cơ chế quản lý mới vẫn còn những bất cập, chưa phù hợp

thông lệ quốc tế cũng như đặc thù của Việt Nam, chưa thể mang lại kết quả khởi sắc

cho TTV vốn dĩ quá nhiều bất ổn và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Nghị định xuất phát

từ động cơ chính sách tích cực, Chính phủ muốn quy TTV về một mối, đưa vào quy

củ và thuận lợi cho cơ quan quản lý, kỳ vọng sắp tới trên TTV Việt Nam chỉ có một

loại vàng SJC. Mặc dù mục tiêu của cơ chế mới là hợp lý nhưng Nhà nước lại dùng

mệnh lệnh hành chính định hướng thị trường, những quy định cụ thể có nguy cơ

làm phát sinh những tác động méo mó TTV khiến cho mục tiêu đề ra khó đạt được.

Cụ thể, khái niệm đưa ra ở Nghị định 24, điều 3 chương I chưa thật sự rõ ràng để

minh định giữa các loại vàng. Theo đó, vàng trang sức, mỹ nghệ là sản phẩm vàng

có hàm lượng từ 8 carat (tương đương 33,33%) trở lên, đã qua gia công chế tác để

phục vụ nhu cầu trang trí, mỹ thuật. Quy định này còn khe hở và dễ bị lợi dụng

trong thực tế khi các doanh nghiệp có thể sử dụng vàng 24 carat chế tác sơ sài nhằm

lách luật.

Theo các chuyên gia, cấu trúc TTV Việt Nam tạo thế độc quyền tự nhiên cho

thương hiệu vàng miếng SJC. Với 90% thị phần vàng miếng thuộc về SJC, thêm

vào đó, việc lựa chọn SJC làm thương hiệu vàng miếng quốc gia vô hình chung tạo

quyền lực thị trường cho thương hiệu này, tạo thế độc quyền Nhà nước. Vàng SJC

được sử dụng như chuẩn mực để định giá trong mua bán, trao đổi vàng ở thị trường

-64-

trong nước. Gía niêm yết SJC trở thành cơ sở tham chiếu cho các thương hiệu vàng

miếng phi SJC. Giữa các thương hiệu vàng miếng, sự khác biệt chỉ tồn tại ở phương

diện thương hiệu, còn chất lượng và mẫu mã thì hầu như không khác biệt. Với mục

đích cất trữ và đầu tư, loại trừ yếu tố thương hiệu, vàng miếng của các công ty khác

nhau có thể thay thế hoàn toàn cho nhau; việc người mua lựa chọn thương hiệu nào

phụ thuộc sở thích và sự thuận tiện trong quá trình giao dịch. Việc SJC trở thành

thương hiệu vàng miếng quốc gia đã gây khó khăn cho các thương hiệu vàng lâu

đời trên thị trường Việt Nam như: AAA, Rồng vàng Thăng Long, PNJ, với sự

chênh lệch giá lớn và giá vàng SJC bị đẩy lên cao vô lý, đi ngược lại quy định tại

Nghị định 24 không phân biệt đối xử giữa vàng miếng SJC và các loại vàng miếng

khác. Việt Nam đang quản lý TTV theo kiểu thiếu hội nhập và liên thông với thế

giới. Trên thế giới, chưa một NHTW nào có chính sách chỉ duy trì một thương hiệu

vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Việc độc quyền thương hiệu khiến người

dân phải bán rẻ các thương hiệu vàng khác dù chất lượng không khác nhau.. Đồng

thời, để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của người dân, TCTD và doanh nghiệp,

NHNN đã ban hành quy định chặt chẽ để thực hiện việc chuyển đổi vàng miếng

thương hiệu khác sang vàng miếng SJC, tạm xuất vàng miếng phi SJC và tái nhập

vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế với khối lượng xuất khẩu bằng khối lượng

nhập khẩu theo đúng quy định của pháp luật, do không thể tự kiểm định được chất

lượng, đã gây tốn kém chi phí đáng kể. Việc tạo thương hiệu vàng hàng hóa độc

quyền và duy nhất đã đi ngược lại nguyên tắc tự do và cạnh tranh trong kinh tế thị

trường, gây xáo trộn, thậm chí hỗn loạn trên thị trường khi NHNN không đủ khả

năng hoặc không sử dụng nguồn lực tài chính để bình ổn TTV hàng hóa, còn nếu

NHNN tham gia quá sâu với tư cách là chủ thể kinh doanh (dù không vì mục đích

lợi nhuận) cũng gây lãng phí nguồn lực tài chính quốc gia. Mặt khác, việc tổ chức,

lưu hành vàng miếng theo chuẩn mực riêng của Việt Nam, không được quốc tế chấp

nhận sẽ khiến vàng miếng này chỉ có thể giao dịch ở Việt Nam, rất khó để TTV vật

chất Việt Nam liên thông với quốc tế, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới

khó có thể rút ngắn hợp lý. Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan là những nước có tập

-65-

quán sử dụng vàng tương tự Việt Nam đều không độc quyền thương hiệu vàng

miếng, cho phép nhiều doanh nghiệp sản xuất vàng miếng theo chuẩn mực chung

dưới sự công nhận, giám sát của cơ quan kiểm soát chất lượng chuyên ngành quốc

gia, và hướng đến xây dựng chuẩn mực vàng miếng theo chuẩn mực quốc tế để

được quốc tế thừa nhận, cũng như cho phép giao dịch vàng miếng của các nhà sản

xuất vàng uy tín thế giới trên thị trường nội địa. Như vậy, sẽ không tốn chi phí gia

công vàng tiêu chuẩn quốc tế trở về tiêu chuẩn quốc gia và TTV trong nước sẽ tăng

khả năng liên thông với TTV quốc tế.

Cũng theo Nghị định này, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, độc

quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng với đầu mối đại diện sản

xuất là SJC. Các doanh nghiệp từng được cấp phép sản xuất vàng miếng trước đây

buộc phải ngừng sản xuất. Trong khi nhiều nhà sản xuất vàng miếng phi SJC đã

phải vay ngân hàng đầu tư hệ thống máy móc, công nghệ, đào tạo cán bộ, xây dựng

thương hiệu… chi phí thiệt hại lớn, giảm doanh thu đáng kể. Như vậy, chính sách

quản lý vàng thay đổi khôn lường gây rủi ro lớn cho các công ty kinh doanh này,

khiến một số thương hiệu vàng truyền thống có nguy cơ biến mất, chưa kể số lượng

lớn lao động mất việc do hoạt động của các đơn vị trên bị đình chỉ, gây tổn thất xã

hội vô ích. Theo NHNN, việc trực tiếp tham gia quá trình sản xuất này nhằm đảm

bảo Nhà nước quản lý chặt chẽ nguồn cung vàng miếng, góp phần bình ổn thị

trường, đồng thời ngăn chặn việc sản xuất vàng miếng từ nguồn nguyên liệu nhập

lậu. Cơ chế này đã đưa NHNN can thiệp quá sâu trên TTV hàng hóa không chỉ với

tư cách là NHTW mà còn mang hàm ý là đơn vị sản xuất, kinh doanh, lẫn lộn giữa

chức năng quản lý nhà nước và kinh doanh. Quy định này không phù hợp vì không

phải là chức năng vốn có của NHTW và hầu như không NHTW nào trên thế giới

thực hiện công việc này, Chính phủ Việt Nam đã xem hoạt động sản xuất, KDV giữ

vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ. SJC vừa là doanh nghiệp độc quyền gia

công vàng miếng thương hiệu SJC theo cấp phép của NHNN và chịu sự giám sát

toàn diện của NHNN, vừa là đơn vị được phép mua bán vàng SJC. Cơ chế này

không đem lại cạnh tranh tự do theo nguyên tắc thị trường, mà lợi thế hòan tòan cho

-66-

SJC, không công bằng với các nhà KDV miếng khác, còn có thể tạo méo mó thị

trường. NHNN điều tiết thị trường bằng biện pháp hành chính, mệnh lệnh, bỏ qua

yếu tố cung- cầu thị trường dẫn đến bế tắc trong sản xuất và lưu thông, tạo khan

hiếm cung- cầu giả tạo. NHNN yêu cầu các tổ chức sản xuất, KDV phải công bố rõ

và chịu trách nhiệm hàm lượng, chất lượng vàng của mình. Việc NHNN vừa là cơ

quan quản lý nhà nước tòan diện về TTV, vừa là đơn vị trực tiếp nhập khẩu, sản

xuất, KDV, vừa là đơn vị giám sát và kiểm sóat chất lượng vàng là không đảm bảo

minh bạch, cần thiết phải thiết lập cơ quan độc lập để quản lý, giám sát, kiểm sóat

và cấp giấy chứng nhận cho các loại vàng đạt tiêu chuẩn. Từ sự quản lý như vậy dẫn

đến hệ quả là TTV Việt Nam phát triển thiếu minh bạch, thiếu những giải pháp căn

cơ và mang tính chiến lược.

Quy định hiện tại chỉ mới dừng lại ở khái niệm KDV tài khỏan, chứ chưa có

quy định cụ thể về đối tượng được phép KDV tài khỏan trong và ngòai nước, cũng

không đề cập đến sàn giao dịch vàng. Nghị định có đề cập đến họat động phái sinh

về vàng nhưng quy định họat động này thực hiện theo điều 105 Luật các TCTD

trong lúc cả Chính phủ và NHNN đều chưa có quy định cụ thể về họat động này.

Ngày 27/4/12, NHNN lại ban hành Thông tư 12/2012/TT-NHNN yêu cầu các

TCTD đóng tài khỏan vàng ở nước ngòai. Cơ chế này không cho phép các tổ chức

kinh doanh tiền tệ được phép sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro, các công cụ

phái sinh để một mặt bảo hiểm cho hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác có thể

tìm kiếm lợi nhuận từ công cụ này.

Theo điều 5 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Nhà nước công nhận sự tồn tại

lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này;

bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình

thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động

kinh doanh”. Đặc thù hoạt động KDV miếng không có sự khác biệt giữa doanh

nghiệp lớn hoặc nhỏ, nhưng Nghị định 24 lại phân biệt doanh nghiệp dựa trên quy

mô vốn, làm cơ sở cấp phép KDV miếng. Sự hình thành mạng lưới doanh nghiệp,

cửa hàng KDV nhỏ lẻ xuất phát từ nhu cầu tất yếu của thị trường, là hệ thống phân

-67-

phối tự nhiên trên cơ sở cung- cầu xã hội. Những quy định chặt chẽ về đơn vị được

cấp giấy phép kinh doanh, mua bán vàng miếng đã gây khó khăn cho hơn 12.000

cửa hàng KDV tồn tại trước Nghị định 24 do không đủ điều kiện pháp lý, xuất hiện

tình trạng kinh doanh bất hợp pháp của các cửa hàng này. Trên thực tế, các cơ quan

chức năng rất khó giám sát việc tuân thủ này bởi số lượng các cửa hàng quá lớn, địa

bàn phân tán, nhiều cửa hàng có quy mô giao dịch nhỏ, gây nhiều bất ổn cho thị

trường. Hơn nữa, mạng lưới cửa hàng của các tổ chức được cấp phép không phân

bổ rộng khắp, thời gian hoạt động không linh hoạt, gây nhiều khó khăn cho người

dân trong việc nắm giữ, giao dịch vàng miếng. Do đó, tính khả thi của quy định này

là một vấn đề rất đáng cân nhắc để điều chỉnh.

Cơ chế quản lý của Nghị định 24 mang nặng tính hành chính, lấy độc quyền

nhập khẩu, sản xuất vàng miếng làm yếu tố trung tâm chi phối các họat động khác

liên quan đến vàng với mong muốn kiểm sóat đựơc việc KDV miếng, từ đó gián

tiếp hạn chế hiện tượng vàng hóa trong nền kinh tế, giảm thiểu thâm hụt cán cân

thanh tóan do phải nhập khẩu lượng vàng lớn trong thời gian dài. Tuy nhiên, cơ chế

này không làm thay đổi nhu cầu nắm giữ vàng trong dân nhằm bảo tòan giá trị và

đầu cơ xuất phát từ tập quán lâu đời, từ sự thiếu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát

cao, tỷ giá kém ổn định, thiếu nơi trú ẩn an tòan và không có nhiều cơ hội đầu tư

sinh lợi cùng hàng lọat yếu tố khác liên quan. Như vậy, vấn đề mấu chốt ở cầu vàng

không được giải quyết tận gốc, mấu chốt là niềm tin vào VNĐ chứ không phải một

kế hoạch bằng ý chí của nhà quản lý. Việc độc quyền và kiểm sóat chặt chẽ nhập

khẩu, sản xuất vàng miếng trong ngắn hạn sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu phi chính

thức, hạn chế tác động xấu đến trạng thái cán cân thanh tóan. Nhưng dài hạn có thể

xuất hiện tình trạng nhập khẩu phi chính thức vàng tiêu chuẩn quốc tế khi dân

chúng phát sinh nhu cầu trực tiếp nắm giữ, KDV theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng

thời, kiểm sóat chặt chẽ nhập khẩu làm hạn chế nguồn cung trong lúc cầu không

giảm càng làm giá vàng trong nước bỏ xa giá vàng thế giới, vô tình “khuyến khích”

nhập lậu vàng theo tiêu chuẩn quốc tế để tiêu thụ tại Việt Nam. Trong giai đoạn

hiện nay, cần tìm cách để người dân được đảm báo quyền lợi và không khuyến

-68-

khích nắm giữ vàng, cơ quan làm chính sách cần thực hiện được việc để thị trường

định hướng thị trường, không phải mệnh lệnh hành chính định hướng thị trường.

