BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐAI HỌC KINH TẾ

LÊ THẾ HOÀNG VŨ

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG NINH TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

HUẾ 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐAI HỌC KINH TẾ

LÊ THẾ HOÀNG VŨ

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG NINH TỈNH QUẢNG BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ MÃ SỐ : 83 40 410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN

HUẾ 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Lê Thế Hoàng Vũ, xin cam đoan: Luận văn “Giải pháp phát triển

kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình” là công

trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy giáo TS.

Nguyễn Đình Chiến.

Hệ thống số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực,

chính xác, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình

nào khác.

Tác giả luận văn

i

Lê Thế Hoàng Vũ

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, lời cảm ơn đầu tiên đặc biệt và sâu sắc nhất, tôi

xin gửi đến thầy TS.Nguyễn Đình Chiến, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi

tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quí thầy cô giáo Trường Đại học

Kinh tế Huế đã nhiệt tình giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt quá trình học tập và

nghiên cứu.

Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến các Lãnh đạo, nhân viên các phòng, ban

chuyên môn của: Ủy ban nhân dân; Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn

huyện Quảng Ninh; chi cục Thống kê huyện Quảng Ninh đã nhiệt tình cung cấp số

liệu, tư vấn giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.

Và tôi xin cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã chia sẽ, động

viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học và thực hiện thành

công luận văn này.

Luận văn là tổng hợp kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu và sự nỗ lực

cố gắng của bản thân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn không thể tránh

khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy

(cô) và đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Quảng Bình, ngày tháng năm 2018

Tác giả

ii

Lê Thế Hoàng Vũ

TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

Mã số: 8340410

Họ và tên học viên: LÊ THẾ HOÀNG VŨ Chuyên ngành: Quản lý kinh tế ứng dụng Niên khóa: 2016 - 2018 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Chiến Tên đề tài: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG NINH TỈNH QUẢNG BÌNH

1. Tính cấp thiết Những năm qua, mô hình kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển ở Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đã khuyến khích các hộ gia đình mạnh dạn đầu tư, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Là địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế trang trại tuy nhiên kinh tế trang trại phát triển còn gặp nhiều khó khăn do sản phẩm làm ra chưa đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ, giá cả hàng hóa nông sản bấp bênh. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế trang trại ở Quảng Bình nói chung và Quảng Ninh nói riêng vẫn chưa đồng bộ và chưa phát huy hiệu quả.

2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài số liệu thứ cấp, nghiên cứu còn tiến hành thu thập số liệu sơ cấp bằng cách phỏng vấn 31 chủ trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh và dùng phương pháp tổng hợp và phân tích để đưa ra vấn đề và hướng giải quyết.

iii

3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu đi sâu phân tích giữa lý luận và thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua và trên cơ sở các dự báo phát triển kinh tế - xã hội của huyện Quảng Ninh trong những năm đến, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại tập trung vào một số nội dung như phát triển số lượng trang trại vì hiện nay số trang trại trên địa bàn còn quá ít. Tiếp theo, phải gia tăng các yếu tố nguồn lực như đất đai, vốn, KH-KT, lao động...và quan trọng hơn cả là cần quan tâm đến thị trường tiêu thụ các sản phẩm mà trang trại sản xuất ra. Từ đó cần thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp thì sẽ tăng hiệu quả kinh tế cho các mô hình trang trại, cải thiện thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống người dân, góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội huyện Quảng Ninh.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT : Thông tư

KH-KT : Khoa học – Kỹ thuật

KHCN : Khoa học công nghệ

NN : Nông nghiệp

UBND : Ủy Ban Nhân Dân

SXKD : Sản xuất kinh doanh

BNN&PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá CNH-HĐH

: Hội đồng nhân dân HĐND

KTTT : Kinh tế trang trại

: Quyết định QĐ

iv

TB&XH : Thương binh và Xã hội

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii

TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ ................................ iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv

MỤC LỤC...................................................................................................................v

DANH MỤC BẢNG BIỂU ...................................................................................... ix

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ............................................................................x

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ .............................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1

2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................2

4 Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................3

5 Nội dung nghiên cứu ................................................................................................4

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................5

CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TRANG TRẠI.............................................................................................................5

1.1.TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI.......................................................5

1.1.1.Trang trại và Kinh tế trang trại...........................................................................5

1.1.2.Vai trò của việc phát triển kinh tế trang trại ......................................................9

1.1.3.Đặc trưng của Kinh tế trang trại.......................................................................10

1.1.4.Phân loại Kinh tế trang trại và Tiêu chí xác định KTTT .................................13

1.1.5 .Ý nghĩa của việc phát triển kinh tế trang trại..................................................15

1.2.NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI ..............16

1.2.1 Phát triển kinh tế...............................................................................................16

1.2.2 Phát triển số lượng trang trại............................................................................17

1.2.3 Gia tăng các yếu tố nguồn lực..........................................................................17

1.2.4 Liên kết sản xuất các trang trại ........................................................................20

v

1.2.5.Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ...............................22

1.2.6.Gia tăng kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại...........................24

1.3.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG

TRẠI..........................................................................................................................25

1.3.1.Điều kiện tự nhiên ............................................................................................25

1.3.2. Điều kiện xã hội ..............................................................................................27

1.3.3.Điều kiện kinh tế ..............................................................................................29

1.4 MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở CÁC

HUYỆN KHÁC ........................................................................................................34

1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số địa phương trong nước ....34

1.4.2 Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc phát triển kinh tế trang trại ở huyện

Quảng Ninh ...............................................................................................................37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................38

CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN QUẢNG NINH.................................................................................39

2.1.ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA HUYỆN QUẢNG NINH

ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI ....................39

2.1.1.Đặc điểm về điều kiện tự nhiên........................................................................39

2.1.2.Tình hình kinh tế ..............................................................................................46

2.1.3.Đặc điểm xã hội ...............................................................................................50

2.2.THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN QUẢNG

NINH THỜI GIAN QUA..........................................................................................54

2.2.1.Thực trạng phát triển về số lượng trang trại.....................................................54

2.2.2.Thực trạng các yếu tố nguồn lực......................................................................56

2.2.3.Thực trạng về liên kết sản xuất ........................................................................62

2.2.4.Thực trạng về phát triển thị trường ..................................................................63

2.2.5.Thực trạng về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh ..................................65

2.3.ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI

HUYỆN QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN QUA ............................................67

vi

2.3.1.Kết quả đạt được ..............................................................................................67

2.3.2.Tồn tại, hạn chế ................................................................................................69

2.3.3.Nguyên nhân của những mặt tồn tại, hạn chế ..................................................70

2.3.4 Một số bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại ...........................72

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................73

CHƯƠNG 3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở

HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH ....................................................74

3.1.CÁC CĂN CỨ TIỀN ĐỀ ĐỂ XÂY DỰNG GIẢI PHÁP ..................................74

3.1.1.Xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam ..........................................74

3.1.2.Một số quan điểm có tính nguyên tắc khi xây dựng giải pháp. .......................74

3.2 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG THỜI

GIAN TỚI .................................................................................................................76

3.3 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG THỜI GIAN

TỚI. ...........................................................................................................................77

3.3.1. Mục tiêu chung ...............................................................................................77

3.3.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2022 .......................................................................77

3.4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN

QUẢNG NINH .........................................................................................................77

3.4.1 Giải pháp phát triển số lượng trang trại. ..........................................................77

3.4.2 Giải pháp gia tăng các yếu tố nguồn lực ..........................................................78

3.4.3Giải pháp tăng cường liên kết sản xuất các trang trại .......................................82

3.4.4 Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ...............83

3.4.5 Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho từng loại hình trang trại

...................................................................................................................................84

3.4.6Giải pháp tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với KTTT ........................87

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..........................................................................................89

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................90

1. Kết luận .................................................................................................................90

2. Kiến nghị ...............................................................................................................91

vii

2.1. Đối với cấp tỉnh .................................................................................................91

2.2. Đối với cấp huyện..............................................................................................92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................93

QUYẾT ĐỊNH HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

BIÊN BẢN CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

NHẬN XÉT CỦA PHẢN BIỆN 1+2

BẢN GIẢI TRÌNH

viii

XÁC NHẬN HOÀN THIỆN LUẬN VĂN

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Quảng Ninh qua các năm.........43

Bảng 2.2: Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Quảng Ninh năm 2017

.............................................................................................................47

Bảng 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất, cơ cấu của các ngành kinh tế của huyện

Quảng Ninh qua các năm ....................................................................49

Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu về đặc điểm nhân khẩu học xã hội của huyện Quảng

Ninh năm 2017 ....................................................................................51

Bảng 2.5: Số lượng, cơ cấu của từng loại hình trang trại qua các năm ...............54

Bảng 2.6: Quy mô diện tích của các loại hình trang trại năm 2017 ....................56

Bảng 2.7: Thực trạng đất nông nghiệp của các mô hình trang trại huyện Quảng

Ninh năm 2017 ....................................................................................57

Bảng 2.8: Thực trạng lao động của các loại hình trang trại huyện Quảng Ninh

năm 2017 .............................................................................................58

Bảng 2.9: Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của các trang trại năm 2017

.............................................................................................................60

Bảng 2.10: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại năm 2017.................63

Bảng 2.11: Sản lượng chủ lực các sản phẩm của trang trại qua các năm..............64