 Mâu thuẫn trong điều hành thị trường vàng với Nghị quyết Quốc hội

về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013:

Nhằm bình ổn TTV, thời gian qua, NHNN đã tiến hành đấu thầu vàng

miếng. Theo lãnh đạo NHNN, phương án đấu thầu nhằm thể hiện sự công khai

minh bạch và tránh sự lo ngại về khả năng có lợi ích nhóm trong hoạt động mua bán

vàng miếng. Một điểm khá tích cực được các thành viên tham gia đấu thầu nhận

định, tuy hình thức bỏ thầu còn thủ công và là nghiệp vụ khá mới mẻ, nhưng quy

trình, cơ chế công khai, minh bạch. Tuy nhiên, dường như việc này chưa đạt được

mục tiêu bình ổn thị trường, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vẫn ở mức

cao. Mặt khác, trên thế giới chưa có NHTW nào độc quyền nhập khẩu nguyên liệu,

sản xuất, sau đó đấu giá để cung cấp cung vàng cho thị trường. Trong khi tại Việt

Nam, NHNN lại kiêm tất cả vai trò này và trở thành đơn vị KDV. Mà kinh doanh

thì không thể đứng ra bình ổn thị trường vì có mâu thuẫn trong lợi ích. Nguyên tắc

cao nhất của NHNN khi tham gia TTV là phải bảo đảm dự trữ ngoại hối quốc gia,

không được lỗ. Do vậy, dù tiếp tục đấu thầu thì chênh lệch giá vàng trong nước so

với thế giới khó có thể giảm xuống.

Nghị quyết Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 5 đã chỉ rõ một trong những mục

tiêu năm 2013: “Khắc phục bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm

giá vàng trong nước liên thông và sát với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp về tài sản của người dân”. Bình ổn thị trường về bản chất là bình ổn

giá bởi trên thị trường, giá cả là tín hiệu phản ánh thực trạng thị trường. Bình ổn

TTV đồng nghĩa giá vàng trong nước phải theo sát giá vàng thế giới, chênh lệch ở

mức hợp lý tùy theo tín hiệu thị trường, tùy thuộc sức mua của VND, tỷ giá... Tuy

nhiên, vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối cho rằng, mục tiêu NHNN đấu thầu vàng là

tăng cung vàng miếng trên thị trường để can thiệp bình ổn TTV, không nhằm bình

ổn giá vàng. Trong buổi trả lời chất vấn trước quốc hội ngày 12/11/12, Thống đốc

NHNN đã thể hiện quan điểm không nhất thiết phải bình ổn giá vàng, “liên thông

-69-

giá vàng là vấn đề chúng ta không đặt ra”. Đây là hệ quả buông xuôi của một loạt

chính sách dồn đọng thời gian qua và thể hiện sự bất lực của quản lý nhà nước trước

một thị trường rối ren và phức tạp.Với những quan điểm không phản ảnh đúng bản

chất mục tiêu bình ổn TTV sẽ gây ra những hệ lụy mà hậu quả nhãn tiền là giá vàng

SJC luôn cao hơn giá vàng thế giới, tiềm ẩn rủi ro lớn cho TTV. Nghị định 24 và

cách thức thực hiện của NHNN đang hướng đến việc tách chức năng tiền tệ ra khỏi

vàng, tách vàng ra khỏi hệ thống ngân hàng để vàng chỉ còn là tài sản, không gây

xáo trộn, làm giá, đầu cơ... Tuy nhiên, khi cầu vàng trên thị trường cao thì NHNN

tăng cường bán vàng, nhưng không giải quyết được gốc của vấn đề vì vàng vẫn

quanh quẩn trong hệ thống ngân hàng, không ra được nền kinh tế, các NHTM tăng

cường nắm giữ vàng chờ cơ hội tung ra bán lấy lãi. Đồng thời, xét tổng thể, NHNN

lại gặp vấn đề mâu thuẫn về chính sách. Một mặt, muốn giảm vàng hoá (về dài

hạn), song mặt khác lại (buộc) đang thừa nhận SJC là tiền vàng. Cho nên quá độ

này còn kéo dài bao lâu phụ thuộc rất nhiều chính sách như ổn định vĩ mô, lấy lại

lòng tin vào VND, các giải pháp ứng xử với TTV (liên quan đến huy động vàng,

thành lập sàn vàng quốc gia, cách thức liên thông với thị trường quốc tế…). Khi thị

trường trong nước và thế giới vẫn còn bất cập, nếu còn giữ tư duy bình ổn thị

trường không bình ổn giá thì nguy cơ đầu cơ vẫn hiện hữu.

 Mức giá đấu thấu vàng miếng chưa hợp lý:

Theo NHNN, định giá đầu thầu chủ yếu dựa theo giá trong nước có tính đến

giá thế giới nhưng phòng ngừa rủi ro quá lớn. Ở đây NHNN đã quên vai trò điều

hành, quản lý để đi kinh doanh, khiến dư luận đặt dấu hỏi về khả năng định giá và

dự báo giá vàng của NHNN trong tương lai. Một số nhà KDV cho rằng, cách

NHNN đặt giá sàn cho các phiên đấu thầu cao hơn hoặc bằng giá thị trường khiến

giá vàng trong nước không thể rút ngắn khoảng cách với giá quốc tế, và nhu cầu

vàng trong nước vẫn đang ở mức cao hơn so với nguồn cung, nên không thể tránh

khỏi mức chênh lệch giá như hiện nay. Tuy nhiên, nếu NHNN chào thầu và bán ra

với mức giá gần sát giá vàng quốc tế, có thể doanh nghiệp trúng thầu vẫn duy trì

mức giá cao như thị trường để hưởng chênh lệch lớn nhằm tối đa hóa lợi nhuận, các

-70-

ngân hàng mua vào để đóng trạng thái, cũng chưa hẳn bán ra thị trường. Theo báo

cáo về TTV do nhóm nghiên cứu toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered công

bố, NHNN đã thu được lợi nhuận tới 117 triệu USD (khoảng gần 2.500 tỷ đồng)

qua 21 phiên đấu thầu với 20 tấn vàng bán ra, trung bình thu về nguồn lợi khoảng

122,5 tỷ đồng/tấn. Standard Chartered sử dụng mức chênh lệch trung bình 5,2 triệu

đồng/lượng. Theo NHNN, chênh lệch có được qua các phiên đấu thầu vàng là

nguồn thu của ngân sách Nhà nước, sẽ chuyển về ngân sách theo đúng quy định,

việc can thiệp TTV không vì mục tiêu lợi nhuận mà chỉ nhằm điều tiết và quản lý

nhà nước đối với TTV, khoản chênh lệch này trước đây là thuộc về giới đầu cơ và

KDV nhưng nay thuộc về ngân sách nhà nước để phục vụ quốc kế dân sinh.

 Vấn đề huy động vàng trong dân chưa có hướng giải quyết:

Ngày 26/10/12, NHNN có Văn bản 7019/NHNN-QLNH, yêu cầu các TCTD

còn số dư huy động và cho vay vốn bằng vàng chấm dứt huy động vốn bằng vàng

theo quy định tại Thông tư 12/2012/TT-NHNN, thời gian không vượt quá ngày

30/6/13. Với hướng giải quyết này, khối lượng vàng có giá trị lớn không được sử

dụng hiệu quả vì đơn thuần chỉ giữ vai trò cất trữ trong bối cảnh nền kinh tế đang

thiếu vốn, làm sao để lượng vàng rất lớn còn rải rác trong dân này được sử dụng

hiệu quả vẫn là vấn đề nan giải thu hút quan tâm dư luận mà NHNN vẫn chưa có

giải pháp rõ ràng, khả thi và có ý nghĩa. Việc NHNN tạm thời không thực hiện đề

án huy động vàng trong dân, cấm các NHTM giữ hộ vàng đã đưa đến những người

mua vàng chỉ có thể cất trữ. NHNN cho biết đã xem xét tính toán cụ thể khả năng

đứng ra huy động vàng của dân, sau khi các TCTD chấm dứt huy động vàng. Tuy

nhiên, việc này có một số điểm bất lợi: chi phí bỏ ra khá lớn, số vàng huy động

được nếu đầu tư ở nước ngoài thời điểm hiện nay dự kiến sẽ lỗ do mất phí chuyển

đổi thành vàng tiêu chuẩn quốc tế và tỷ suất sinh lời rất thấp, ngoài ra, còn phải chịu

rủi ro về thanh khoản vàng như các TCTD khi người dân đến rút vàng. Tìm hiểu

kinh nghiệm quốc tế thì không NHTW nào huy động vàng từ dân trong giai đoạn

hiện nay, do rủi ro về giá vàng và thanh khoản. Theo NHNN, cách hiệu quả nhất để

chuyển hóa nguồn lực vàng trong dân phục vụ phát triển kinh tế đất nước là NHNN

-71-

mua vàng, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải

chuẩn bị một số điều kiện như tiếp tục duy trì, củng cố giá trị đồng Việt Nam, chấm

dứt hoàn toàn hoạt động huy động vàng và áp dụng các biện pháp kinh tế để khuyến

khích người dân bán vàng ra.

 Vàng Việt Nam chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, chưa được chấp

nhận lưu thông trên thị trường quốc tế (chỉ một số ít doanh nghiệp Trung Quốc chấp

nhận vàng miếng SJC). Tất cả các thương hiệu vàng trong nước khi xuất khẩu ra

nước ngoài đều bị xem là vàng tạp chất (gold scrap) và phải nấu chảy để kiểm định

lại hàm lượng vàng. Quy định đơn vị đo lường trong nước khiến việc quy đổi chậm

và không thích ứng với KDV tài khoản quốc tế là nguyên nhân cản trở sự phát triển

họat động KDV. Ngay trong nước, vàng do cở sở này sản xuất cũng chưa được các

cơ sở khác chấp nhận theo chất lượng mà cơ sở sản xuất đã công bố. Do vậy, uy tín

và năng lực phát hành vàng Việt Nam là vấn đề mấu chốt để vàng Việt Nam gia

nhập thị trường quốc tế. TTV Việt Nam hiện nay còn thiếu chuyên nghiệp, lĩnh vực

giám định vàng chưa hoàn thiện, chất lượng vàng bị thả nổi.

2.3.2.3. Vấn đề cân bằng cung- cầu trên TTV, ổn định giá vàng:

 Khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn còn

lớn:

Đối với Việt Nam, vàng trong dự trữ ngoại hối quốc gia có thể không lớn,

nhưng trong dân khá lớn. Trước những đợt biến động giá vàng, nhiều tổ chức, cá

nhân đổ xô mua bán vàng theo tâm lý đám đông, khó thu hẹp chênh lệch giá vàng

trong nước và thế giới. Biến động giá vàng tác động đến lạm phát thông qua yếu tố

tâm lý, lòng tin. Giao dịch vàng tại Việt Nam chủ yếu là mua, bán vàng miếng,

trang sức và xuất nhập khẩu vàng, diễn ra đơn lẻ, không có sàn giao dịch tập trung.

Lượng vàng nhập khẩu chiếm 95% lượng tiêu thụ, đồng nghĩa giá vàng trong nước

sẽ biến động theo giá vàng thế giới, sự chênh lệch, nếu có, là do các loại thuế, chi

phí chế tác và lợi nhuận của đơn vị kinh doanh. Tuy nhiên, diễn biến giá vàng trong

nước và thế giới thời gian qua đôi khi biến động trái chiều, hoặc giá vàng trong

nước có xu hướng tăng mạnh hơn hoặc giảm chậm hơn so với đà tăng, giảm của gía

-72-

vàng thế giới, làm khỏang cách giá giữa hai thị trường ngày càng nới rộng. TTV

Việt Nam mới dừng lại ở việc họat động và đáp ứng theo khả năng cung cầu của thị

trường trong nước, vẫn chưa liên kết được với TTV thế giới. Gía vàng trong nước

không chỉ phụ thuộc vào giá vàng nguyên liệu mà còn phụ thuộc vào chi phí gia

công trong nước. Hệ thống hành lang pháp lý vẫn còn yếu và thiếu vắng những quy

định liên quan đến hoạt động của sàn vàng dẫn đến việc đóng cửa các sàn vàng và

chưa có các công cụ phái sinh vàng nhằm tạo kênh đầu tư mới, góp phần liên thông

TTV trong nước và thế giới làm tăng áp lực lên TTV vật chất.

 Kiểm định biến động giá vàng Việt Nam theo giá vàng thế giới:

Lấy mẫu quan sát 50 biến của giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam (giá

bán) trong khoảng thời gian từ 28/5/13 đến 5/8/13:

Bảng 2.4: Giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam (giá bán) từ 28/5/13 đến

5/8/13

Ngày 28-May 29-May 30-May 31-May 3-Jun 4-Jun 5-Jun 6-Jun 7-Jun 10-Jun 11-Jun 12-Jun 13-Jun 14-Jun 17-Jun 18-Jun 19-Jun 20-Jun 21-Jun 24-Jun 25-Jun

Gía vàng Việt Nam (ngàn đồng/lƣợng) 40870 40920 40900 41170 41020 41100 41060 40950 40960 40820 40750 40680 40700 20500 40400 39850 39930 39630 38850 39020 38700

Gía vàng thế giới (USD/oz) 1380.05 1385.26 1395.33 1419.49 1394.94 1410.54 1406.45 1398.73 1414.95 1385.93 1384.25 1377.75 1389.54 1383.99 1390.63 1366.35 1342.58 1343.63 1292.15 1291.25 1284.25

Gía vàng Việt Nam (ngàn đồng/lƣợng) 37200 37450 38450 38250 37800 37850 37530 37850 37600 37580 37450 37650 37740 37900 38780 38700 38880 38550 38480 38400 38100

Gía vàng thế giới (USD/oz) 1259.14 1246.69 1253.75 1242.12 1221.21 1251.45 1246.97 1283.25 1285.36 1284.76 1285.19 1288.86 1281.69 1287.83 1334.69 1330.35 1340.55 1321.85 1330.18 1324.96 1322.99

Ngày 2-Jul 3-Jul 4-Jul 5-Jul 8-Jul 9-Jul 10-Jul 11-Jul 12-Jul 15-Jul 16-Jul 17-Jul 18-Jul 19-Jul 22-Jul 23-Jul 24-Jul 25-Jul 26-Jul 29-Jul 30-Jul

26-Jun 27-Jun 28-Jun 1-Jul

1250.43 1240.75 1203.88 1242.95

31-Jul 1-Aug 2-Aug 5-Aug

38080 37820 37650 37780

1332.91 1320 1308 1314.5

38100 36950 35800 37150 Nguồn: giavang.net

-73-

Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy, trong đó Y là giá vàng Việt Nam

(biến phụ thuộc), X là giá vàng thế giới (biến độc lập), với mức ý nghĩa 5%. Ta có được R2 có hiệu chỉnh là 0,073489. Kết quả này có nghĩa là trong hàm hồi quy mẫu,

biến X (giá vàng thế giới) giải thích 7,3489% sự thay đổi của biến Y (giá vàng Việt

Dependent Variable: Y

Method: Least Squares

Date: 08/07/13 Time: 16:28

Sample: 1 50

Included observations: 50

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Variable

Prob.

18329.63

9145.238

2.004281

C

0.0507

15.28284

6.913540

2.210567

0.0319

X

R-squared

0.092398 Mean dependent var

38526.00

Adjusted R-squared

0.073489 S.D. dependent var

2972.025

S.E. of regression

2860.735 Akaike info criterion

18.79472

Sum squared resid

3.93E+08 Schwarz criterion

18.87120

Log likelihood

-467.8681 Hannan-Quinn criter.

18.82385

F-statistic

4.886606 Durbin-Watson stat

2.038832

Prob(F-statistic)

0.031865

Nam).

Như đã đề cập ở trên, 95% lượng vàng tiêu thụ ở Việt Nam từ nhập khẩu nên

về nguyên tắc, giá vàng thế giới phải là nhân tố quan trọng quyết định giá vàng

trong nước, nói cách khác, Việt Nam phải là nước chấp nhận giá. Tuy nhiên từ mô

hình hồi quy biến động giá vàng thực tế trong thời gian gần đây cho thấy kết quả

hoàn toàn trái ngược, giá vàng Việt Nam còn nhiều cách biệt và không liên thông

được với thế giới, dù vẫn có diễn biến cùng chiều với giá vàng thế giới. Đây là vấn

đề cốt lõi cần quan tâm trong định hướng giải pháp ổn định và phát triển TTV tại

Việt Nam.

-74-

Diễn biến TTV Việt Nam cho thấy chênh lệch giá vàng trong nước và thế

giới bắt đầu phức tạp từ năm 2008. Trước tình hình khủng hoảng tài chính, vàng

được xem là vịnh tránh bão an toàn, nhu cầu đầu tư vàng không ngừng tăng. Cùng

biến động mạnh của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước liên tục tăng theo. Một

kết quả quan trọng trong điều hành hành tiền tệ trong nước năm 2012 là tốc độ tăng

giá vàng chậm lại rất nhiều so với hơn một thập kỷ trước. Tuy nhiên, bên cạnh

chênh lệch giá vàng trong nước- thế giới cao kỷ lục, nhiều vấn đề nan giải khác

cũng xuất hiện như cách biệt lớn giữa giá vàng SJC và phi SJC, hay sự xuất hiện

vàng giả, nhái SJC …

Trước 30/6/13, giới chuyên gia và lãnh đạo cơ quan quản lý đều cho rằng sau

thời điểm cuối phải tất toán thì nhu cầu vàng sẽ giảm, chênh lệch giá vàng trong

nước với thế giới sẽ thu hẹp. Tuy nhiên, sau 30/6/13, diễn biến thị trường trong

những phiên đấu thầu qua dường như ngược lại dự đoán, NHNN liên tiếp bán hết

hoặc gần hết số vàng chào thầu, giá vàng trong nước vẫn cao hơn thế giới 5,3 triệu

đồng/lượng. Tính từ cuối tháng 3 đến 12/7/13, sau 43 phiên đấu thầu, NHNN đã bán

thành công 1.167.600 lượng vàng (gần 45 tấn)/1.270.000 lượng chào thầu. Tính

riêng sau thời hạn tất toán trạng thái, NHNN đã tổ chức 6 phiên đấu thầu với tổng

lượng cung ra thị trường lên tới 210.600 lượng vàng (tương đương với 8,1 tấn).

Việc NHNN vẫn tiếp tục đấu thầu vàng sau ngày 30/6 cho thấy quyết tâm bình ổn

TTV, từng bước kéo sát giá vàng trong nước về giá vàng thế giới. Nhưng để giá

vàng trong nước giảm, nói đúng hơn là thu hẹp khoảng cách với giá vàng quốc tế,

còn nhiều yếu tố khác: các động thái quản lý và tâm lý, ý thức của người dân trong

việc dự trữ và sử dụng vàng… Trong đó, hành vi của người dân hoàn toàn phụ

thuộc vào lạm phát, giá trị của đồng tiền và đặc biệt là tỷ giá ngoại tệ, cụ thể là

USD. Khi TTBĐS, TTCK và sản xuất kinh doanh trong nước ngưng trệ, người dân

không tin tưởng bỏ vàng ra đầu tư, lại tiếp tục mua vào để dự trữ, giá lại bị đội lên.

 Tình trạng nhập lậu, đầu cơ vàng khá phổ biến:

TTV trong nước hiện thoát ly với TTV thế giới, còn tồn tại các động cơ,

hành vi không đúng đắn như nhập lậu, đầu cơ. Tình trạng nhập lậu vàng diễn ra khá

-75-

phổ biến. TTV Việt Nam đang bị làm giá, thao túng mạnh, đẩy giá vàng trong nước

biến động liên tục không theo quy luật nào. Chênh lệch giá vàng trong và ngoài

nước tạo ra những nhóm lợi ích cục bộ, gây méo mó tới các quyết định cơ chế,

chính sách có liên quan. Từ sự quản lý yếu kém, giải pháp và chính sách điều hành

không phù hợp, quá thiên về hành chính, nặng về cấm đoán, không bảo đảm cân đối

quan hệ cung cầu vàng, gây nên những biến động phức tạp trên thị trường, tạo cơ

hội cho giới đầu cơ hoạt động. Có ba dấu hiệu nhận biết tình trạng đầu cơ/ làm giá

trên TTV: (1) Gía vàng biến thiên chóng mặt nhiều lần với mức vượt xa động thái

chung cuả vàng thế giới; (2) Chênh lệch giá vàng trong và ngòai nước vượt xa

khỏang cách 15USD/lượng (chi phí trung gian); (3) Sự giãn cách lớn giữa giá niêm

yết mua và bán của các doanh nghiệp KDV. Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp lợi

dụng chức năng KDV trong giấy phép để môi giới, tổ chức sàn giao dịch vàng bất

hợp pháp, liên kết làm giá, đầu cơ trên thị trường, mua bán ngọai tệ trái phép, tung

tin thất thiệt ảnh hưởng tâm lý người dân để trục lợi. Việt Nam lại chưa có quy định

cụ thể về khoảng cách giữa giá mua và bán vàng. Hiện nay, khi có dấu hiệu đầu cơ,

khoảng cách này được thu hẹp kích thích người dân mua vào, sau đó lại dãn ra để

giảm khả năng bán vàng, giữ giá không về quá thấp. Chênh lệch này chỉ làm lợi cục

bộ cho doanh nghiệp, người dân chịu thiệt hại chủ yếu. Đầu cơ vàng ở Việt Nam

thời gian qua cũng được hỗ trợ bởi yếu tố tâm lý, tạo hiện tượng giá vàng khó giảm,

hoặc giảm không tương ứng với mức giảm của giá thế giới, nhưng lại tăng với biên

độ cao hơn giá thế giới.

 Tác động qua lại giữa vàng và tỷ giá, lạm phát:

Giá cả và quy mô TTV còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của áp lực điều chỉnh

tỷ giá và tăng khá mạnh giá một số mặt hàng trong diện nhà nước quản lý, như điện

và xăng dầu. Bất ổn giá vàng tạo cơn sốt giá trên thị trường USD tự do khiến người

dân và doanh nghiệp thiệt hại và việc điều tiết chính sách tiền tệ bị ảnh hưởng.

Chênh lệch giá vàng kích thích nhập vàng làm tăng nhập siêu của Việt Nam, gây áp

lực lên tỷ giá, tạo nên một vòng luẩn quẩn giữa vàng và ngoại tệ gây tình trạng bất

ổn cao. Theo đánh giá của Văn phòng chính phủ, nếu tỷ giá thay đổi 1% sẽ gây tác

-76-

động khoảng 2% đến lạm phát. Việc nhập khẩu vàng khiến căng thẳng cung cầu

USD gia tăng tạo thêm sức ép khiến NHNN bán ngoại tệ ổn định thị trường, dự trữ

ngoại hối suy giảm làm giảm khả năng bình ổn thị trường ngoại tệ của NHNN.

Theo đó, nguy cơ bất ổn tỷ giá cùng tác động gián tiếp tới lạm phát là khó tránh

khỏi. Đồng thời, giá vàng tăng cao tác động gián tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

thông qua tác động làm tăng giá các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất, chế tác

các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý, làm giá bán

hàng hóa này tăng theo, gây áp lực tăng tỷ lệ lạm phát, dù theo phương pháp tính

CPI của Tổng cục thống kê cho giai đoạn 5 năm 2009-2014 trên toàn quốc, vàng

không thuộc 572 nhóm hàng và dịch vụ để tính CPI.

2.3.2.4. Các yếu tố khác:

Thị trường chưa đa dạng các sản phẩm, dịch vụ kinh doanh vàng để phục vụ

tối đa nhu cầu đầu tư của người dân, không tạo cho NĐT nhiều cơ hội tham gia để

hình thành kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực KDV, chưa thể theo kịp các

TTV trong khu vực và thế giới, từ đó cũng dẫn đến trình độ quản lý kinh doanh của

các doanh nghiệp KDV còn hạn chế.

Kết luận chƣơng 2:

Chương 2 tổng hợp tình hình cung ứng và tiêu thụ vàng, cũng như biến động

giá vàng trên thị trường thế giới và Việt Nam, thông qua việc phân tích TTV trong

nước, đưa ra những nhận định về các vấn đề tồn tại trong TTV tại Việt Nam, làm cơ

sở nền tảng cho việc định hướng đưa ra đề xuất giải pháp ổn định TTV tại Việt Nam

trong chương 3.

-77-

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THỊ TRƢỜNG VÀNG

TẠI VIỆT NAM

3.1.Định hƣớng thị trƣờng vàng:

 Nghị quyết 40/2012/QH13 ngày 23/11/12 (kỳ 4) nêu rõ: “tăng cường

thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những tiêu cực trong hoạt động ngân hàng, thị

trường tiền tệ, thị trường vàng. Làm tốt công tác quản lý nhà nước đối với thị

trường vàng; bảo đảm lợi ích của người dân; không sử dụng vàng làm phương tiện

thanh toán trong nền kinh tế”.

 Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 31/1/13 của NHNN yêu cầu các đơn vị phải

khẩn trương hoàn thiện cơ chế quản lý, ổn định thị trường vàng, đảm bảo giá vàng

trong nước sát với giá quốc tế.

 Nghị quyết Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 5 chỉ rõ một trong những mục

tiêu năm 2013: “Khắc phục bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm

giá vàng trong nước liên thông và sát với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp về tài sản của người dân”.

 Theo báo cáo 208/BC-CP ngày 29/5/13 về công tác quản lý nhà nước đối

với TTV, khuôn khổ pháp lý mới về quản lý TTV phải đáp ứng các mục tiêu chính

sau: đảm bảo và bảo vệ quyền sở hữu vàng hợp pháp của người dân; tổ chức, sắp

xếp lại một cách căn bản thị trường vàng, đặc biệt là thị trường vàng miếng; ngăn

chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ

mô; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế; nghiêm cấm việc sử

dụng vàng làm phương tiện thanh toán; có giải pháp để từng bước huy động nguồn

lực vàng trong dân phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước; nâng cao vai trò

quản lý và điều tiết thị trường vàng của Nhà nước.