Bảng 2.12: Doanh thu và chi phí của các trang trại năm 2017 ..............................65

Bảng 2.13: Thu nhập bình quân trang trại huyện Quảng Ninh

ix

giai đoạn 2014 - 2017..........................................................................67

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

Bản đồ 2.1: Bản đồ hành chính huyện Quảng Ninh .................................................40

Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu hiện trạng sử dụng đất của huyện Quảng Ninh năm

x

2017 .......................................................................................................45

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế trang trại ở nước ta đã tồn tại từ lâu, nhưng chỉ phát triển mạnh mẽ

trong vài năm gần đây. có thể nói việc thực hiện chỉ thị 100 của ban bí thư tw đảng

(khoá 4), nghị quyết 10 - NQ/TW của bộ chính trị (tháng 4/1988) về phát huy vai

trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân đã đặt nền móng cho sự ra đời của kinh tế trang

trại với những thành tựu của công cuộc đổi mới, sản xuất nông nghiệp có bước phát

triển vượt bậc, nhiều hộ nông dân có tích luỹ, đã tạo điều kiện cho kinh tế trang trại

phát triển. đặc biệt là sau khi luật đất đai ra đời năm 1993, thì kinh tế trang trại mới

có bước phát triển khá nhanh và đa dạng việc phát triển kinh tế trang trại đã đem lại

lợi ích to lớn về nhiều mặt, làm thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế - xã hội của các

vùng nông thôn.

Sự phát triển của kinh tế trang trại đã tạo ra bước chuyển biến mới trong

nông nghiệp, nông thôn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất và diện tích mặt

nước để tạo ra vùng sản xuất với khối lượng hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản có giá trị

kinh tế cao. Kinh tế trang trại đã tạo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu

mùa vụ ngày càng có hiệu quả cao; phát triển kinh tế trang trại đã góp phần giải

quyết nhiều việc làm, nâng cao chất lượng đời sống cho bà con nông dân và góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Kinh tế trang trại ở nước ta đã hình thành từ lâu,

nhưng phải tới mấy năm gần đây mới phát triển mạnh mẽ. Thực tế cho thấy mô

hình Kinh tế trang trại đem lại lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội cho nông dân và

nông thôn do sử dụng có hiệu quả nguồn lợi đất đai, tạo nhiều việc làm cho người

lao động, hình thành các mô hình sản xuất mới.

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, phát triển kinh tế trang trại là

bước đột phá trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn,

góp phần phát huy được lợi thế của từng vùng, nhất là ở vùng gò đồi và vùng cát

ven biển, góp phần khai thác thêm diện tích đất trống đồi núi trọc, đất hoang hóa;

1

thu hút nguồn vốn trong dân, góp phần ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào sản xuất, thu hút và tạo việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xóa

đói giảm nghèo và làm giàu cho người dân.

Những năm qua, mô hình kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển ở

Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đã khuyến khích các hộ gia đình mạnh dạn

đầu tư, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp.

Là địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế trang trại tuy

nhiên kinh tế trang trại phát triển còn gặp nhiều khó khăn do sản phẩm làm ra chưa

đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ, giá cả hàng hóa nông sản bấp bênh. Bên cạnh

đó, cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế trang trại ở Quảng Bình nói chung và

Quảng Ninh nói riêng vẫn chưa đồng bộ và chưa phát huy hiệu quả. Vì vậy, tác giã

đã chọn đề tài “ Giải pháp phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng

Ninh, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1 Mục tiêu chung

Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế trang

trại, đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế trang trại tại huyện Quảng Ninh,

đưa ra những giải pháp đồng bộ phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương để

thúc đẩy sự phát triển của mô hình kinh tế này, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao sự

phát triển kinh tế trang trại tại huyện Quảng Ninh trong thời gian tới.

2.2 Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận thực tiễn về kinh tế trang trại và phát

triển kinh tế trang trại

- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng

Ninh, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014 - 2017

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển có hiệu quả kinh tế trang

trại tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận về phát triển kinh tế

2

trang trại tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

+ Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về quy mô, cơ cấu, loại hình, kết

quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế... của các mô hình kinh tế trang trại có

trên địa bàn huyện Quảng Ninh.

+ Về không gian: Nội dung nghiên cứu trên được tiến hành tại huyện Quảng

Ninh, tỉnh Quảng Bình.

+ Về thời gian:

Số liệu đánh giá thực trạng được thu thập từ năm 2014-2017. Các giải pháp

đề xuất trong luận văn có ý nghĩa trong những năm tiếp theo.

4 Phương pháp nghiên cứu

4.1. Thu thập thông tin, tài liệu, số liệu:

- Số liệu thứ cấp: Từ các cơ quan ban ngành trong tỉnh và các phòng chuyên

môn huyện Quảng Ninh giai đoạn 2013 - 2017.

- Số liệu sơ cấp: Tiến hành điều tra thu thập thông tin tại các trang trại trên

địa bàn huyện, phỏng vấn trực tiếp các chủ trang trại trên địa bàn huyện Quảng

Ninh, tỉnh Quảng Bình, với số lượng 31 trang trại và theo cơ cấu loại hình, cụ thể:

Trồng trọt 03 trang trại; chăn nuôi 19 trang trại; tổng hợp 9 trang trại.

4.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích:

- Phương pháp phân tổ, tổng hợp: Sử dụng phương pháp này để hệ thống hóa

và phân tích số liệu, nhằm khái quát hóa những đặc trưng chung, những cơ cấu tồn

tại khách quan theo các mặt của tổng thể nghiên cứu bằng các chỉ tiêu thống kê. Từ

việc phân tích kết hợp phương pháp tổng hợp để đưa ra những đánh giá khái quát về

phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh.

- Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp được sử dụng để mô tả những

đặc tính cơ bản của số liệu thu thập được, phương pháp này cho phép thông qua số

liệu thống kê nhằm mô tả thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn từ đó

tìm ra xu hướng để có những giải pháp tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại

3

trên địa bàn huyện Quảng Ninh.

- Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này để xem xét các chỉ tiêu

phân tích bằng cách so sánh mức độ của cùng một hiện tượng tại không gian hoặc

thời gian khác nhau; so sánh từng bộ phận với tổng thể và giữa các bộ phận trong

tổng thể với nhau nhằm nghiên cứu kết cấu, biến đổi kết cấu; so sánh giữa các chỉ

tiêu của các hiện tượng khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Phương pháp so

sánh có hai hình thức: So sánh tuyệt đối và so sánh tương đối. So sánh tuyệt đối dựa

trên hiệu số của hai chỉ tiêu so sánh là chỉ tiêu kỳ phân tích và chỉ tiêu cơ sở. So

sánh tương đối là tỷ lệ (%) của chỉ tiêu kỳ phân tích so với chỉ tiêu gốc để thể hiện

mức độ hoàn thành hoặc tỷ lệ của số chênh lệch tuyệt đối với chỉ tiêu gốc để nói lên

tốc độ tăng trưởng.

- Phương pháp chuyên gia: Trên cơ sở số liệu thu thập được từ các phương

pháp trên, để hoàn thành được luận văn còn tham khảo ý kiến của các nhà khoa học,

nhà chuyên môn, các chuyên gia trong phát triển kinh tế trang trại. Kế thừa các

công trình nghiên cứu, các bài viết đã công bố trên các báo viết, báo mạng, các công

trình nghiên cứu khoa học về phát triển kinh tế trang trại để hoàn thiện luận văn.

5 Nội dung nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các bảng biểu, kết luận, tài liệu tham

khảo, đề tài chia làm 03 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại

Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quảng Ninh, tỉnh

Quảng Bình

Chương 3: Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quảng Ninh, tỉnh

4

Quảng Bình.

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TRANG TRẠI

1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1.1. Trang trại và Kinh tế trang trại

1.1.1.1 Trang trại

Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu khoa học kinh tế, trang trại và kinh tế

trang trại được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, thể hiện rõ qua các khái

niệm. Trang trại là một đơn vị kinh tế hộ gia đình có tư cách pháp nhân, được

nhà nước giao quyền sử dụng một số diện tích đất đai, rừng, biển hợp lý để tổ chức

lại quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá;

tích cực áp dụng các biện pháp kỹ thuật và công nghệ mới nhằm cung ứng ngày

càng nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao hơn cho nhu cầu trong nước và

xuất khẩu;nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của từng đơn vị diện tích, góp phần xoá

đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người tham

gia. Trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô

lớn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có

hiệu quả.

Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông lâm, thuỷ

sản, có mục đích sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc sở hữu hoặc quyền

sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và

các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn

với thị trường. [2]

Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở lao động

và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách pháp nhân, tự chủ sản xuất kinh

doanh bình đẳng với các thành phần khác, có chức năng chủ yếu là sản xuất nông

5

sản hàng hoá, tạo ra nguồn thu nhập chính và đáp ứng nhu cầu cho xã hội. [3]

Ở các nước phát triển, trang trại gia đình có vai trò to lớn và quyết định trong

sản xuất nông nghiệp và đại bộ phận nông sản cung cấp cho xã hội được sản xuất ra

trong các trang trại gia đình.