Để tránh vàng trở thành tài sản "chết" như thời gian qua, NHNN cần có

chính sách toàn diện đối với vàng. Kinh nghiệm của các nước phát triển có TTV

hoàn chỉnh và lâu đời (Anh, Mỹ) cũng như các nước có tập quán sử dụng vàng

tương đồng với Việt Nam (Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan) đều thực hiện quản lý

vàng hàng hóa tương tự như hàng hóa thông thường. Tuy nhiên, vì tính chất và vai

-78-

trò đặc biệt của vàng nên mỗi nước xây dựng cơ chế quản lý phụ thuộc trình độ phát

triển trong từng giai đoạn cũng như tác động của vàng đối với kinh tế vĩ mô. Có thể

thấy các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế hoặc văn hóa, tập quán sử dụng vàng

tương tự Việt Nam, không quốc gia nào sử dụng cơ chế quản lý chặt chẽ mang tính

độc quyền hiện nay, đặc biệt không có việc NHTW trực tiếp xuất nhập khẩu cũng

như độc quyền sản xuất vàng miếng. Thực tiễn cho thấy, các biện pháp hành chính

có vai trò quan trọng ở thị trường chưa phát triển nhưng chỉ phát huy hiệu quả trong

ngắn hạn. Nếu tiếp tục duy trì, nhất là độc quyền trong dài hạn, thị trường sẽ trở nên

méo mó và gây những hệ lụy tiêu cực. Kinh nghiệm Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy

các biện pháp kiểm soát, hạn chế phát triển TTV gây hại cho sự phát triển quốc gia.

Để vàng trở thành nguồn vốn phát triển đất nước, các chính sách cần hướng đến làm

thế nào vàng có thể dễ dàng xuất nhập khẩu, tham gia vào hoạt động tín dụng và dễ

dàng chuyển đổi sang các loại tài sản khác khi cần. "Giải phóng" TTV cần đặt lên

hàng đầu chứ không phải "kiểm soát" nó. Từ kinh nghiệm quản lý của các quốc gia

trên thế giới, nhiều chuyên gia trong nước cho rằng, việc NHNN tham gia sản xuất

và KDV miếng chỉ nên thực hiện ngắn hạn. Việt Nam đã hội nhập quốc tế thì phải

quản lý theo xu hướng quốc tế, NHNN chỉ là cơ quan nghiên cứu, ban hành chính

sách, chứ không phải đi mua, bán vàng... Vàng là mặt hàng rất nhạy cảm, vì vậy

mọi chính sách cứng rắn, kiềm tỏa với vàng phần lớn đều thất bại. Sự quản lý đối

với vàng đến một lúc nào đó sẽ làm mất cân đối cung cầu nghiêm trọng, tạo chênh

lệch quá lớn giữa giá trong nước và thế giới, khiến họat động buôn lậu, đầu cơ phát

triển mạnh. Nhà nước cần xem vàng như mọi hàng hóa khác, chấp nhận giá vàng

thay đổi theo cơ chế thị trường, loại trừ những tăng giảm giả tạo, điều chỉnh mức

dao động của nó tương ứng với mức dao động của mặt bằng giá tòan xã hội.

Trong bối cảnh gần như toàn bộ nguồn cung vàng của Việt Nam có được từ

nhập khẩu, dự trữ ngoại hối bằng vàng của NHNN hầu như không đáng kể thì mọi

nỗ lực nhằm can thiệp giá vàng trên thị trường không thể thực hiện được. Do đó,

cần thiết phải gỡ bỏ những rào cản ngăn cách giá vàng trong nước với thế giới để

TTV Việt Nam liên thông với TTV thế giới. Theo báo cáo về công tác quản lý Nhà

-79-

nước đối với TTV gửi các đại biểu Quốc hội do Thống đốc Nguyễn Văn Bình được

thừa ủy quyền Thủ tướng ký, để giá vàng trong nước bằng hoặc sát với giá vàng thế

giới thì TTV trong nước phải liên thông tuyệt đối hoặc tương đối với TTV quốc tế.

 Để TTV trong nước và thế giới liên thông tuyệt đối, phải cho phép KDV

tài khoản ở nước ngoài thông qua sàn vàng, đồng thời cho phép nhập khẩu hoặc

xuất khẩu vô điều kiện số dư vàng trên toàn khoản khi có nhu cầu. Khi đó, NĐT

thông qua tài khoản KDV ở nước ngoài có thể mua bán vàng theo giá thế giới vào

bất kỳ thời điểm nào. Hơn nữa, NĐT lại được lựa chọn xuất, nhập khẩu vàng tự do

ra vào Việt Nam. Như vậy, giá vàng thế giới và trong nước sẽ trùng với nhau, loại

trừ thuế và phí.

 Để TTV trong nước và thế giới liên thông tương đối, thứ nhất cho phép

KDV trên tài khoản ở nước ngoài qua các sàn vàng, không cho phép hoặc hạn chế

việc xuất nhập khẩu vàng khi có nhu cầu. Thứ hai, hoặc không cho phép KDV trên

tài khoản ở nước ngoài nhưng cho phép xuất nhập khẩu vàng tự do hoặc có điều

kiện. Trường hợp này, mức độ tự do xuất nhập khẩu vàng sẽ tác động trực tiếp đến

độ chênh lệch, mức độ tự do xuất nhập khẩu càng cao thì chênh lệch giá vàng càng

thấp và ngược lại.

Những năm qua, khi giá vàng tăng cao liên tục và biến động thất thường, các

giao dịch nhà đất hầu như đều thực hiện qua VND, hiếm sử dụng vàng. Hiện nay,

dân chúng sử dụng vàng chủ yếu làm phương tiện bảo tồn giá trị, hoặc đầu tư, đầu

cơ nhờ vào biến động giá. Đây là nhu cầu chính đáng của người dân nên khó có thể

dùng biện pháp hành chính để triệt tiêu hoạt động này, thay vào đó cần hướng đến

tạo lập thị trường giao dịch vàng chính thức với đầy đủ các công cụ kinh doanh dựa

trên cơ chế thị trường để các NĐT có thể dễ dàng giao dịch, cất trữ và tìm kiếm lợi

nhuận. Ổn định, phát triển TTV, tránh gây hiện tượng đầu cơ, thao túng gây nhiễu

lọan, xáo trộn ảnh hưởng đến TTV cũng như tránh tác động tâm lý ảnh hưởng mặt

bằng giá chung (CPI). Tuy nhiên, những giải pháp này cần kết hợp đồng bộ, chặt

chẽ với chính sách tài chính-tiền tệ khác để có hiệu quả tốt nhất. Khi kinh tế phát

triển ổn định, tỷ lệ lạm phát được kiểm soát tốt, tỷ giá USD/VND ổn định thì nhu

-80-

cầu nắm giữ vàng cho mục đích bảo tồn giá trị sẽ giảm dần; phát triển TTCK,

TTBĐS, tạo nhiều kênh đầu tư khác, gia tăng lựa chọn đầu tư.

3.2. Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý:

3.2.1. Hoàn thiện chính sách pháp lý:

Chính sách quản lý của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng, tác động trực

tiếp đến TTV, góp phần ổn định TTV, ổn định giá vàng. Chính sách ổn định, nhất

quán sẽ tạo niềm tin cho người dân và cơ quan quản lý có thể can thiệp TTV kịp

thời và hiệu quả. Các chính sách phải thống nhất chức năng quản lý nhà nước đối

với hoạt động KDV, quy định rõ ràng, phân công cụ thể vai trò và nhiệm vụ đối với

các bộ ngành có liên quan khi tham gia quản lý TTV. Nên có sự phối hợp chặt chẽ,

đồng bộ từ Chính phủ và các Bộ hữu quan trong việc xây dựng khung pháp lý quản

lý vàng. Soạn thảo Nghị định quản lý vàng theo hướng Nhà nước tập trung, thống

nhất quản lý; thống nhất các văn bản về quản lý vàng theo Luật NHNN, Pháp lệnh

ngoại hối của ngành ngân hàng, các văn bản của Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Bộ

Kế hoạch và đầu tư… để trình Chính phủ ban hành. Xem xét các vấn đề quản lý

vàng, soạn thảo chế tài riêng cho KDV. Các quy định,chính sách quản lý TTV phải

phù hợp kinh tế thị trường, phù hợp đặc trưng của TTV Việt Nam, đáp ứng yêu cầu

khách quan của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Từ đó, tạo cơ sở pháp lý để

hoàn thiện cơ chế quản lý đối với hoạt động KDV. Để ổn định TTV, NHNN phải

công khai, minh bạch cơ chế quản lý, cần nghiên cứu sửa đổi quản lý theo cơ chế thị

trường, giảm thiểu sự can thiệp hành chính của Nhà nước. Có như vậy, sự khác biệt

giữa giá vàng trong nước và quốc tế sẽ giảm dần, từ đó giảm hoạt động đầu cơ lũng

đoạn thị trường.

Để sắp xếp lại thị trường, cần thiết phải có hành lang pháp lý mới, phù hợp

điều kiện hiện nay cũng như trong dài hạn, nhằm định hướng xây dựng và phát triển

công nghiệp chế tác vàng, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng của người dân sở

hữu vàng hợp pháp, không tạo ra cú sốc cho thị trường và dư luận. Để dân từ bỏ

thói quen giữ vàng từ lâu đời và phổ biến khi nội tệ không ổn định, lạm phát cao là

không dễ. Nếu cấm KDV miếng, người dân sẽ chuyển sang mua dạng nhẫn, vòng,

-81-

hay các sản phẩm mỹ nghệ. Điều này thực tế không làm giảm lượng vàng nguyên

liệu để chế tác, ngược lại càng gây khó khăn cho công tác quản lý, tốn kém chi phí

xã hội, thiệt thòi cho dân khi chất lượng sản phẩm khó kiểm soát. Nếu xử lý chính

sách không đồng bộ, có thể gia tăng áp lực lạm phát. Trên thế giới hiện không nước

nào cấm giao dịch vàng miếng, như Trung Quốc trước đây quản lý rất chặt, giờ

cũng khuyến khích dân tích trữ bằng cách tăng cường bán vàng miếng cho dân.

TTV trong nước hiện chưa phát triển ổn định, một phần do hành lang pháp lý

hiện hành đối với hoạt động KDV chưa hoàn thiện, việc quản lý, điều hành TTV đôi

phần lúng túng, bị động, chủ yếu là xử lý tình thế và mang tính hành chính. Hoạt

động KDV và các quy định liên quan đến giao dịch vàng chưa đầy đủ, chỉ theo sau

nhu cầu thị trường với những ràng buộc chưa mang tính khách quan. Việc quản lý

KDV trên tài khoản vẫn còn bỏ ngõ. Nhu cầu kinh doanh ngày càng mạnh mẽ, việc

lưu thông vàng cần được phát triển lên tầm cao mới, giúp các NĐT tiếp cận với

những sản phẩm kinh doanh hiện đại, NHNN nên phối hợp với Vụ quản lý ngoại

hối và Hiệp hội KDV cùng soạn thảo những quy định và chế tài riêng áp dụng cho

các tổ chức KDV tài khoản để tránh rủi ro và thiệt hại cho NĐT tùy thuộc vào điều

kiện thực tế từng thời kỳ.

Để quản lý thị trường hiệu quả, minh bạch, tạo động lực phát triển, cần tuân

thủ, quán triệt các nguyên tắc của thị trường. Như vậy, NHNN chỉ thực hiện chức

năng quản lý và hoạch định chính sách, điều tiết dự trữ ngoại hối bằng vàng theo

Pháp lệnh Ngoại hối, Luật NHNN, Luật Các TCTD mà không tham gia sản xuất

kinh doanh hoặc điều tiết thị trường bằng các biện pháp hành chính, không trực tiếp

can dự việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo Nghị định 24, Nhà nước tòan

quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng. Về lâu dài, dựa trên kinh nghiệm của Ấn

Độ, dễ dẫn đến tình trạng độc quyền nhà nước, nếu kiểm sóat không khéo sẽ gây

tổn thất vô ích. Trước mắt, NHNN sẽ vẫn là cơ quan quản lý toàn diện về hoạt động

sản xuất, gia công và KDV. Tuy nhiên, cần sớm chấm dứt việc NHNN tham gia

trực tiếp vào hoạt động sản xuất, KDV. NHNN nên trở về nhiệm vụ cố hữu của một

NHTW trong việc điều tiết chính sách tiền tệ và cải thiện tình trạng vĩ mô, không

-82-

tham gia sản xuất kinh doanh. Việc xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu nên giao lại

cho các công ty có chức năng và hội đủ điều kiện được NHNN cấp phép. Không

cần giới hạn số lượng các công ty này nhưng đặt tiêu chuẩn cao để chỉ những công

ty vững mạnh về tài chính lẫn kinh nghiệm mới đủ điều kiện tham gia, đóng vai trò

đầu mối trong việc sản xuất, gia công vàng miếng. Cần xác định rõ tiêu chí để phân

bổ hạn ngạch hợp lý, công bằng, minh bạch theo hướng mở rộng dần hạn ngạch để

đi đến dỡ bỏ hạn ngạch khi trạng thái cán cân thanh toán an toàn hơn. KDV miếng

là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được cấp phép, tuy nhiên, cần cho

phép tồn tại nhiều thương hiệu vàng khác nhau trong nền kinh tế để tạo sự cạnh

tranh lành mạnh. Các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện sản xuất– kinh doanh thì

để họ hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước chỉ quản lý chất lượng, trọng

lượng, nhãn hiệu như các doanh nghiệp đã đăng ký. Theo Hiệp hội KDV Việt Nam,

siết chặt quản lý sản xuất và KDV là cần thiết, nhưng trước mắt không nên cấm

hoàn toàn hoạt động này, mà nên đưa ra các điều kiện chặt chẽ hơn để giảm bớt số

lượng cửa hàng, hộ kinh doanh vàng cá thể. Để được cấp phép KDV miếng, ngoài

giấy phép kinh doanh thông thường, doanh nghiệp cần có vốn pháp định tối thiểu 30

tỷ đồng và doanh thu 2 năm gần nhất là 500 tỷ đồng trở lên. Thay vì hạn chế đơn vị

được phép giao dịch, KDV để giảm tình trạng vàng hóa, Nhà nước có thể áp dụng

kinh nghiệm của Nhật Bản bằng cách đánh thuế đối với việc nắm giữ vàng của

người dân.

Bên cạnh việc tạo nguồn cung dồi dào để tác động lên thị trường cần xây

dựng một hệ thống tiêu chuẩn chất lượng vàng. Việc NHNN vừa là cơ quan quản lý

thị trường, vừa là cơ quan tổ chức sản xuất vàng miếng sẽ không đảm bảo khách

quan trong việc chứng nhận chất lượng vàng miếng thành phẩm. Mặt khác, khi cho

phép nhiều thương hiệu vàng cùng tồn tại thì cần thiết phải chuẩn hóa việc quản lý

chất lượng các sản phẩm vàng của các thương hiệu khác nhau. Căn cứ vào đó, nếu

đơn vị nào đáp ứng được những hệ thống tiêu chuẩn chất lượng thì vàng của đơn vị

đó được phép thừa nhận và lưu thông. Việt Nam cần thành lập văn phòng công nhận

chất lượng vàng độc lập với NHNN để chịu trách nhiệm quản lý chất lượng vàng

-83-

miếng và cấp chứng nhận thương hiệu vàng miếng đạt chất lượng. Ngoài ra, cần có

những trung tâm kiểm định chất lượng của các doanh nghiệp có năng lực chuyên

môn trong ngành vàng để thúc đẩy tính cạnh tranh.

Trước mắt, đối với việc đấu thầu vàng miến tăng cung ra thị trường mà

NHNN đang thực hiện, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, NHNN nên có cơ chế

kiểm soát giá bán lẻ với số vàng trúng thầu, nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp

trúng thầu bắt tay nhau neo giá cao. Với biện pháp này, NHNN có thể yên tâm bán

vàng giá rẻ, trong khi doanh nghiệp cũng không thể trục lợi với số vàng này.

3.2.2. Chính sách tài chính và tiền tệ phù hợp:

Chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng góp phần cùng các giải pháp vĩ

mô khác đưa kinh tế vượt qua giai đoạn suy giảm. Khi kinh tế bất ổn, lạm phát tăng

cao, tất yếu người dân đổ xô mua vàng, xem vàng như nơi trú ẩn an toàn. Cần xây

dựng chính sách tiền tệ hợp lý, linh hoạt, hiệu quả để góp phần ổn định kinh tế vĩ

mô, ổn định TTV. Theo đó, Việt Nam cần tham khảo các giải pháp của Mỹ thời

gian qua, FED có quan điểm rõ ràng không dùng giải pháp hành chính can thiệp vào

giá cả thị trường, mà dùng biện pháp kinh tế như chính sách thuế, tín dụng lãi suất

thấp và tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ cần được điều hành

linh hoạt, thận trọng để kiểm soát được mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín

dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, đảm bảo khả năng an toàn

thanh toán hệ thống ngân hàng, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế. Thực hiện

chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo điều kiện

cho các NHTM huy động vốn, mở rộng tín dụng, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất

lượng tín dụng. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tài chính và tiền tệ nhằm

nâng cao hiệu quả điều hành, kiểm soát tiền tệ, lạm phát. Để kiểm soát lạm phát ở

mức thấp và bền vững trong dài hạn, cần duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức thấp hơn

sản lượng tiềm năng và thực hiện chính sách tài khoá mở rộng ở mức hợp lý, nâng

cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, kiểm soát nhập siêu và giá cả thị trường

trong nước. Xây dựng lộ trình giảm nhập siêu, tiến tới xuất siêu, biện pháp chủ yếu

là tăng xuất khẩu, sản xuất hàng hoá trong nước thay thế hàng nhập khẩu, phát triển

-84-

thị trường trong nước. Kiểm soát bội chi ngân sách ở mức hợp lý, giảm dần, nâng

cao hiệu quả đầu tư từ khu vực nhà nước, giảm hệ số ICOR xuống mức tương

đương với các nước trong khu vực. Làm tốt công tác tuyên truyền trong và ngoài

nước, tránh thông tin sai lệch làm suy giảm lòng tin đối với các biện pháp điều hành

của Chính phủ.

Yêu cầu đặt ra đối với TTV Việt Nam là thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng

trong nước và thế giới. Điều này không những tác động tích cực tới việc kiềm chế

lạm phát mà còn tạo sự liên thông với thị trường quốc tế trong xu thế hội nhập. Để

giải quyết được vấn đề trên, vai trò chủ đạo đặt vào tay NHNN. Cần lưu ý đến yếu

tố biến động tỷ giá tác động đến giá vàng. Nếu tỷ giá tăng sẽ làm cho giá vàng thế

giới tính bằng USD quy đổi ra VND tăng. Tỷ giá ổn định, chẳng những tác động

tích cực đến kiềm chế lạm phát mà còn giữ ổn định giá vàng. Nhà nước cần có biện

pháp không để vàng lấn át vai trò tiền tệ của VND nhằm hướng tới một nội tệ mạnh

và ổn định trong dài hạn. Chiến lược chống vàng hóa cần nằm trong chiến lược tổng

thể của nền kinh tế như: chiến lược ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng bền

vững, an toàn nợ công.

Để bình ổn TTV, Nhà nước cần kiên quyết, nhất quán trong việc triển khai

và thực thi các chính sách liên quan, tránh tối đa sự chi phối của các nhóm lợi ích,

quan trọng nhất là cần phải tập trung các nguồn lực cho phát triển kinh tế, cải thiện

các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh.

Nếu làm được điều đó, niềm tin của người dân dần được cải thiện, tự động các

nguồn vốn sẽ đổ vào các kênh đầu tư khác có tính hiệu quả cao hơn, lúc đó TTV sẽ

dần tuân theo đúng quy luật thị trường, giá vàng trong nước sẽ dần tiệm cận với giá

vàng thế giới.

3.2.3. Dự trữ vàng hợp lý:

Vàng là loại hàng hóa có tính lưu động cao nhất trong các loại tiền tệ. Lịch

sử đã từng loại bỏ vai trò tiền tệ của vàng nhưng không thành công. Cần coi trọng

tính chất tiền tệ, dù chỉ là hình thức của vàng. Tùy theo tình hình tài chính quốc gia

mà NHNN nên tăng dự trữ vàng trong dự trữ ngoại hối nhà nước, coi đây là vấn đề

-85-

chiến lược lâu dài. Vàng trở thành kênh huy động và luân chuyển vốn liên thông

giữa các TTTC (tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, chứng khoán, vàng). Giá vàng ngày càng

chịu ảnh hưởng của lãi suất trái phiếu chính phủ, thuế thu nhập, hoạch định chính

sách tài chính và tiền tệ… Trong chiến lược của các quốc gia, dự trữ vàng đã trở

thành công cụ thực hiện mục tiêu khống chế tiền tệ, nâng cao uy tín và tầm ảnh

hưởng trên trường quốc tế. Vàng giữ vai trò quan trọng trong dự trữ ngọai hối của

các nước, lượng vàng dự trữ có xu hướng tăng lên trong tổng dự trữ ngọai hối, đặc

biệt là các nền kinh tế mới nổi lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil... Với xu

hướng các quốc gia đang dần đa dạng hóa và tăng dự trữ vàng trong điều kiện bất

ổn kinh tế- chính trị thế giới, Việt Nam cũng cần phải đa dạng hóa các nguồn dự trữ

ngọai tệ, trong đó trong đó có dự trữ vàng hợp lý. Với quỹ dự trữ, cộng với lượng

vàng huy động trong dân, Nhà nước có thể can thiệp vào TTV bất cứ lúc nào để

bình ổn giá vàng và thu hẹp khỏang cách giữa giá vàng trong nước và thế giới, đồng

thời bình ổn tỷ giá và tránh rủi ro biến động USD.

3.2.4. Kinh doanh vàng theo tiêu chuẩn quốc tế:

Để tạo sự liên thông giữa TTV trong nước với thế giới thì hàng hóa giao dịch

trên thị trường phải được chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế. Vàng quốc gia theo tiêu

chuẩn quốc tế phải hội đủ ít nhất hai điều kiện chính: thứ nhất là khi mua vàng này,

không phải đem đi nấu lại để kiểm định; thứ hai, phải được gia nhập Hiệp hội thị

trường vàng Luân Đôn, đây là tiêu chí quan trọng và chuẩn quốc tế. Hiện nay, Thụy

Sĩ và Úc là hai trong những nước có nhiều thương hiệu vàng đạt chuẩn này. Vì thế

nên coi việc gia nhập Hiệp hội thị trường vàng Luân Đôn là mục tiêu phấn đấu,

nâng cao uy tín và năng lực phát hành vàng Việt Nam.

Ngoài vàng miếng theo đơn vị đo lường truyền thống, cần sản xuất thêm

vàng với kích thước, tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế và áp dụng cơ chế khuyến

khích giao dịch loại vàng này, góp phần thuận lợi cho việc phát triển giao dịch trên

Sở giao dịch vàng và tạo sự gắn kết tốt hơn giữa TTV Việt Nam và TTV thế giới,

giúp việc xuất nhập được dễ dàng và giảm chi phí gia công vàng theo tiêu chuẩn

hiện hành của Việt Nam từ vàng nguyên liệu đạt chuẩn thế giới. Có lúc nhu cầu bán

-86-

vàng ra thị trường thế giới rất lớn nhưng không thể thực hiện được dù lượng vàng

tồn đọng trong nước tương đối cao. Việc KDV tại các NHTM chưa hòan tòan hội

nhập với kinh doanh quốc tế bởi sự khác biệt giữa vàng trong nước và thế giới, hạn

chế khả năng tiếp cận TTV thế giới của các đơn vị, đặc biệt là trong vấn đề xuất

vàng. Cách nhìn nhận và đánh giá của cơ quan nhà nước về bản chất tiền tệ của

vàng còn hạn chế, NHNN chưa công bố dự trữ ngoại hối bằng vàng, chính sách Nhà

nước còn hạn chế trong họat động KDV. Cũng cần ban hành các chỉ tiêu tài chính,

kinh tế, kỹ thuật khắt khe, quy trình công nghệ và quản lý giám sát sản xuất đối với

doanh nghiệp sản xuất vàng miếng để giảm dần số lượng thương hiệu vàng miếng ở

Việt Nam. Cho phép nhập khẩu, lưu hành, giao dịch vàng của các nhà sản xuất uy

tín thế giới. Đồng thời, có kế hoạch giao cho công ty sản xuất vàng uy tín Việt Nam

(chẳng hạn SJC) hợp tác với các nhà sản xuất vàng uy tín thế giới để sản phẩm vàng

khối, vàng thanh đạt chứng nhận của các tổ chức quốc tế, đủ điều kiện giao dịch

trên TTV thế giới.

3.2.5. Chính sách xuất nhập khẩu vàng:

NHNN không nhất thiết tự đứng ra thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu vàng

mà có thể giao cho các công ty nghiệp vụ chuyên môn, nhưng phải kiểm soát

thường xuyên, đặc biệt phối hợp với các lực lượng để ngăn chặn tối đa tình trạng

buôn lậu vàng. Cần có cơ chế linh hoạt hơn nhằm giúp TTV trong nước liên thông

với thị trường quốc tế, tránh những cú sốc về giá và góp phần giảm tình trạng buôn

lậu vàng. Hoạt động xuất nhập khẩu cần tập trung cho những doanh nghiệp có khả

năng tài chính, có kinh nghiệm và có mạng lưới sản xuất kinh doanh rộng, đủ điều

kiện để bình ổn thị trường. Hạn mức được cấp phù hợp với nhu cầu thị trường và

khả năng cân đối ngoại tệ của doanh nghiệp đó. Nên tránh tình trạng cấp hạn ngạch

nhập khẩu vàng trong thời gian quá ngắn, dẫn tới việc thu gom USD để nhập khẩu,

gây căng thẳng cho thị trường ngoại tệ, đồng thời gây bất lợi cho doanh nghiệp vì

không có điều kiện để chọn giá nhập thích hợp, từ đó không phát huy vai trò bình

ổn giá. Cần xác định rõ tiêu chí để phân bổ hạn ngạch hợp lý, công bằng, minh bạch

theo hướng mở rộng dần hạn ngạch để đi đến dỡ bỏ hạn ngạch khi trạng thái cán

-87-

cân thanh toán trở nên an toàn hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có quy định cụ thể

về đơn vị cấp quota cho phù hợp tình hình thực tế, tránh tình trạng chồng chéo, thủ

tục rườm rà, khiến các doanh nghiệp KDV không thể chủ động nhập hàng kịp thời

khi giá cả có lợi nhất. Việc nhập khẩu vàng phải gắn liền với việc phát triển TTV và

định hướng phát triển các công cụ tài chính dựa trên vàng để tập trung nguồn vốn

vàng vào ngân hàng hoặc Nhà nước.