Ở nước ta, loại hình trang trại mà chủ yếu là trang trại gia đình, mặc dù mới

phát triển trong những năm gần đây, song vai trò tích cực và quan trọng của nền

kinh tế trang trại đã thể hiện rõ nét cả về kinh tế cũng như về mặt xã hội và môi

trường. Có thể khẳng định rằng, trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp

hàng hóa dựa trên cơ sở lao động, đất đai, tư liệu sản xuất cơ bản của hộ gia đình,

hoàn toàn tự chủ, sản xuất kinh doanh bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác, sản

phẩm làm ra chủ yếu là để bán và tạo nguồn thu nhập chính cho gia đình.[6]

Trong nền kinh tế thị trường thời kỳ công nghiệp hoá, trang trại được hiểu

với các khái niệm cụ thể sau:

+ Trang trại là tổ chức sản xuất cơ sở của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá

trong thời kỳ công nghiệp hoá.

Trang trại là đơn vị sản xuất nông nghiệp độc lập tự chủ, là chủ thể pháp lý

có tư cách pháp nhân trong các quan hệ kinh tế - xã hội, có cơ sở vật chất kỹ thuật

để đảm bảo sản xuất nông nghiệp, có tổ chức lao động sản xuất kinh doanh, có quản

lý kiểu doanh nghiệp.

Trang trại thường có các qui mô khác nhau (nhỏ, vừa và lớn ) song song tồn

tại lâu dài với sự thay đổi về cơ cấu tỷ lệ và qui mô trung bình…Trang trại thường

có các cơ cấu sản xuất khác nhau với cơ cấu thu nhập khác nhau, trong và ngoài

nông nghiệp, với phương thức quản lý kinh doanh khác nhau (chuyên môn hoá, đa

dạng hoá sản phẩm) với trình độ năng lực sản xuất khác nhau.

1.1.1.2 Kinh tế trang trại

Kinh tế trang trại là một khái niệm không còn mới với các nước kinh tế phát

triển và đang phát triển. Song đối với nước ta đang còn là một vấn đề mới, do nước

ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên việc nhận thức chưa đầy đủ về kinh

tế trang trại là điều không thể tránh khỏi. Thời gian qua các lý luận về kinh tế trang

6

trại đã được các nhà khoa học trao đổi trên các diễn đàn và các phương tiện thông

tin đại chúng. Song cho tới nay ở mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau các nhà khoa

học lại đưa ra các khái niệm khác nhau về kinh tế trang trại.

Theo một số nhà khoa học trên thế giới thì khái niệm về kinh tế trang trại

như sau:

Lênin đã phân biệt kinh tế trang trại “Người chủ trang trại bán ra thị trường

hầu hết các sản phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì dùng đại bộ phận sản phẩm

sản xuất được, mua bán càng ít càng tốt” .

Quan điểm của Mác đã khẳng định, điểm cơ bản của trang trại gia đình là sản

xuất hàng hoá, khác với kinh tế tiểu nông là sản xuất tự cấp tự túc, nhưng có điểm

giống nhau là lấy gia đình làm cơ sở làm nòng cốt.

Trên đây là một số quan điểm của các nhà khoa học trên thế giới, còn quan điểm

một số nhà khoa học trong nước đã đưa ra như sau:

Quan điểm 1:“Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại ,...)

là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và

phân công lao động xã hội, bao gồm một số người lao động nhất định được chủ

trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động sản xuất kinh

doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ”.

Quan điểm trên đã khẳng định kinh tế trang trại là một đơn vị sản xuất hàng

hoá, cơ sở cho nền kinh tế thị trường và vai trò của người chủ trang trại trong quá

trình sản xuất kinh doanh nhưng chưa thấy được vai trò của hộ gia đình trong các

hoạt động kinh tế và sự phân biệt giữa người chủ với người lao động khác.

Quan điểm 2: “Kinh tế trang trại là kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá ở

mức độ cao”.

Quan điểm trên cho thấy cơ bản quyết định của kinh tế trang trại là sản xuất

hàng hoá ở trình độ cao nhưng chưa thấy được vị trí, vai trò của nền kinh tế trang

trại trong nền kinh tế thị trường và chưa thấy được vai trò của người chủ trang trại

trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Quan điểm 3 cho rằng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng

7

hoá lớn trong Nông- Lâm - Ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác ở nông

thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình phát triển sản xuất

kinh doanh, có phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn bình thường trên đồng

vốn bỏ ra, có trình độ đưa thành tựu khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng

hoá tạo ra sức cạnh tranh cao trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao”.

Quan điểm trên đã khẳng định kinh tế thị trường (nền kinh tế hàng hoá đã

phát triển cao) là tiền đề chủ yếu cho việc hình thành và phát triển kinh tế trang

trại. Đồng thời khẳng định vai trò vị trí của chủ trang trại trong quá trình quản lý

trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại.

Từ các quan điểm trên đây ta có thể rút ra khái niệm chung về kinh tế trang

trại: “ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất trong Nông-Lâm- Ngư nghiệp,

có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc

quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô

ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản

lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.

1.1.1.3 Phát triển Kinh tế trang trại

Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của trang trại và những mối

quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang

trại. Như vậy có thể hiểu phát triển kinh tế trang trại là quá trình tăng cường các yếu

tố vật chất của trang trại cả về mặt số lượng và chất lượng, đồng thời là quá trình

giải quyết hài hòa hơn các mối quan hệ kinh tế trong quá trình hoạt động sản xuất

kinh doanh của trang trại. Phát triển kinh tế trang trại phải được đặt trong mối quan

hệ hài hòa với yếu tố xã hội và bảo vệ môi trường là cơ sở bảo đảm cho sự phát

triển bền vững của kinh tế trang trại. Phát triển kinh tế trang trại là sự gia tăng thực

tế giá trị sản lượng hàng hóa nông sản sản xuất ra hay thu nhập trên trang trại trong

một thời kỳ nhất định. Đồng thời, phát triển kinh tế trang trại là một quá trình hoàn

thiện về chất của phát triển sản xuất trang trại với sử dụng hiệu quả các nguồn lực,

trình độ của chủ trang trại được nâng cao, tạo việc làm ở khu vực nông thôn, môi

trường sinh thái, thể chế…theo hướng hiện đại, trong một thời gian nhất định nhằm

8

phát triển kinh tế trang trại bền vững. [9]

Kinh tế trang trại phát triển hay không được thể hiện thông qua quy mô sản

xuất kinh doanh của trang trại ngày càng được mở rộng. Các yếu tố cơ bản của sản

xuất được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. [10]

1.1.2. Vai trò của việc phát triển kinh tế trang trại

Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất quan trọng trong nền nông nghiệp

thế giới, ngày nay trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu trong nền nông

nghiệp các nước ở các nước đang phát triển trang trại gia đình có vai trò to lớn

quyết định trong sản xuất nông nghiệp, ở đây tuyệt đại bộ phận nông sản phẩm cung

cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các trang trại gia đình.

Ở nước ta kinh tế trang trại mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây. song

vai trò tích cực và quan trọng của kinh tế trang trại đã thể hiện khá rõ nét cả về mặt

kinh tế cũng như về mặt xã hội và môi trường.

- Về mặt kinh tế, các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát

triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng

phân tán, tạo nên những vùng chuyên môn hoá cao mặt khác qua thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt

công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. thực tế cho thấy việc phát

triển kinh tế trang trại ở những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc khai

thác và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả các loại nguồn lực trong nông nghiệp

nông thôn so với kinh tế nông hộ.

Do vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào thúc đẩy sự tăng

trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

- Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại góp phần quan trọng làm tăng số

hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm tăng thêm thu nhập cho lao động. điều

này rất có ý nghĩa trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những

vấn đề bức xúc của nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. mặt khác phát triển

kinh tế trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn

và tạo tấm gương cho các hộ nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh

doanh ... do đó phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào việc giải quyết các

9

vấn đề xã hội và đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn nước ta.

- Về mặt môi trường: do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực

và lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan

tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái

trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng .

Các trang trại ở trung du, miền núi đã góp phần quan trọng vào việc trồng rừng, bảo

vệ rừng, phủ xanh đất trồng đồi núi trọc và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai -

những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thaí trên

các vùng đất nước .

Tóm lại: Trong các mặt kinh tế - xã hội, môi trường của trang trại thì mặt

kinh tế là mặt cơ bản, chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Vì vậy, trong

nhiều trường hợp khi nói đến kinh tế trang trại, tức là nói tới mặt kinh tế của trang

trại, người ta gọi tắt là kinh tế trang trại.

1.1.3. Đặc trưng của Kinh tế trang trại

Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000

của Chính phủ về kinh tế trang trại và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như

thực trạng hình thành và phát triển của trang trại thời gian qua, có thể thấy trang trại

ở Việt Nam có một số đặc trựng cơ bản sau:

- Trong trang trại, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn được

tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.

Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản

xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung với

quy mô nào đó.

Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong nông nghiệp. Không

có đất đai thì không có sản xuất nông nghiêp. Tuy nhiên phải có tích tụ tập trung

ruộng đất đến một mức độ nào đó thì mới có sản xuất hàng hóa. Phải đạt tới một

quy mô tối thiểu nào đó thì mới có thể bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả

cao hơn trong sản xuất kinh doanh. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc

điểm về mục đích sản xuất của trang trại. Tuy nhiên trong điều kiện khí hậu bình

10

thường, năng lực sản xuất của đất đai phụ thuộc vào trình độ thâm canh, vào tiến bộ

khoa học kỷ thuật được áp dụng trong nông nghiệp. Vì vậy điều kiện về quy mô

kinh doanh đất đai để hình thành trang trại cũng có thể thay đổi theo thời gian. Sự

tập trung về tài sản tiền vốn cũng là điều tối quan trọng đối với quá trình hình thành

và phát triển của các trang trại. Sản xuất kinh doanh hàng hóa đòi hỏi phải có lượng

vốn ban đầu nhất định để đầu tư các khoản chi phí đầu vào. Do đó, ở các trang trại

sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản

xuất,... được tập trung tới quy mô đủ lớn.

- Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người

chủ độc lập.

Người chủ độc lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt động

sản xuất kinh doanh. Người chủ trang trại là người nắm giữ một phần hoặc toàn

phần về quyền sở hữu tài sản nếu như nắm quyền sử dụng tài sản, thì tài sản này có

thể được hình thành dưới hình thức vốn góp hoặc đi thuê tài sản tài chính, như vậy

xét dưới góc độ là tài sản của trang trại thì tài sản dù được hình thành bằng cách nào

nó vẫn thuộc quyền sử dụng của trang trại, có thể tạo ra lợi ích về kinh tế trong

tương lai. Đứng trên khía cạnh của quan hệ sản xuất, người chủ trang trại là người

có quyền định đoạt sản xuất, người chủ trang trại là người có quyền định đoạt sản

phẩm do trang trại sản xuất ra.

- Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại ngày càng

mang tính khoa học, chuyên nghiệp.

Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và quy mô

sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều hành sản xuất

của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính tryền thống, người chủ hộ chỉ cần có kinh

nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Nhưng

đối với trang trại, với mục đích chính là sản xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi

nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu truyền

thống không còn phù hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn

cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản

11

xuất, áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính,

hạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh….Do vậy việc quản lý, điều

hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những

kiến thức khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.

- Mục đích chủ yếu của trang trại là kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá

theo nhu cầu thị trường.[17]

Kinh tế trang trại đi lên từ kinh tế hộ nông dân, trong quá trình phát triển

kinh tế hộ gia đình đã vượt qua được giai đoạn tự cung tự cấp, vươn lên sản xuất

hàng hóa nông, lâm, thủy sản bán ra thị trường nhằm thu lợi nhuận.

Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại. Tỷ suất hàng hóa càng cao thể

hiện bản chất và trình độ phát triển của trang trại. Kinh nghiệm của các nước trên thế

giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hóa và tỷ suất hàng hóa bán ra trong năm

luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ yếu của trang trại. Sản xuất nông nghiệp

theo kiểu truyền thống tự cung, tự cấp chỉ giải quyết nhu cầu của chính người sản

xuất, lượng sản phẩm dư thừa đem bán trên thị trường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so

với khối lượng nông sản mà họ sản xuất ra. Các hộ nông dân cũng cố gắng bán bất kỳ

thứ nông sản nào do chính bản thân họ sản xuất ra giai đoạn này gọi là thương mại

hóa sản phẩm. Sau đó hộ nông dân sản xuất ra hàng hóa theo yêu cầu của thị trường

đó là giai đoạn sản xuất hàng hóa của hộ đã đạt đến một cấp độ cao hơn, một bộ phận

nông dân đã phát triển đến hình thức sản xuất theo mô hình trang trại.

Đặc trưng sản xuất hàng hóa là đặc trưng quan trọng nhất, bởi vì mục đích

sản xuất hàng hóa chi phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định tới tất cả đặc

trưng khác của trang trại. Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hóa có thể biểu thị

về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu như giá trị sản xuất hàng hóa tạo ra trong

một năm của trang trại; tỷ suất hàng hóa của trang trại.

- Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức

và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp và có hiểu biết nhất định về kinh doanh, về

thị trường.

Như đã xác định ở trên, một trang trại phải có quy mô tập trung ruộng đất và

12

tiền vốn nhất định, hoạt động kinh tế của trang trại phải chủ yếu là sản xuất hàng hoá.

Muốn vậy người chủ trang trại phải là người có ý chí, có hiểu biết cần thiết về kỹ

thuật sản xuất và có năng lực nhất định về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh nông

nghiệp; có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và sự hiểu biết

về kinh tế như hạch toán, phân tích và sự biến động thị trường. Tuy nhiên những tố

chất này không phải tự nhiên mà có nó được hình thành từ khi tạo lập trang trại và

dần dần được tích lũy thêm trong quá trình sản xuất. Những tố chất đó của người chủ

trang trại được thể hiện rất rõ trong tư duy, trong ý thức và trong cung cách tổ chức

quản lý sản xuất của họ mà các chủ hộ tự cấp tự túc không có được.

Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại có sự

khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và trình độ sản

xuất. Trang trại đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính chất của loại hình doanh

nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ở nước ta.

1.1.4. Phân loại Kinh tế trang trại và Tiêu chí xác định KTTT

1.1.4.1 Tiêu chí xác định Kinh tế trang trại

Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNN&PTNT ngày 13/4/2011 Quy định về

tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.

Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt tiêu

chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:

1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, SX tổng hợp phải đạt:

a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:

- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;

- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.

b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.

2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu

đồng/năm trở lên;

3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá

trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.

Các loại mô hình trang trại bao gồm: Trang trại trồng trọt, trang trại chăn

13

nuôi, trang trại lâm nghiệp, trang trại thủy sản, trang trại tổng hợp.

1.1.4.2 Phân loại Kinh tế trang trại

* Theo các hình thức tổ chức quản lý:

- Trang trại gia đình: toàn bộ tư liệu sản xuất đều thuộc quyền sở hữu của hộ

gia đình, hộ gia đình là người tự quyết định tổ chức và sản xuất kinh doanh. Loại

hình trang trại này sử dụng sức lao động trong gia đình là chính, kết hợp thuê nhân

công phụ trong mùa vụ.

- Trang trại hợp tác: là loại hình hợp tác tự nguyện của một số trang trại gia

đình với nhau thành một trang trại quy mô lớn hơn để tăng thêm khả năng về vốn,

tư liệu sản xuất và công nghệ mới tạo ra ưu thế cạnh tranh.

- Trang trại cổ phần: là loại hình hợp tác các trang trại thành một trang trại

lớn theo nguyên tắc góp cổ phần và hoạt động giống nguyên tắc của công ty cổ

phần. Loại hình này chủ yếu phát triển trong lĩnh vực chế biến, tiêu thụ lâm sản.

- Nông trại ủy thác: là loại hình trang trại mà chủ trang trại ủy thác cho bà

con, bạn bè quản lý từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh trong

khoảng thời gian nhất định khi chủ trang trại đi làm việc khác.

* Phân loại theo quy mô hoạt động trang trại được chia thành 3 loại: Trang

trại có quy mô nhỏ, trang trại có quy mô vừa và trang trại có quy mô lớn.

* Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất bao gồm:

Trường hợp phổ biến là người chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất

từ đất đai, công cụ máy móc đến chuồng trại kho bãi.

Hình thức thứ 2 chủ trang trại chỉ sở hữu một phần tư liệu sản xuất còn một

phần phải đi thuê của người khác.

Hình thức thứ 3 chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà phải đi thuê.

* Theo cơ cấu sản xuất:

- Trang trại kinh doanh tổng hợp: là loại nông trại sản xuất kinh doanh nhiều

loại sản phẩm, gắn với trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp với các ngành nghề khác.

- Trang trại sản xuất chuyên môn hóa là trang trại tập trung sản xuất kinh

doanh một số loại sản phẩm như trang trại chuyên nuôi gà, vịt, lợn và bò sữa,

14

chuyên trồng hoa, rau, chuyên nuôi trồng thủy sản.

1.1.5 Ý nghĩa của việc phát triển kinh tế trang trại

Kinh tế trang trại phát triển không chỉ ngày càng mang lại cuộc sống ấm no,

đầy đủ về mặt vật chất và tinh thần cho từng gia đình mà có ý nghĩa lớn lao đối với

sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, thể hiện ở các mặt sau:

- Ý nghĩa về mặt kinh tế: Kinh tế trang trại đã tạo bước chuyển biến cơ bản

về giá trị sản phẩm hàng hoá, thu nhập của trang trại vượt trội hơn hẳn so với kinh

tế hộ, hình thành nên những vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung, thúc đẩy quá

trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi các loại giống

cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao. Khắc phục dần tình trạng phân tán, tạo

nên những vùng chuyên canh trong sản xuất và tiêu thụ mặt hàng nông sản, tiến tới

xây dựng nên những vùng, miền nông thôn mới văn minh, hiện đại.

Mặt khác phát triển kinh tế trang trại đã góp phần phát triển công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp mà đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất nông

nghiệp ở nông thôn. Thực tế cho thấy việc phát triển kinh tế trang trại bao giờ cũng

đi liền với việc khai thác và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả hơn so với kinh tế

hộ về các nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn.

- Ý nghĩa về mặt xã hội: Thu hút được một lực lượng lao động dư thừa ở

nông thôn tham gia vào sản xuất, chăn nuôi, góp phần quan trọng làm tăng số hộ

giàu ở nông thôn, giải quyết việc làm tăng thu nhập, giảm sức ép di cư tự do từ

nông thôn ra thành thị. Ngày nay, trong xu hướng chung của cả nước, cơ cấu của

nền kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và

dịch vụ đã tác động lớn đến khoảng cách chênh lệch thu nhập của đại bộ phận dân

cư, thu nhập của người dân đô thị cao hơn so với khu vực nông thôn. Do vậy, một

bộ phận lao động thất nghiệp ở nông dân đã đi đến các khu đô thị để tìm việc làm,

sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại có ý nghĩa rất quan trọng trong giải

quyết việc làm ở nông thôn, người lao động gắn bó với công việc ở nông thôn, hạn

chế sự di cư đến đô thị.

- Ý nghĩa về môi trường: Phát triển kinh tế trang trại có ý nghĩa rất lớn trong

15

vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh tế trang trại với quy mô lớn về vốn, diện

tích, trình độ của chủ trang trại, vì vậy có lợi thế trong việc ứng dụng nhanh các

công nghệ sinh học mới, thâm dụng vốn nên vừa nâng cao năng suất cây trồng vật

nuôi ngay trên một đơn vị diện tích (không cần mở rộng diện tích từ việc phá rừng)

vừa gắn với sử dụng hợp lý các loại hóa chất (phân hóa học, thuốc trừ sâu dịch

bệnh) không ảnh hưởng đến suy thoái tài nguyên đất và môi trường nước ở vùng

nông thôn. Sự áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong các trang trại giúp cho

việc bảo vệ đất đai khỏi bị ô nhiễm, thoái hóa, tiết kiệm nước và hạn chế ô nhiễm

nguồn nước.

1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

1.2.1 Phát triển kinh tế

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học chỉ ra

tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính

của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái

khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc của phát triển là sự thống

nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”[11].

Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế xã hội rộng lớn, trong khuôn khổ một

định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội dung

rộng lớn của nó. Song nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được các nội dung cơ

bản sau:

- Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lượng của vật

chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp

lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước.

- Sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải thiện đời

sống dân cư.

- Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều nhân tố,

trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn nhân tố bên

ngoài có vai trò quan trọng. Như vậy, phát triển trang trại chính là sự tăng lên về số

lượng, quy mô, giá trị hàng hóa và dịch vụ của loại hình sản xuất được gọi là trang

16

trại trong những khoảng thời gian và không gian nhất định

1.2.2 Phát triển số lượng trang trại

Đó là việc gia tăng giá trị tổng sản lượng và sản lượng hàng hóa nông sản

bằng cách tăng tuyêt đối số lượng các trang trại.

Các tiêu chí đánh giá sự phát triển về số lượng trang trại:

- Số lượng trang trại tăng qua các năm.

- Tốc độ tăng của số lượng các trang trại.

- Số lượng trang trại tăng của từng ngành, từng khu vực, từng địa phương,

từng lĩnh vực sản xuất.

Phát triển số lượng trang trại là việc gia tăng số lượng cơ sở trang trại qua

các năm theo chiều hướng năm sau cao hơn năm trước. Nói cách khác là làm tăng

số lượng tuyệt đối các trang trại, nhân rộng các trang trại hiện tại, làm cho loại hình

kinh tế trang trại phát triển lan tỏa sang khu vực khác và qua đó phát triển thêm số

lượng các cơ sở trang trại mới. Phát triển số lượng trang trại góp phần làm cho các

ngành kinh tế phát triển. Việc gia tăng số lượng trang trại được thể hiện bằng cách

phát triển mới các cơ sở sản xuất nông nghiệp theo hình thức trang trại hoặc chuyển

hóa kinh tế các hộ gia đình thành kinh tế trang trại, hoặc là phát triển về mặt cơ cấu,

tức là chuyển hóa cơ cấu của các trang trại theo hướng CNH-HĐH, cụ thể là chuyển

dịch hình thức sản xuất từ quảng canh sang thâm canh, tử sản xuất lệ thuộc vào tự

nhiên sang sản xuất chủ động mang tính chất công nghiệp tiên tiến.

Việc phát triển số lượng trang trại đòi hỏi sự gia tăng các yếu tố nguồn lực

trong nông nghiệp như đất đai, lực lượng lao động trong nông thôn, vốn đầu tư,

đồng thời chú trọng phát triển những trang trại sản xuất nông sản, hàng hóa đáp ứng

được những nhu cầu lớn của thị trường, sản phẩm có khả năng xuất khẩu, sản xuất

có giá trị kinh tế cao, nâng cao năng lực cạnh tranh của các trang trại, qua đó giúp

các trang trại đứng vững trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế với các yếu

tố môi trường thường xuyên biến động.

1.2.3 Gia tăng các yếu tố nguồn lực

Gia tăng các yếu tố ngồn lực của trang trại là việc làm tăng năng lực sản xuất

17

của từng của từng trang trại thông qua gia tăng quy mô về đát đai, lao động, vốn đầu

tư, cơ sở vật chất và các điều kiện khoa học- công nghệ của trang trại. Các yếu tố

nguồn lực để phát triển kinh tế trang trại gồm:

1.2.3.1 Nguồn lực đất đai

Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá

trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn,

cho nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác. Đất đai được sử dụng trong

trang trại tăng lên theo hướng tập trung và theo yêu cầu phát triển của sản xuất hàng

hoá. Đất đai vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng lao động của các trang trại.

Nâng cao nguồn lực đất đai thông qua việc tích tụ và tập trung ruông đất, các chính

sách hạn điền…

Sau một thời gian hoạt động kinh doanh quy mô đất đai của trang trại sẽ được phát

triển thêm về mặt diện tích, đồng thời chất lượng các loại đất đai không ngừng được

cải thiện, độ màu mỡ của đất đai ngày càng tăng lên.

1.2.3.2 Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực nông nghiệp nói chung và trang trại nói riêng là tổng thể sức

lao động tham gia vào hoạt động SXNN bao gồm số lượng và chất lượng của người

lao động. Về số lượng gồm những người trong độ tuổi và những người trên và dưới

độ tuổi tham gia hoạt động SXNN. Về chất lượng gồm thể lực, trí lực, trình độ nhận

thức, trình độ chính trị, trình độ văn hoá, nghiệp vụ và tay nghề. Chất lượng lao

động nông nghiệp tăng lên khi nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ của

người lao động. Tiêu chí phản ánh tăng chất lượng lao động là các yếu tố về tri

thức, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền thống, bí quyết công nghệ …

Nâng cao kiến thức và khả năng lao động của chủ trang trại, xây dựng tác

phong công nhân nông nghiệp cho người lao động hoạt động sản xuất kinh doanh

trong các trang trại. Lao động của trang trại ngày càng tăng lên cả về số lượng và

chất lượng, nó phản ánh sự phát triển ngày càng nhanh của KTTT.

1.2.3.2 Nguồn lực tài chính

Vốn trong nông nghiệp được biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối

18

tượng lao động, được sử dụng vào quá trình SXNN. Vốn trong nông nghiệp có thể

được chia theo hình thái luân chuyển, hình thái biểu hiện, mục đích sử dụng hay

theo sỡ hữu.

Nâng cao khả năng huy động vốn và khả năng tự tài trợ của trang trại. Khả

năng vay nợ và khả năng tự tài trợ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng sản

xuất kinh doanh của các trang trại. Vốn là yếu tố vật chất hết sức quan trọng cho sản

xuất. Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, trang trại có vốn tích lũy nhiều hơn, mức độ đầu

tư cho sản xuất ngày càng lớn hơn chứng tỏ sự phát triển của kinh tế trang trại ngày

càng rõ rệt. Vốn đầu tư ngày càng lớn thể hiện sức mạnh của trang trại. Vốn đầu tư

đươc thể hiện dưới hình thức là những tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị, các

công trình phục vụ sản xuất kinh doanh và các loại tài sản lưu động khác. Các yếu

tố vật chất này càng nhiều và chất lượng ngày càng cao, càng hiện đại thì càng

chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế trang trại.

1.2.3.3 Nguồn lực về khoa học - công nghệ

Mức độ đầu tư công nghệ và trình độ công nghệ được các trang trại đưa vào

sử dụng ngày càng cao, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong trồng trọt, chăn nuôi,

ngành nghề dịch vụ được áp dụng ngày càng nhiều sẽ là những yếu tố tính quyết

định đến năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi, và trực tiếp ảnh hưởng

đến chất lượng sản phẩm của trang trại, một yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh tranh của

kinh tế trang trại trên thị trường.

Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, khả năng tiếp cận máy móc thiết bị,

công nghệ tiên tiến của thế giới và đặc biệt là khả năng tự sáng tạo ra máy móc thiết bị

phục vụ cho sản xuất kinh doanh của trang trại. trình độ công nghệ và các biện pháp kỹ

thuật mới được ứng dụng vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại.

1.2.3.4 Các điều kiện cơ sở vật chất

Nâng cao các điều kiện cơ sở vật chất tức là nâng cao khả năng tiếp cận

nguồn nguyên, vật liệu, máy móc, thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu

thông hàng hóa nông sản.