Theo Hiệp hội KDV Việt Nam, siết chặt hoạt động xuất nhập khẩu vàng hiện

nay là cần thiết, song lại gây ra các hệ quả như giá trong nước cao hơn thế giới, kích

thích thu gom USD để nhập lậu, làm thị trường ngoại tệ tự do hỗn loạn, tỷ giá bị

đẩy cao. Việt Nam có biên giới dài trong lúc việc quản lý hàng hóa nhập lậu chưa

thật sự hiệu quả thì việc sử dụng biện pháp hành chính cấm nhập khẩu sẽ làm xuất

hiện tình trạng nhập lậu khiến Nhà nước thất thu thuế đồng thời cơ quan chức năng

khó quản lý hiệu quả. Việc độc quyền sản xuất vàng miếng theo tiêu chuẩn quốc gia

vốn có nhiều khác biệt so với tiêu chuẩn thế giới dẫn đến nguy cơ xuất hiện việc

nhập lậu, nắm giữ, giao dịch phổ biến vàng tiêu chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất

uy tín trên thế giới, do đó không thể đạt được mục tiêu chấm dứt nhập lậu vàng, tình

trạng chảy máu ngoại tệ vẫn tiếp diễn và cán cân thanh toán sẽ chịu tác động tiêu

cực. Trong dài hạn nên cho phép xuất nhập khẩu vàng như hàng hóa thông thường,

vấn đề là chính sách thuế và phí. Nên sử dụng công cụ thị trường trong quản lý

vàng, hơn là các quyết định hành chính. Có như vậy, sự khác biệt giữa giá vàng

trong nước và quốc tế sẽ giảm dần, từ đó giảm hoạt động đầu cơ lũng đoạn thị

trường.

Việt Nam hàng năm nhập khẩu lượng vàng lớn, tiêu tốn nhiều ngoại tệ

nhưng sử dụng chưa hiệu quả, chủ yếu vẫn nằm trong dân cư. Vàng đi vào nước ta

chủ yếu theo một chiều, gần như không có đầu ra nên việc KDV trong nước còn hạn

chế, chưa phát triển được, chỉ lòng vòng trong dân. Cụ thể, khi giá vàng trong nước

thấp hơn giá thế giới, người dân bán vàng nhiều, doanh nghiệp KDV mua vào

nhưng không được phép xuất khẩu để thu lợi nhuận. Nếu được xuất khẩu, doanh

nghiệp lại phải chuyển vàng miếng thành vàng nguyên liệu, tốn kém nhiều chi phí.

-88-

Xuất khẩu vàng góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại và tạo cơ hội tăng dự

trữ ngoại hối chính thức, giảm áp lực tăng tỷ giá, khơi thông nguồn vàng trong dân

trở thành nguồn vốn đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn vốn tín

dụng cho xã hội, có lợi cho nền kinh tế, gía vàng trong nước đi dần về hướng tương

đương và biến động sát với thế giới do các doanh nghiệp KDV và ngân hàng linh

động hơn trong việc mua bán vàng. Nhà nước cần nhìn nhận việc xuất khẩu vàng

dưới góc độ tích cực đối với nền kinh tế và có chính sách xuất khẩu hợp lý, lâu dài,

phù hợp yêu cầu thực tế của thị trường. Việc xử lý chính sách tránh bị động theo

tình thế nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu chính ngạch thực sự đóng

góp cho việc ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, cần nhìn nhận khách quan về ưu và

khuyết điểm của hoạt động xuất khẩu vàng, coi đây là một hoạt động bình thường

trong nền kinh tế thị trường, phải xây dựng chiến lược cụ thể cho từng giai đoạn

một cách phù hợp, theo thông lệ quốc tế nhằm tạo một công cụ quản lý thị trường

hữu hiệu và ổn định. Theo đó, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính và các ngành

có liên quan nghiên cứu thấu đáo nhằm quy định biểu thuế xuất nhập khẩu hợp lý

để vừa khuyến khích được xuất khẩu để thu ngoại tệ, Nhà nước cũng thu được thuế

và hoạt động thương mại được thực hiện minh bạch.

3.2.6. Có chính sách huy động vàng trong dân:

Để giảm lượng vàng cất trữ trong dân, huy động nguồn vốn này phục vụ phát

triển đất nước, Nhà nước cần có chính sách vĩ mô hợp lý, đúng lúc, ổn định thị

trường, không để xảy ra những đợt giá cả đột biến như những năm qua, nâng cao

giá trị VND, góp phần giảm tâm lý tích trữ vàng phòng rủi ro trong dân. Sau khi ổn

định trạng thái vàng của các NHTM, NHNN cần nghiên cứu thực hiện chủ trương

tiếp tục huy động vàng trong dân, phát hành chứng chỉ vàng để gom vàng về. Vừa

có thể dùng lượng vàng này đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế nhập khẩu, từ đó

không chịu sức ép cầu ngoại tệ để nhập khẩu vàng; đồng thời, số vàng này có thể

được sử dụng một phần để kinh doanh trên thế giới, nói cách khác là được chuyển

hóa thành vốn, đưa vào kinh doanh ở tầm quốc gia để củng cố chính sách tiền tệ,

giữ giá đồng Việt Nam. Số vàng huy động được sẽ dùng làm tài sản thế chấp tại các

-89-

ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nước ngoài để vay ngoại tệ với lãi suất thấp đem

về phục vụ các dự án phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia. Song, Nhà nước cần

xây dựng quy chế chặt chẽ về nghĩa vụ, quyền lợi của NHNN và NHTM. Chứng chỉ

vàng có thể được dùng như giấy tờ có giá, có thể đem thế chấp vay tiền. Cũng cần

thiết kế chính sách bảo hiểm phù hợp cho vàng gửi, công khai, dễ giám sát. Điều

này có thể giải quyết được cơn sốt trên TTV hiện nay. Bởi lẽ, cơn sốt vàng không

phải do nhu cầu vàng vật chất lớn mà do nhu cầu tích trữ vàng lớn. Hay nói cách

khác, nếu Nhà nước làm được việc phân nhóm đối tượng mua vàng theo mục đích

sử dụng vàng vật chất và mục đích tích trữ và có cách quản lý đặc thù cho từng

nhóm thì cơ bản sẽ giải quyết được tình trạng nóng- lạnh bất thường của TTV. Tuy

nhiên, các chuyên gia cũng bày tỏ quan ngại khi NHNN đứng ra tích trữ vàng thay

dân, sẽ phải cần một lượng vốn lớn mà nếu phát hành tiền sẽ gây lạm phát. NHNN

cũng nên có cơ chế hợp lý để các ngân hàng và doanh nghiệp thu hút lượng vàng

trong dân, tạo thành nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Về lâu dài, KDV miếng

sẽ bị thu hẹp.

3.2.7. Thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia:

Nghị định 24 có đề cập đến KDV qua tài khỏan nhưng những quy định đi

kèm chưa rõ ràng, cụ thể, cần đề cập toàn diện hơn các sản phẩm và dịch vụ tài

chính liên quan tới vàng chứ không đơn thuần chỉ quản lý vàng miếng và vàng trang

sức. Nhà nước cần chuyển hướng từ giao dịch vàng miếng sang giao dịch các sản

phẩm khác của vàng (chứng chỉ vàng, vàng tài khoản...) trên trung tâm giao dịch tập

trung. Cũng vì chưa có cơ chế, nên những năm qua hoạt động giao dịch vàng tài

khoản phát triển tự phát, gây bất ổn thị trường. Tuy nhiên, việc đóng cửa các sàn

vàng lại khiến giao dịch chuyển toàn bộ thành vàng vật chất, mà chủ yếu là mua bán

vàng miếng như hiện nay, làm tốn kém ngoại tệ nhập khẩu và tăng chi phí. Đây chỉ

nên là biện pháp tạm thời nhằm chỉnh đốn họat động KDV trước sự hỗn lọan thời

gian qua, Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ cách thức tổ chức,

quản lý bài bản hơn nhằm tạo thêm kênh đầu tư hấp dẫn, thu hút lượng vàng tích trữ

khá cao trong dân, giảm tải hoạt động giao dịch vàng vật chất, tăng khả năng thanh

-90-

khỏan của vàng và thúc đẩy TTTC trong nước sôi động, tăng khả năng kinh doanh

và kiến thức đầu tư vàng trong dân. Theo đó, nên sớm xúc tiến thành lập Sở Giao

dịch Vàng Quốc gia, dưới sự giám sát của NHNN và các cơ quan chức năng. Thành

viên của Sở là các NHTM và doanh nghiệp KDV có năng lực, uy tín. NĐT có nhu

cầu giao dịch sẽ đặt lệnh mua, bán thông qua các thành viên này. Ngoài việc tăng

tính thanh khoản, giao dịch vàng tài khoản mà không thực hiện chuyển giao vàng

vật chất trực tiếp còn làm giảm chi phí vận chuyển cùng rủi ro phát sinh trong quá

trình này. Tuy nhiên, cần xây dựng quy chế họat động của sàn vàng cũng như các

quy định liên quan đến KDV qua tài khỏan chặt chẽ. Sàn giao dịch vàng vật chất có

sự kết nối với TTV quốc tế để giá vàng trong nước tiệm cận với giá vàng thế giới

nhằm chặn đứng việc nhập khẩu vàng. Trong giai đoạn đầu, không cho phép sử

dụng đòn bẩy trên sàn giao dịch vàng vật chất nhằm đảm bảo sự ổn định, an toàn

của thị trường. Các nhà tạo lập thị trường trên sàn giao dịch vàng vật chất được

phép giao dịch vàng tài khoản trên thị trường thế giới. Từng bước cho phép các tổ

chức tài chính nước ngoài tham gia giao dịch trên sàn giao dịch vàng vật chất, cho

phép các ngân hàng huy động vàng thông qua các chứng chỉ vàng và cho phép các

chứng chỉ vàng giao dịch trên sàn giao dịch vàng vật chất. Phải dần chuyển đổi từ

TTV vật chất sang TTV có nhiều sản phẩm phái sinh, tạo cho các doanh nghiệp và

NĐT có thêm nhiều công cụ bảo hiểm rủi ro và hội nhập, tiếp cận được những sản

phẩm tài chính thông dụng trên thị trường quốc tế. Đảm bảo quyền sở hữu vàng hợp

pháp của tổ chức và cá nhân như quyền nắm giữ, chuyển nhượng, thế chấp, cầm

cố... theo quy định của pháp luật, đồng thời phải hạn chế việc sử dụng vàng làm

phương tiện thanh toán.

Sở Giao dịch vàng quốc gia là giải pháp cho TTV và là bước điều chuyển tất

yếu của TTTC. Sàn Giao dịch vàng thực hiện trên cơ sở khớp lệnh liên tục, giá vàng

do cung cầu quyết định, ngăn chặn tình trạng đầu cơ, thổi hoặc ghìm giá, nhằm đảm

bảo thị trường họat động minh bạch, hiệu quả, đảm bảo tính ổn định của TTTC và

nền kinh tế. Giống như giao dịch chứng khóan, các sàn giao dịch vàng cần một đơn

vị điều khiển trung tâm là Sở giao dịch vàng quốc gia nhẳm quản lý, giám sát và tạo

-91-

sự thống nhất chung cho tòan hệ thống sàn giao dịch vàng. Trung tâm này hoạt

động công khai, minh bạch và hỗ trợ ngân hàng hay Chính phủ khi gặp khó khăn

thanh khoản, quy định tách riêng hoạt động quản lý và kinh doanh để tránh mâu

thuẫn quyền lợi với NĐT. Việc thành lập một sàn giao dịch vàng tập trung sẽ khơi

thông kênh đầu tư vàng, tạo dòng chảy cho thị trường dưới sự kiểm soát của Nhà

nước. Hình thành được Sở giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế được lượng giao dịch

không chính thức, tránh được những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan

quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của TTV, cung cầu ngoại tệ liên quan đến

vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên TTV một cách chủ động hơn, để có những

điều tiết kịp thời. Qua Sở giao dịch này, NHNN sẽ có cơ sở để ban hành các quy

chế cần thiết cho việc quản lý TTV. NHNN là cơ quan quản lý có đầy đủ công cụ,

kỹ thuật để quản lý tốt nhất Sở giao dịch vàng. Hơn nữa, các thành viên của Sở giao

dịch vàng là các công ty sản xuất vàng miếng và các NHTM đủ điều kiện, mà các

đối tượng này đang chịu sự quản lý của NHNN. NĐT muốn giao dịch trên Sở giao

dịch vàng phải mở tài khoản KDV tại NHTM và lưu ký vàng vật chất tại kho vàng

(cũng do NHNN quản lý) thông qua NHTM nơi mình mở tài khoản KDV. Tuy

nhiên, họat động KDV trên tài khoản, mặc dù là kênh đầu tư hấp dẫn giúp NĐT đa

dạng hóa danh mục đầu tư nhưng mức độ rủi ro cao nên cần được quản lý chặt chẽ.

Giai đọan đầu chỉ cho phép NĐT cá nhân tham gia với tỷ lệ ký quỹ 100% nhằm hạn

chế rủi ro, chủ yếu để tạo cho NĐT môi trường tiếp cận, tích lũy kinh nghiệm trong

lĩnh vực KDV tài khỏan.

Hoạt động Sở Giao dịch Vàng Quốc gia phải đảm bảo các yêu cầu:

 Hoạt động được tiến hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả.

 Giảm thiểu rủi ro trong giao dịch, thanh toán và cung cấp cơ sở hạ tầng

tốt nhất, công nghệ mới nhất.

 Tổ chức giao dịch trực tuyến cho NĐT với sự bảo mật, an toàn cao nhất.

 Hợp lý hóa chi phí giao dịch ở mức tối ưu.

 Thực hiện công bố thông tin về giao dịch vàng, các thành viên và thông

tin giám sát hoạt động của TTV.

-92-

 Khi thị trường hoạt động ổn định và chuẩn bị đủ điều kiện về hạ tầng

công nghệ và cơ chế quản lý rủi ro, có thể triển khai giao dịch theo giờ giao dịch

của thị trường Luân Đôn để gia tăng sự kết nối, liên thông với TTV thế giới.