Trong các yếu tố nguồn lực nên trên thì nguồn lực tài chính và nguồn nhân

19

lực là hai yếu tố cơ bản của trang trại. Vì:

- Quy mô vốn đầu tư là yếu tố để đánh giá quy mô hoạt động, mực độ phát

triển của trang trại. Ở nước ta hiện nay quy mô vốn đầu tư của các trang trại nhìn

chung ở mức thấp. Điều nay gây trỏ ngại trong việc thuê mướn thêm lao động, đầu

tư thêm máy móc thiết bị, mở rộng diện tích canh tác, tăng quy mô về số lượng

giống cây trồng, vật nuôi, mở rộng thị trường sản xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng

đến việc tăng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của trang trại. Chính vì vậy, để

tăng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa nhất thiết phải tăng quy mô vốn đầu tư.

- Phát triển quy mô lao động trong các trang trại có nghĩa là tăng số lượng

lao động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Khi tăng quy

mo lao động cần chú ý rằng lao động tham gia trong các trang trại phải là những

người được đào tạo, tập huấn, có chất lượng cao. [8]

Việc gia tăng các yếu tố nguồn lực của trang trại được thực hiện bằng cách

mở rộng trực tiếp các trang trại, sáp nhập và tiếp quản các trang trại, liên doanh, liên

kết giữa các trang trại.

- Các tiêu chí để đánh giá sự phát triển về qui mô các nguồn lực trang trại:

+ Số lượng người lao động tham gia vào các trang trại qua các năm.

+ Số lượng diện tích đất đai canh tác qua các năm.

+ Số lượng vốn đầu tư của các trang trại qua các năm.

+ Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng của trang trại qua các năm.

1.2.4 Liên kết sản xuất các trang trại

Liên kết sản xuất của các trang trại là một hình thức hợp tác trên tinh thần tự

nguyện, tự giác của các trang trại nhằm khai thác tiềm năng của mổi trang trại trong

quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là sự thiết lập các mối quan hệ về tiềm lực tài

chính, đất đai, tay nghề của người lao động, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh…

giữa các trang trại hoạt động cùng lĩnh vực giữa các đối tác cạnh tranh hoạc giữa

các trang trại có hoạt động mang tính chất bổ sung, nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí

để đem lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh, cùng chia sẻ các tiềm năng,

giảm thiểu rủi ro tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường mới. Để phát triển

một cách có hiệu quả các trang trại cần hiểu rõ sự kết hợp các nhân tố bên trong và

20

nhân tố bên ngoài. Liên kết sản xuất các trang trại thông qua các hình thức:

1.2.4.1 Liên kết ngang

Là liên kết giữa các trang trang trại trong cùng một ngành có liên quan để

cung cấp hàng hoá, nguyên vật liệu, các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh

doanh nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi ích kinh tế cần phải tổ chức lại sản xuất,

thành lập các tổ hợp, hợp tác xã …

1.2.4.2 Liên kết dọc

Là liên kết giữa các trang trại với các cơ sở tiêu thụ nông sản làm ra của các

trang trại. Là sự liên kết các khâu trên chuỗi cung cấp, mức độ liên kết tùy thuộc

vào qui mô của các trang trại, mối liên kết này chủ yếu qua sự tin tưởng nhằm tìm

đầu ra cho nông sản và sẽ giảm chi phí chuỗi giá trị. Các hình thức liên kết dọc gồm

sản xuất theo hợp đồng, mô hình tập trung, mô hình đa chủ thể, mô hình trung gian,

bao tiêu sản phẩm …

1.2.4.3 Hiệp hội

Đây là hình thức liên kết quan trọng các các tổ chức nang tính chất hiệp hội

phát triển kinh tế thị trường. Các hiệp hội và các tổ chức ban đầu đã phát huy được

vai trò quan trọng trong việc chia sẻ thông tin, hỗ trợ về kỷ thuật, bảo vệ quyền lợi

và lợi ích hợp pháp chính đáng của các chủ trang trại trong quá trình hoạt động sản

xuất kinh doanh.

Ngoài ra, các hiệp hội và các tổ chức đã trở thành cầu nối giữa các trang trại

với chính quyền các cấp, các ban ngành trong việc cung cấp thông tin vè chủ

trương, chính sách, đồng thời tiếp thu những ý kiến, kiến nghị của các chủ trang trại

về nhưng khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh để kịp thời báo cáo với

chính quyền để chỉ đạo giải quyết.

Việc liên kết sản xuất của các trang trại cần quan tâm đến việc đa dạng

hóa các loại hình trang trại, trong đó chú trọng những mô hình trang trại có lợi

thế và tiềm năng phát triển, đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao. Việc liên kết

sản xuất sẽ giúp các trang trại tiết kiệm chi phi, tăng quy mô, giúp các trang trại

chủ động, linh hoạt, nhạy bén hơn trong sản xuất kinh doanh trong điều kiện toàn

cầu hoa, giúp các trang trại nhanh chống tiếp cận với công nghệ mới, giảm thiểu

21

rủi ro, mở rộng thị trường. [10].

1.2.5 Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại

1.2.5.1 Phát triển thị trường về địa lý

Phát triển thị trường về địa lý là việc mở rộng thị trường ở nhiều nơi để có

thêm thị trường mới, làm cho thị phần của trang trại ngày càng tăng. Hay nói cách

khác, phát triển thị trường về địa lý là việc gia tăng số lượng khách hàng tiêu thụ

sản phẩm của trang trại trên diện rộng. Từ đó, các trang trại mới tự khẳng định vai

trò của mình trên thị trường và trong xã hội.

1.2.5.2 Phát triển thị trường về sản phẩm

Phát triển thị trường là việc các trang trại tìm cách gia tăng danh số thông

qua việc đưa nhiều sản phẩm vảo thị trường, làm cho thị trường các trang trại ngày

càng mở rộng, thị phần ngày càng tăng lên. Phát triển thị trường còn là việc làm cho

từng trang trại khả năng sản xuất cung cấp hàng hóa nông sản cho xã hội, là sự hiểu

biết vững chắc về thị trường trong và ngoài nước, về cơ hội, thách thức khi hội nhập

kinh tế khu vực và Quốc tế. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường của trang

trại là:

- Thị phần của trang trại qua các năm

- Chủng loại nông sản hàng hóa của trang trại

- Chất lượng nông sản hàng hóa tăng qua các năm

Thị trường của trang trại ngày càng tăng thể hiện rằng nông sản hàng hóa của

trang trại ngày càng được khách hàng ưa chuộng. Đây không chi là một trong

những tiêu chí phản ánh kết quả tiêu thu hiện tại mà còn là điều kiện để doanh

nghiệp tiếp tục gia tăng sức mạnh cạnh tranh. Nội dung của phát triển của thị trường

các trang trại gồm:

- Phát triển về chủng loại sản phẩm mới

Người ta chia sản phẩm mới thành hai loại:

+ Sản phẩm mới tương đối: Là sản phẩm đầu tiên của trang trại sản phẩm sản

xuất và đưa ra thị trường để tiêu thụ nhưng không mới đối với các trang trại khác và

đối với thị trường. Chúng cho phép trang trại mở rộng dòng sản phẩm cho những cơ

22

hội sản xuất kinh doanh mới.

+ Sản phẩm mới tuyệt đối: Là sản phẩm mới đối với cả trang trại sản xuất và

đối với cả thị trường. Trang trại là người tiên phong, đi đầu trong việc sản xuất sản

phẩm này.

Hiện nay, các trang trại đang phải đương đầu với điều kiện sản xuất kinh

doanh ngày càng khắt khe so với sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ

làm nảy sinh thêm những nhu cầu mới, sự lựa chọn khó tính của khách hàng đối với

các loại sản phẩm cũng là vấn đề làm cho các trang trại cũng phải lưu tâm, tình

trạng cạnh tranh giữa các trang trại với nhau và giữa các trang trại với các loại hình

sản xuất sản phẩm nông nghiệp khác trên thị trường ngày càng gắt hơn…Chính vì

vậy, các trang trại phải không ngừng đổi mới và tự hoàn thiện mình trên tất cả các

phương diện như: tăng cường các nguồn lực phục vụ sản xuất, quản lý sản xuất kinh

doanh, sự ứng xử nhanh nhẹn trước những biến đổi của môi trường sản xuất kinh

doanh phức tạp.

Sự biến đổi danh mục sản phẩm của trang trại gắn với sự phát triển sản phẩm

theo nhiều hướng:

+ Hoàn thiện sản phẩm hiện có.

+ Phát triển sản phẩm mới tương đối.

+ Phát triển sản phẩm mới tuyệt đối, bỏ các sản phẩm không sinh lời.

Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp, là một khái niệm mang tính

chất tổng hợp về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Chất lượng sản phẩm là mức độ

của các đặc tính của sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy sản phẩm và

dịch vụ nào không đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng. Từ

đó đặt ra vấn đề các trang trại muốn phát triển phải cố gắng để nâng cao chất lượng

sản phẩm.

- Nâng cao chất lượng sản phẩm:

Song song với việc phát triển sản phẩm, các trang trại phải hết sức chú ý đến

việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề chất

lượng sản phẩm quyết định đến sự tồn tại và phát triển của trang trại. Vì vậy, nông

sản hàng hóa của các trang trại cũng phải chịu sự chi phối của các quy luật giá trị,

23

cạnh tranh và cung cầu. Do đó, việc hợp lý hóa sản xuất, tăng cường ứng dụng khoa

học công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm

và hạ giá thành sản phẩm là phương cách tối ưu đối với các trang trại.

Việc nâng cao chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh còn là sự thể

hiện văn hóa, đạo đức kinh doanh. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của trang

trại và sẽ giúp cho các trang trại không những có lợi thế cạnh tranh mà còn đứng

vững trên thị trường.

Nâng cao chất lượng sản phẩm được thể hiện ở việc gia tăng mức độ đóng

góp về giá trị sản lượng hàng hoá nông sản bằng cách đẩy mạnh đầu tư chiều sâu,

ứng dụng công nghệ sản xuất mới để sản xuất ra những nông sản có chất lượng cao

hơn, giá trị lớn hơn. Góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của các trang trại.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm của các trang trại sản xuất ra thì cần phải

kiểm soát tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất từ khâu sản xuất, thu hoạch,

bảo quản sau thu hoạch, chế biến...

Đối với hàng hóa nông sản thì thị trường tiêu thụ sản phẩm là vô cùng lớn,

tất cả các thành phần kinh tế đều phải sử dụng sản phẩm của nông nghiệp, trong đó

sản phẩm của kinh tế trang trại là then chốt và chủ đạo trong phát triển nông nghiệp.

Bên cạnh đó, sản phẩm nông nghiệp khi tiêu thụ trên thị trường có một số đặc điểm

riêng như tươi sống, khó khăn cho việc bảo quản, sản phẩm nông nghiệp mang tính

mùa vụ và có đặc điểm là cung muộn không thể đáp ứng nhu cầu một cách ngay lập

tức, vì đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống, nó cần phải có thời

gian sinh trưởng, phát triển sau đó mới đến khâu thu hoạch. Do vậy, giả sử giá nông

sản đang ở mức rất cao, nhưng các nông trại phải mất hàng tháng, thậm chí hàng

năm mới sản xuất được sản phẩm. [17]

1.2.6 Gia tăng kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại

Kết quả sản xuất kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của bất

kỳ loại hình sản xuất nào, trong đó có trang trại. Nó phản ánh kết quả việc sử dụng

các yếu tố nguồn lực, trình độ và năng lực quản lý của chủ trang trại, cũng như việc

áp dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất của trang trại. Kết quả hoạt động

24

sản xuất của trang trại là cơ sở để tính toán và xem xét hiệu quả về mặt kinh tế.

Hiệu quả kinh tế cao hay thấp phản ánh trình độ phát triển và quản lý của đơn vị

kinh tế. Vì vậy,đánh giá kết quả hoạt động kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế

trang trại nói riêng là việc làm hết sức cần thiết.

Kết quả sản xuất trang trại là những gì trang trại đạt được sau một chu kỳ sản

xuất nhất định được thể hiện bằng số lượng sản phẩm, giá trị sản phẩm, giá trị sản

xuất của trang trại. Khi nói đến kết quả sản xuất là nói đến loại sản phẩm, số lượng

sản phẩm, sản phẩm hàng hoá, giá trị sản lượng, giá trị sản phẩm hàng hoá được sản

xuất ra.

- Nâng cao kết quả sản xuất trang trại thể hiện sự phối hợp các nguồn lực,

các yếu tố sản xuất, thể hiện sự lớn mạnh tổng hợp về vốn, lao động, máy móc thiết

bị công nghệ… Các nguồn lực này được tăng cường đầu tư đồng bộ thì kết quả sản

xuất trang trại càng phát triển.

Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất trang trại:

- Số lượng, giá trị sản phẩm các loại được sản xuất ra;

- Số lượng, giá trị sản phẩm hàng hoá các loại được sản xuất ra;

Các tiêu chí đánh giá việc nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh trang trại

gồm các tiêu chí sau:

- Số lượng và giá trị sản lượng của từng năm;

- Mức tăng và tốc độ tăng của sản lượng qua các năm;

- Sản phẩm hàng hoá và giá trị sản phẩm hàng hoá qua các năm;

- Mức tăng và tốc độ tăng của sản phẩm hàng hoá, giá trị sản phẩm qua các năm;

- Thu nhập của người lao động qua các năm và mức tăng, tốc độ tăng thu

nhập của người lao động;

- Tích luỹ của các trang trại qua các năm.

1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TRANG TRẠI

1.3.1 Điều kiện tự nhiên

Nhân tố tự nhiên có tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế trang trại gồm:

25

vị trí địa lý, khí hậu, nguồn nước, đất đai, …. Mỗi yếu tố của tự nhiên tạo nên các

đặc điểm riêng và có vai trò quan trọng để khai thác các nguồn lực này trong phát

triển nông nghiệp.

1.3.1.1. Vị trí địa lý

Vị trí xây dựng trang trại ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế

trang trại. Ở vị trí thuận lợi, gần đường giao thông, nơi cung cấp vật tư, gần thị

trường tiêu thụ hay các cơ sở chế biến thì chủ trang trại sẽ tiết kiệm được chi phí

sản xuất, chí phí vận chuyển, hạ giá thành nông sản phẩm. Có lợi thế so sánh về vị

trí địa lý, chủ trang trại có điều kiện thuận lợi hơn để chủ động sản xuất, nhanh

chóng tiếp cận thông tin thị trường, dễ dàng tiêu thụ nông sản phẩm làm ra, nhờ đó

trang trại có lợi thế cạnh tranh hơn so với các trang trại khác trong cùng lĩnh vực. Vị

trí địa lý tạo nên sức hấp dẫn về khả năng thu hút lao động, khoa học kỹ thuật, vốn

đầu tư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, trao đổi các dịch vụ hàng hóa nên sẽ thúc đẩy

sự phát triển kinh tế trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn. Vị

trí địa lý sẽ tạo ra những thuận lợi hay khó khăn cho quá trình mở cửa, hội nhập kinh

tế khu vực và quốc tế cho một lãnh thổ.

1.3.1.2. Địa hình, thổ nhưỡng

Trong sản xuất nông nghiệp nói chung, đất đai có vai trò rất quan trọng và là

tài liệu sản xuất đặc biệt, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách vừa là

đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên có

trước lao động, đất đai có giới hạn về mặt diện tích nhưng sức sản xuất thì không có

giới hạn.

Để trở thành trang trại đòi hỏi phải có quy mô diện tích đủ lớn. Vì vậy, trang

trại dễ dàng ra đời và phát triển ở những vùng có đất đai rộng lớn, người thưa, diện

tích đất bình quân trên đầu người cao.

Ở những vùng đất hoang hóa, chưa có người sử dụng nhiều sẽ là điều kiện

thuận lợi để những người có đủ điều kiện đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất

xây dựng và phát triển trang trại. Bên cạnh đó, việc thể chế hóa các quan hê đât đai

như: các điều kiện về chuyển nhượng ruộng đất, về cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất ổn định và lâu dài là những nhân tố quan trọng để các nhà đầu tư tích tụ và

26

tập trung ruộng đất, yên tâm phát triển sản xuất.

Tính chất nông hóa thổ nhưỡng, độ phì của đất, địa hình, điều kiện canh tác là

nhứng nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại. Quy mô đât

đai, vị trí, địa hình và thổ nhưỡng có liên quan mật thiết đến từng loại nông sản phẩm,

tới số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, tới giá trị sản phẩm và lợi nhuận thu

được. Sản xuất nông nghiệp là ngành có đối tường sản xuất là sinh vật, phát triển theo

những quy luật tự nhiên và quy luật sinh học. Nếu đât đai có tính nông hóa thổ

nhưỡng phù hợp, đồ phì cao thì có thể tận dụng những yếu tố đầu vào để tạo ra sản

phẩm với chi phí thấp, có chất lượng và đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường.

1.3.1.3 Thời tiết, thủy văn

Các điều kiện tự nhiên như lượng mưa, độ ẩm, ánh sáng, hệ thống sông

ngòi,…. Trên các vùng lãnh thổ có quan hệ chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử

dụng các loại đất. Ở những quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau có điều kiện thời tiết,

thủy văn khác nhau sẽ có cơ cấu cây trồng, mùa vụ khác nhau và kết quả sản xuất

cũng hoàn toàn khác nhau. Thời tiết, khí hậu, thủy văn ảnh hưởng trực tiếp đến quá

trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Việc bố trí chủng loại cây

trồng, vật nuôi sản xuất ở trang trại phải căn cứ trên điều kiện thời tiết, thủy văn của

vùng. Sản xuất nông nghiệp có sự tiếp xúc trực tiếp và liên quan chặt chẽ với thời

tiết, thủy văn. Sự thay đổi của thời tiết, khí hậu, thủy văn tất sẽ ảnh hưởng đến sự

sinh trường, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Do vậy, thời tiết, thủy văn cũng là

nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của trang trại. Và do đó nó ảnh hưởng đến

sự phát triển của kinh tế trang trại.

Tóm lại, sản xuất trong kinh tế trang trại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự

nhiên, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì chủ trang trại có thể tận dụng các yếu tố

đầu vào để tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, rủi ro và chi phí thấp, tăng khả

năng cạnh tranh trên thị trường

1.3.2. Điều kiện xã hội

1.3.2.1 Dân số

Dân số là yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển của mọi ngành kinh

27

tế, quy mô và cơ cấu dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô và cơ cấu của nguồn

lao động trong mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất. Đối với kinh tế trang trại nói riêng,

dân số vừa là nguồn lực trong sản xuất vừa là thị trường tiêu thụ.