3.2.8. Hình thành và phát triển quỹ đầu tƣ vàng:

Các nguồn vốn nhàn rỗi riêng lẻ trong công chúng được tập trung lại, thông

qua quỹ đầu tư sẽ được đưa vào các dự án dài hạn, đảm bảo nguồn vốn phát triển

vững chắc. Ngoài ra, quỹ đầu tư còn bảo vệ lợi ích cho NĐT bằng cách đa dạng hóa

danh mục đầu tư, phân tán rủi ro, giảm thiểu chi phí do lợi ích về quy mô, tăng tính

chuyên nghiệp trong quản lý đầu tư. Quỹ đầu tư có vai trò cũng như tầm ảnh hưởng

khá lớn, nếu lĩnh vực đầu tư vàng tại Việt Nam có những quỹ đầu tư vàng sẽ tạo

điều kiện để phát triển KDV, tăng hiệu quả đầu tư vàng cho các NĐT, giảm thiểu

rủi ro và chi phí so với đầu tư riêng lẻ, góp phần ổn định và phát triển TTTC.

Việc NHNN cho phép mở GETFs trên sàn chứng khoán Việt Nam được các

chuyên gia đề cập đến như một biện pháp khác để chữa cháy cho các cơn sốt vàng

hiện nay. GETFs có mục tiêu duy nhất là đảm bảo giá trị của quỹ tăng lên/giảm

xuống đúng bằng giá vàng, do đó giá cổ phiếu của GETFs cũng tăng/giảm theo giá

vàng. NĐT mua/bán GETFs sẽ chỉ quan tâm đến giá vàng thế giới chứ không lo

lắng tình hình giá vàng trong nước. Nhiều khả năng giá vàng trong nước sẽ gần với

giá vàng quốc tế hơn vì hai thị trường này sẽ liên thông gián tiếp qua GETFs. Các

giao dịch được thực hiện trên TTCK nên sẽ loại bỏ nhiều rủi ro cho NĐT (vàng giả,

trộm cắp, làm giá...).

3.2.9. Phát triển kinh doanh vàng trên tài khoản nƣớc ngoài:

TTV Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh, tuy nhiên, để đuổi kịp các TTV

trong khu vực, cần đạt tiêu chí của một thị trường mở để kết nối với các giao dịch

của TTV thế giới. KDV trong nước hiện nay chỉ là KDV vật chất nên thị trường

chưa phản ứng nhanh với tình hình thế giới. Hiệp hội KDV Việt Nam kiến nghị mở

lại nghiệp vụ KDV trên tài khoản ở nước ngoài, giúp các NHTM và doanh nghiệp

cân đối trạng thái, qua đó phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua các công cụ

phái sinh, mà không nhất thiết phải xuất, nhập khẩu vàng. Việc này chỉ nên giới hạn

-93-

đối với các doanh nghiệp có thị phần kinh doanh lớn, có đủ kinh nghiệm do đây là

hoạt động rủi ro rất cao. KDV trên tài khoản làm giảm lượng vàng vật chất hàng

năm phải nhập khẩu, góp phần đáng kể giảm nhập siêu. Hoạt động này cần được

định hướng trong dài hạn và là loại hình kinh doanh có điều kiện chứ không nên

cấm. Việc tổ chức quản lý giám sát, nhất là kiểm soát mức độ tuân thủ trạng thái

vàng của các tổ chức này cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm ngặt để đảm bảo rủi

ro trong mức chấp nhận. Việc liên thông giá vàng trong nước với thế giới qua kênh

mua- bán này rất cần thiết. Doanh nghiệp hay ngân hàng sẽ yên tâm bán vàng khi

dân có nhu cầu bởi có thể mua ngay một lượng tương đương trên tài khoản, kéo

khoảng cách chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới sát lại.

3.2.10. Hỗ trợ, tạo điều kiện để ngành kim hoàn Việt Nam tham gia thị

trƣờng thế giới:

Các cơ sở sản xuất KDV bạc đá quý của nước ta đa phần đều hoạt động riêng

lẻ, quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu làm thủ công nên sản phẩm chưa đồng nhất

và tinh xảo, chưa đủ sức cạnh tranh với các nước trên thế giới. Nhà nước cần có

chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư thiết bị, tiếp thu công nghệ hiện đại trong

chế tác trang sức nhằm cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước (tái cấp vốn từ

nguồn lợi nhuận làm ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, cấp

tín dụng ưu đãi đối với các công trình đầu tư của ngành kim hoàn...). Doanh nghiệp

cần tập trung đẩy mạnh đầu tư hiện đại hóa sản xuất, củng cố uy tín thương hiệu và

thiết lập mạng lưới bán lẻ để trước hết, đứng vững trên thị trường nội địa. Đồng

thời, Nhà nước cũng tạo điều kiện để các công ty ngành kim hoàn trong nước có dịp

giao lưu, trao đổi thông tin về quản lý và sản xuất, hợp tác đầu tư phát triển kinh

doanh, tiếp cận thị trường nước ngoài như tham gia các hội chợ trong nước và quốc

tế...

3.2.11. Ổn định tâm lý thị trƣờng:

Việc chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới luôn ở mức cao cho thấy

bên cạnh việc đầu cơ, đã có sự ảnh hưởng từ tâm lý đám đông. Việc thiếu lòng tin

vào VND, trong lúc lo ngại giá vàng trong nước tăng cao làm cầu vàng tăng mạnh

-94-

trong khi nguồn cung có hạn, khiến thị trường chứng kiến các cơn sốt giá vàng,

những người dân thiếu kiến thức và kinh nghiệm dễ bị cuốn vào vòng xoáy này, dễ

chuốc lấy rủi ro. Theo một chuyên gia từ NHNN, có hai nguyên nhân khiến ngừơi

dân chạy theo các cơn sốt giá. Thứ nhất là sức hấp dẫn trong lựa chọn đầu tư ngắn

hạn với các tài sản có giá trị như USD và vàng. Nhiều ngừơi hy vọng vào những

cơn sốt để tạo “sóng” cao sinh lợi lớn. Tuy nhiên, chỉ một bộ phận nhỏ chủ động

đầu tư là kiếm lãi, còn đa số người dân bị cuốn vào dòng xóay tâm lý bị thua lỗ.

Thứ hai, nhiều người dân vẫn quen tích trữ vàng và USD như tài sản đảm bảo. Khi

giá chớm biến động, người dân sợ mất giá trị tài sản nên vội đổ xô mua bán gây xáo

trộn thị trường. Tâm lý đám đông là yếu tố chi phối trong các cơn sốt giá, nhất là

khi niềm tin vào sự nhanh nhạy trong quản lý của các cơ quan có thẩm quyền bị xói

mòn thì người dân dễ bị dẫn dắt bởi thông tin truyền miệng, đồn thổi. Tâm lý bất ổn

khiến nhiều người đổ xô mua bán vàng cùng lúc là hiểm họa cho cả nền kinh tế.

Việc hóa giải “tâm lý đám đông” không quá khó, nếu có sự can thiệp nhanh chóng

và kịp thời của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, những phản ứng của cơ quan quản

lý thường quá chậm, có thể là do áp lực kiềm chế nhập siêu, giảm lạm phát, duy trì

tỷ giá ổn định đã khiến các cơ quan này đắn đo, kéo dài quyết định. Khi TTV còn

nhiều bất cập, rất cần sự can thiệp cũng như các phát ngôn và thông tin chính thức,

có chất lượng và trách nhiệm cao của các cơ quan chức năng, giúp ngừơi dân nâng

cao nhận thức, ổn định tâm lý không bị xóay vào cơn lốc tin đồn. Khi có biến động

giá lớn do ảnh hưởng tình hình thế giới, các phương tiện thông tin đại chúng cần

đưa tin rõ những nguyên nhân gây biến động và mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế

Việt Nam, tránh tình trạng gây tâm lý hoang mang, đổ xô đi mua bán vàng trên thị

trường theo số đông, từ đó ảnh hưởng đến các mặt khác của nền kinh tế.

Cần đảm bảo hòan thiện và tuân thủ các nguyên tắc quản lý kinh tế và cạnh

tranh thị trường, giảm thiểu và khắc phục các biểu hiện lạm dụng công cụ quản lý

hành chính, mệnh lệnh và hiện tượng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì

lợi ích ngành độc quyền, bất chấp lợi ích quốc gia. Đảm bảo các biến động chính

sách minh bạch và có thể dự báo trong xu hướng ổn định, nhất quán, phù hợp

-95-

nguyên tắc kinh tế thị trường khách quan. Đồng thời, phát hiện và trừng phạt kịp

thời, nghiêm khắc các đối tượng tung tin đồn thất thiệt nhằm mục tiêu phá họai

chính sách, đầu cơ và cạnh tranh không lành mạnh. Có thể áp dụng xử lý hình sự

với các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, thông báo rộng rãi làm gương trong dân

chúng. Tăng cường giáo dục dân trí, nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường và

hiểu biết pháp luật, tăng khả năng nhận thức và cảnh giác, tránh hành động kiểu bầy

đàn, vô tình hoặc cố ý tiếp tay và trở thành nạn nhân của tin đồn. Đồng thời, tăng

cường, thể chế hóa các phát ngôn và cung cấp thông tin chính thức có chất lượng,

trách nhiệm pháp lý cao định kỳ và không định kỳ của các cơ quan và đại diện nhà

nước, các tổ chức kinh doanh có liên quan, cũng như các ngành và doanh nghiệp

đang có độ độc quyền kinh doanh cao, như xăng, dầu, điện… Điều đó là những cấu

thành không thể thiếu trong cơ chế bảo vệ sự cạnh tranh và họat động lành mạnh

của kinh tế thị trường có quản lý vĩ mô của Nhà nước, từ đó bảo vệ lợi ích của

người tiêu dùng tránh khỏi những thiệt hại.

3.3. Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh vàng:

3.3.1. Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, hòan thiện hệ thống

truyền tin:

Trong lĩnh vực KDV, thông tin đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp,

mạnh mẽ đến quyết định đầu tư. Việc tiếp nhận thông tin sai lệch có thể ảnh hưởng

sai lệch hướng đầu tư. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp KDV phải liên tục đầu tư,

trang bị và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hiện đại kịp thời, quy trình họat

động rõ ràng, rành mạch để đáp ứng nhu cầu đầu tư chính xác, tránh tình trạng ách

tắc, sai lệch thông tin, tránh rủi ro trong giao dịch, để đầu tư có hiệu quả hơn.

3.3.2. Phát triển, hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ mới theo hƣớng phát

triển hội nhập, phục vụ tối đa nhu cầu đầu tư đa dạng của khách hàng. Tập trung

phát triển nguồn lực để phát triển các sản phẩm phái sinh với chi phí thấp phục vụ

nhu cầu trong nước, khỏi phải thông qua các tổ chức nước ngoài (option, future...).

Trước khi đưa sản phẩm, dịch vụ mới vào họat động, cần sọan thảo cẩn thận, rõ

-96-

ràng quy trình họat động; tránh tình trạng làm đến đâu rút kinh nghiệm đến đó, gây

ảnh hưởng đến uy tín với khách hàng.

3.3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ nhân viên:

Nhân viên là cầu nối giữa NĐT và doanh nghiệp. Nhân viên vừa phải bảo

đảm lợi ích của công ty, vừa chăm sóc quyền lợi khách hàng, giúp họ sử dụng sản

phẩm hiệu quả nhất và mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng. Để đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao và khắt khe của NĐT, các doanh nghiệp phải thường xuyên đào

tạo, huấn luyện, trau đồi chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, đàm

phán, trình độ am hiểu sản phẩm, am hiểu thị trường, khả năng phân tích cho đội

ngũ nhân viên.

3.3.4. Xây dựng chính sách tiếp thị, chăm sóc khách hàng hiệu quả:

Để thu hút các NĐT, các doanh nghiệp còn cần chú trọng đến khâu tiếp thị,

chăm sóc khách hàng, có nhiều chương trình ưu đãi cho khách hàng. Cần nỗ lực tìm

hiểu, tập hợp, phân tích các dữ liệu trên TTV để tư vấn một cách tối ưu nhất, tạo

niềm tin cho NĐT, tìm cách giảm bớt rủi ro cho các NĐT như cảnh báo trước

những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình KDV, đồng thời, có thể hướng dẫn và

tư vấn xây dựng mô hình quản lý rủi ro cho từng khách hàng. Bên cạnh đó, các

ngân hàng cần có thêm nhiều chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay, mức ký quỹ, phí

giao dịch… Đầu tư xây dựng trang web cung cấp thông tin và dịch vụ đầu tư vàng

với nhiều tính năng tiện ích, giao diện dễ theo dõi, truy vấn thông tin để tăng thêm

tính chuyên nghiệp, cung cấp những thông tin cần thiết, kịp thời cho khách hàng.

Kết luận chƣơng 3:

Trên cơ sở phân tích những vấn đề tồn tại trên TTV tại Việt Nam ở chương

2, chương 3 tổng hợp những định hướng của cơ quan quản lý về ổn định TTV, từ đó

nêu lên những nhận định đối với thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn

cầu, làm nền tảng đề xuất những giải pháp đối đối cơ quan quản lý và các tổ chức

KDV nhằm thực hiện mục tiêu ổn định TTV tại Việt Nam.

-97-

KẾT LUẬN

Đề tài đã hệ thống được các lý luận liên quan đến vàng, TTV cũng như các

tiêu chí để đánh giá một TTV ổn định. Bên cạnh đó, đề tài cũng đi vào tìm hiểu kinh

nghiệm quản lý TTV của Ấn Độ và Trung Quốc- hai thị trường tiêu thụ vàng vật

chất lớn nhất thế giới, và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về tập quán sử

dụng vàng, từ đó đúc kết được những kinh nghiệm quan trọng trong quản lý TTV,

trở thành bài học tham khảo cho đề xuất cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam.

Với nền tảng đó, đề tài đã thực hiện phân tích thực trạng TTV tại Việt Nam

và đánh giá những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế của thị trường này. Trên

cơ sở đó, cùng với sự bám sát vào định hướng của cơ quan Nhà nước về quản lý

TTV tại Việt Nam, đề tài đã đề xuất nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý và các

tổ chức KDV nhằm ổn định TTV tại Việt Nam trong xu hướng hội nhập với thế

giới, đảm bảo TTV Việt Nam liên thông được với TTV thế giới; từng bước thu hẹp

khoảng cách chênh lệch giá vàng giữa hai thị trường; giảm thiểu ảnh hưởng của

biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; ngăn chặn, đẩy lùi

tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế; từng bước huy động được nguồn lực vàng

trong dân phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt:

1. Đặng Thị Tường Vân, (2008), Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng

tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM, TP.

HCM.

2. Lê Hoàng Nga và Hoàng Phương Linh (2011), “Quản lý thị trường vàng

ở Việt Nam”, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

3. Nguyễn Hồ Minh Châu (2012), Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh

doanh vàng tài khoản tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh

tế TP. HCM, TP. HCM.

4. Nguyễn Thị Thanh Hương (2011), “Quản lý hoạt động kinh doanh vàng

bằng các giải pháp đồng bộ”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

5. Phạm Huy Hùng (2011), “Thị trường vàng Việt Nam: Những bất cập và

yêu cầu cải cách”, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

6. Phạm Minh Chính- Vương Quân Hòang (2009), Kinh tế Việt Nam thăng

trầm và đột phá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo tiếng Anh:

7. Peter L. Bernstein (2004), The power of gold, John Wiley & Sons, New

York.

8. Himadri Bhattacharya (2002), Deregulation of gold in India, WGC,

London.

9. World Gold Council, Gold demand trends, London.

Website:

10. http://www.gold.org/ (Hội đồng vàng thế giới)

11. http://www.kitco.com/

12. http://www.gfmsworldgold.com/

13. http://www.goldcore.com/

14. http://www.mining.com/

15. http://www.monex.com/

16. http://sbv.gov.vn/ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)

17. http://gso.gov.vn/ (Tổng cục Thống kê Việt Nam)

18. http://vnba.org.vn/ (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam)

19. http://www.sjc.com.vn/ (Công ty TNHH MTV Vàng Bạc Đá Qúy Sài

Gòn)

20. http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/ (Cục Thống kê TP. HCM)

21. http://www.hsx.vn/ (Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM)

22. http://webgiavang.com/

23. http://www.giavang.net/

24. http://www.sggp.org.vn/

25. http://vang-24h.com.vn

26. http://thitruongngoaihoi.vn/

27. http://www.vinanet.com.vn/

28. http://vnecono.vn/

29. http://gafin.vn/

30. http://thuvienphapluat.vn/

31. http://vi.wikipedia.org/

PHỤ LỤC

NGHỊ ĐỊNH Số 24/2012/NĐ-CP

(ban hành ngày 03 tháng 04 năm 2012)

VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005;

Căn cứ Luật doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005;

Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 16 tháng 6

năm 2010;

Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010;

Theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng,

Chƣơng 1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

1. Nghị định này quy định về hoạt động kinh doanh vàng, bao gồm: Hoạt động sản

xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang

sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu vàng và các hoạt động kinh doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh

doanh vàng trên tài khoản và hoạt động phái sinh về vàng.

2. Các quy định của Nghị định này không áp dụng đối với hoạt động khai thác và

tinh luyện vàng của doanh nghiệp khai thác vàng.

Điều 2. Đối tƣợng áp dụng

Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh vàng trên

lãnh thổ Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Vàng trang sức, mỹ nghệ là các sản phẩm vàng có hàm lượng từ 8 Kara (tương

đương 33,33%) trở lên, đã qua gia công, chế tác để phục vụ nhu cầu trang sức, trang trí mỹ thuật.

2. Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam (sau đây được gọi là Ngân hàng Nhà nước) cho phép sản xuất hoặc

vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ.

3. Vàng nguyên liệu là vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng và các loại vàng khác.

4. Hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng qua tài

khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ và giá trị ròng được định giá lại liên tục

theo biến động của giá vàng.

Điều 4. Nguyên tắc quản lý

1. Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ

theo quy định của pháp luật.

2. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt

động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này.

3. Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập

khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

4. Quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền vững thị

trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục

vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật.

5. Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh vàng phải tuân thủ các quy định của Nghị

định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

6. Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là

hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

7. Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh

doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.

8. Hoạt động phái sinh về vàng của các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài thực hiện theo Điều 105 Luật các tổ chức tín dụng.

9. Các hoạt động kinh doanh vàng khác, trừ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng,

hoạt động mua, bán vàng nguyên liệu trong nước của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ và doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ

và các hoạt động quy định tại Khoản 6, 7, 8 Điều này, là hoạt động kinh doanh

thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh. Tổ chức, cá nhân chỉ được

thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép.

Chƣơng 2. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, GIA CÔNG VÀ MUA, BÁN VÀNG

TRANG SỨC, MỸ NGHỆ

Điều 5. Điều kiện hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ

1. Doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ được Ngân hàng Nhà nước cấp

Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ khi đáp ứng đủ các

điều kiện sau đây:

a) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký sản xuất

vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

b) Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động

sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

2. Ngân hàng Nhà nước quy định thủ tục và hồ sơ Giấy chứng nhận đủ điều kiện

sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Điều 6. Trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ

nghệ

1. Thực hiện đóng mã ký hiệu và hàm lượng vàng trên sản phẩm, công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng của sản phẩm theo quy định pháp luật và chịu trách

nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm đã công bố do doanh nghiệp sản xuất.

2. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm do doanh nghiệp thuê gia công.

3. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn, chứng từ.

4. Có phương án bảo đảm an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi

trường và phòng chống cháy nổ.

5. Bảo đảm duy trì các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định này.

6. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Điều 7. Hoạt động gia công vàng trang sức, mỹ nghệ

Cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã và doanh nghiệp được thực hiện gia công cho

doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ và phải có đăng ký gia công vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Điều 8. Điều kiện hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ

Doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải đáp ứng đủ các

điều kiện sau đây:

1. Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh

doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp.

2. Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động

mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ.

Điều 9. Trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức,

mỹ nghệ

1. Niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về khối lượng, hàm lượng vàng, giá

mua, giá bán các loại sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường.

2. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn

chứng từ.

3. Tuân thủ các quy định của pháp luật về đo lường.

4. Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh.

5. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có

liên quan.

Chƣơng 3. HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN VÀNG MIẾNG

Điều 10. Quản lý hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng

Hoạt động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh

doanh mua, bán vàng miếng.

Điều 11. Điều kiện cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng

1. Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh

mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

a) Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.

b) Có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên.

c) Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 2 (hai)

năm trở lên.

d) Có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 (năm trăm) triệu

đồng/năm trở lên trong 2 (hai) năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan

thuế).

đ) Có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 (ba) tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương trở lên.

2. Tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh

mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

a) Có vốn điều lệ từ 3.000 (ba nghìn) tỷ đồng trở lên.

b) Có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng.

c) Có mạng lưới chi nhánh tại Việt Nam từ 5 (năm) tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương trở lên.

3. Ngân hàng Nhà nước quy định thủ tục và hồ sơ cấp Giấy phép kinh doanh mua,

bán vàng miếng đối với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng.

Điều 12. Trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng

Doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng có

trách nhiệm:

1. Chỉ được phép mua, bán các loại vàng miếng quy định tại Khoản 2 Điều 3 của

Nghị định này.

2. Không được phép thực hiện kinh doanh vàng miếng thông qua các đại lý ủy

nhiệm.

3. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn

chứng từ.

4. Niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về giá mua và giá bán vàng miếng.

5. Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh.

6. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Chƣơng 4. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU VÀNG

Điều 13. Xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ

1. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ được thực hiện theo Giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

2. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ để tham gia triển lãm, hội

chợ quốc tế thực hiện theo quy định của Chính phủ về hội chợ, triển lãm quốc tế.

Điều 14. Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu

1. Căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ và cung - cầu vàng trong từng thời kỳ,

Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu

vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên

liệu cho doanh nghiệp theo quy định tại các Khoản 3, 4, 5, 6 Điều này và cấp giấy

phép xuất khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp có Giấy phép khai thác vàng

theo quy định tại khoản 7 Điều này.

2. Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu của Ngân hàng Nhà nước

được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

3. Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ cho doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp

giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

4. Doanh nghiệp kinh doanh vàng có hợp đồng gia công vàng trang sức, mỹ nghệ

với nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép tạm nhập vàng nguyên liệu để tái xuất sản phẩm.

5. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu trong năm kế hoạch cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài căn cứ vào

năng lực sản xuất và báo cáo tình hình xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ của năm

trước.

6. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khai thác vàng có nhu cầu nhập khẩu vàng do doanh nghiệp khai thác ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước

xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu.

7. Doanh nghiệp có Giấy phép khai thác vàng được Ngân hàng Nhà nước xem xét

cấp Giấy phép xuất khẩu vàng nguyên liệu do doanh nghiệp khai thác được.

8. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng bột, dung dịch, vẩy hàn,

muối vàng và các loại vàng trang sức dưới dạng bán thành phẩm được thực hiện

theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp.

9. Ngân hàng Nhà nước quy định điều kiện, thủ tục và hồ sơ cấp Giấy phép xuất

khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu quy định tại các Khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này.

Điều 15. Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân

Người Việt Nam và người nước ngoài khi xuất cảnh, nhập cảnh qua các cửa khẩu

quốc tế được mang theo vàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Chƣơng 5. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

VÀNG

Điều 16. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nƣớc

1. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban

hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này.

2. Ngân hàng Nhà nước được bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước.

3. Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các biện pháp sau đây:

a) Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị

định này.

b) Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời

điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động

của Ngân hàng Nhà nước.

c) Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động

vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

4. Ngân hàng Nhà nước cấp, thu hồi:

a) Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

b) Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng.

c) Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu.

d) Giấy phép mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy

định.

đ) Giấy phép đối với các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng

Chính phủ cho phép.

5. Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động sản xuất

vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, vàng trang

sức, mỹ nghệ; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu và hoạt động kinh

doanh vàng khác.

6. Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến

quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Điều 17. Trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng như sau:

1. Bộ Công Thương có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện

chức năng quản lý, kiểm tra, thanh tra hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức,

mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ và việc doanh

nghiệp kinh doanh vàng chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm quy định và hướng dẫn thực hiện cấp

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng và sao gửi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho Ngân hàng Nhà nước

chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn để phối hợp thực hiện.

3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trình cơ quan có thẩm

quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vàng, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập đối với

hoạt động kinh doanh vàng phù hợp trong từng thời kỳ.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan có trách nhiệm thực

hiện ban hành tiêu chuẩn chất lượng đối với vàng trang sức, mỹ nghệ; kiểm tra,

thanh tra và quản lý chất lượng đối với vàng trang sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị

trường và kiểm định phương tiện đo lường của các doanh nghiệp kinh doanh vàng.

5. Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc đấu

tranh, điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật về kinh doanh vàng trong phạm vi chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

6. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng tại

địa phương theo quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có

liên quan.

Điều 18. Phối hợp liên ngành về quản lý hoạt động kinh doanh vàng

Căn cứ vào yêu cầu thực tế, các Bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp, chia

sẻ thông tin để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng; phối hợp thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh vàng theo quy định của pháp

luật.

Chƣơng 6. HÀNH VI VI PHẠM

Điều 19. Hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh vàng

Hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh vàng bao

gồm:

1. Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ không có Giấy chứng nhận đủ điều

kiện kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước cấp.

2. Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên

liệu không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.

3. Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định không

có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.

4. Sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.

5. Hoạt động sản xuất vàng miếng trái với quy định tại Nghị định này.

6. Hoạt động kinh doanh vàng khác khi chưa được Thủ tướng Chính phủ cho phép và Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép.

7. Vi phạm các quy định khác tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác

có liên quan.

Chƣơng 7. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 20. Chế độ báo cáo

Các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh vàng phải thực hiện báo

cáo tình hình hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; tình hình mua, bán vàng

miếng; tình hình xuất khẩu, nhập khẩu vàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước

và các cơ quan có thẩm quyền.

Điều 21. Điều khoản chuyển tiếp

1. Trong thời hạn 12 (mười hai) tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi

hành:

a) Các tổ chức đang hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải thực hiện

đăng ký kinh doanh lại với cơ quan đăng ký kinh doanh và hoàn tất thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ tại Ngân hàng Nhà

nước theo quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật có liên quan.

b) Các tổ chức đang hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải thực hiện đăng ký kinh doanh lại với cơ quan đăng ký kinh doanh.

2. Ngân hàng Nhà nước quy định thời hạn, thủ tục chuyển tiếp đối với các doanh

nghiệp và tổ chức tín dụng đang kinh doanh mua, bán vàng miếng.

3. Các giấy phép sản xuất vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước cấp hết hiệu lực từ

ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

Điều 22. Hiệu lực thi hành Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 5 năm 2012 và thay thế Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về quản

lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6

năm 2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09

tháng 12 năm 1999.

Điều 23. Trách nhiệm thi hành

1. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức

thực hiện Nghị định này.

2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính

phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổ

chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.