Vùng có chất lượng dân số và tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao là điều kiện

cung cấp lực lượng lao động dồi dào, đảm bảo chất lượng cho quá trình phát triển

kinh tế trang trại và ngược lại. Trong khi các yếu tố như phong tục tập quán, thị

hiếu tiêu dung của dân cư sẽ ảnh hưởng quyết định đến nông sản phẩm làm ra các

trang trại.

1.3.2.2 Lao động

Để tiến hành sản xuất tất yếu phải có lao động của con người. Bắng sức lao

động, con người dùng máy móc thiết bị hay còn gọi là các tư liệu lao động tác động

lên đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Việc sử dụng lao động hợp lý

không những là điều kiện để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả của sản

xuất mà còn tạo ra điều kiện để phân công lao động xã hội, đáp ứng ngày càng tốt

hơn nhu cầu lao động của xã hội. Kinh tế trang trại với quy mô sản xuất hàng hóa

lơn trong nông nghiệp không chỉ sử dụng lao động của những thành viên trong gia

đình của chủ trang trại mà còn phải thuê ngoài mộ lượng lao động nhất định. Quy

mô và hình thức thuê lao động bên ngoài tùy thuộc vào quy mô, loại hình sản xuất

kinh doanh của trang trại. Tình chất mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng là một

trong những điều kiện ảnh hưởng lớn đến nhu cầu lao động của trang trại. Lao động

cung ứng cho trang trại có thể là lao động tại địa phương hay lao động từ những nơi

khác đến. Chủ trang trại có thể được trả bằng tiền hoặc sản phẩm theo sự thỏa thuận

giữa chủ trang tra và người lao động. Vì vây, muốn hình thành trang trại phải có thị

trường cung ứng lao đông cho các chủ trang trại.

Trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ năng lao động cũng như kinh nghiệm sản

xuất kinh doanh của chủ trang trại có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay

thất bại trong sản xuất kinh doanh của trang trại. Sản xuất trong trang trại là sản

xuất hàng hóa với quy mô lớn, cơ cấu cây trồng, vật nuôi phải đu ơc định ngay từ

đầu, trước khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn sản xuất có hiệu quả,

28

đầu tư đúng hướng người chủ trang trại phải có những hiểu biết nhất định về kỹ

năng sản xuất, về cơ chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi mà mình

sẽ kinh doanh, tìm hiểu và nắm chặc các điều kiện tự nhiên, khí hậu, kinh tế, xã hội

của địa phương mà mình sẽ xây dựng trang trại.

Trình độ của lao động thuê ngoài cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phát

triển của trang trại. Do tính chất sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ cao,

trình độ cơ giới hóa còn kém, hiệu quả chưa cao nên khó có thể thu hút lao động có

trình độ cao. Bên cạnh đó, chủ trang trại hiện nay ở nước ta chủ yếu là nông dân có

trình độ thấp cũng là một trở ngại lớn trong việc phát triển trang trại.

1.3.2.3 Truyền thống văn hóa

Xã hội có hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người

càng cao thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng ổn định. Trong nền kinh tế thị

trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn

và thúc đẩy con người không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao

tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số lượng, chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu

cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,

đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa

là hạn chế xú hướng hàng hóa và đồng tiền xuất hiện với tính chất là lực lượng có

khả năng xuyên tạc bản chất của con người cũng như những hệ lụy khác dẫn đến

suy thoái xã hội.

Đối với kinh tế trang trại, các tập quán văn hóa làng xã, truyền thống cách

mạng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tâm lý, tính cách, thói quen tiêu

dùng của người dân địa phương, qua đó sẽ có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển

của kinh tế trang trại trong vùng.

1.3.3. Điều kiện kinh tế

1.3.3.1 Chính sách của Nhà nước

+ Bất kỳ một loại hình kinh tế nào ra đời, tồn tại và phát triển ngoài những

điều kiện khách quan và những yêu cầu của sự phát triển đều gắn chặt với những

chính sách vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước sẽ tác động

29

tích cực đến quá trình phát triển nếu nó phù hợp với những điều kiện khách quan và

giải quyết được những đòi hỏi nảy sinh trong quá trình phát triển, ngược lại sẽ là

nhân tố kìm hãm sự phát triển.

+ Nhà nước công nhận sự tồn tại và tác dụng tích cực của kinh tế trang trại

trong nông, lâm, ngư nghiệp trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.

+ Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại, tạo điều

kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh trong

các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, khai thác lâm sản, nuôi trồng khai

thác thủy sản, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp và mở mang ngành nghề không hạn

chế quy mô kinh doanh.

+ Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sử dụng, quyền thừa kế bán nhượng

tài sản và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình, cá thể tư nhân, thừa nhận tư cách

pháp nhân và địa vị pháp lý của hộ bình đẳng trước pháp luật.

+ Nhà nước giao đất cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng ruộng

đất ổn định, lâu dài để tổ chức sản xuất kinh doanh, được phép thuê lao động theo

nhu cầu phát triển sản xuất.

+ Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả

đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miềng núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác các

loại đất còn hoang hóa, ao hồ, đầm, bãi bồi ven biển, ven sông,… để sản xuất nông,

lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất chuyên canh với tỷ suất hàng hóa cao.

+ Nhà nước hổ trợ về vốn, khoa học - công nghệ, chế biên, tiêu thụ sản xuất,

xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các trang trai phát triển bền vững.

1.3.3.2 Vốn đầu tư

Vốn là điều kiện không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Dù có đủ

các điều kiện về đất đai, lao động hay ý muốn sản xuất lớn, song thiếu vốn thì chủ

trang trại sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển trang trại. Vì

vậy, để hình thành trang trại và tiến hành sản xuất kinh doanh đòi hỏi người trang

trại phải có trong tay một lượng vốn nhất định ban đầu tương đối lớn, bình quân vài

chục triệu đồng kể khai hoang hoặc mua lại ruộng đất, đầu tư cơ sở hạn tầng, cây

30

con giống, các loại máy móc, công cụ sản xuất, tiền thuê lao động và lượng vốn để

chi phí thường xuyên mua các loại vật tư, phân bón cho cây trồng, thức ăn cho chăn

nuôi,… Quy mô vốn đầu tư cần thiết phụ thuộc vào quy mô, loại hình sản xuất, chu

kỳ sống của cây trồng, con vật nuôi mà trang trại kinh doanh. Vốn là nhân tố có tính

quyết định đến việc hình thành và phát triển trang trại, đặc biệt với nhưng trang trại

đòi hỏi nhiều vốn như: nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, trồng các loại cây có giá trị

kinh tế cao,…

Vốn đầu tư để xây dựng và phát triển trang trại được hình thành từ những

nguồn cơ bản sau đây:

+ Vốn tự có của chủ trang trại: Đây là nguồn vốn chủ yếu, đóng vai trò

quyết định, song nguồn vốn này không nhiều vì khả năng tích lũy của người dân

không cao.

+ Vốn vay các tổ chức tín dụng.

+ Vốn liên doanh, liên kết sản xuất giữa chủ trang trại với các tổ chức, cá

nhân khác.

+ Vốn hổ trợ từ nguồn ngân sách Nhà nước thông qua các chương trình dự án.

Xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mà việc sử dụng vốn trong

sản xuất cũng có những đặc thù riêng ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang

trại. Những ảnh hưởng đó là:

+ Sự tác động của vốn vào quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh tế của nó

không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu của vốn

cũng phải phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của trang trại.

+ Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp một mặt làm cho tuần hoàn và chu

chuyển của vốn chậm, kéo dài thời gian thu hồi vốn. Phải sau một chu kỳ sản xuất

thì chủ trang trại mới có thể thu hồi vốn đã bỏ ra, mới tính toán được hiệu quả của

sản xuất.

+ Sản xuất nông nghiệp có quan hệ trực tiếp với các điều kiện tự nhiên nên

việc sử dụng vốn cũng gặp nhiều rủi ro, có thể dẫn đến tổn thất và giảm hiệu quả

31

của sử dụng vốn.

1.3.3.3 Thị trường

Trong cơ chế thị trường, việc sản xuất phải bám sát vào thị trường, sản xuất

những gì thị trường cần chứ không phải sản xuất những gì mà trang trại có điều

kiện. Vì vậy, nhu cầu và giá cả của thị trường nông sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp

đến sự phát triển của kinh tế trang trại. Sản phẩm của nông nghiệp nói chung và của

trang trại nói riêng chủ yếu là hàng tươi sống, thời gian cất trữ rất hạn chế và dễ bị

xuống cấp.

Mặt khác, kinh tế trang trại làm ra khối lượng sản phẩm lớn, nên yêu cầu

phải có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Đặc biệt, là các nhà máy chế biến nông sản

phẩm sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tiêu thụ các sản phẩm của kinh

tế trang trại. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản kéo

theo sự gia tăng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất.

Vì vậy, ở những vùng có công nghiệp chế biến phát triển thì ở những nới đó

và các vùng lân cận sẽ được đầu tư, quy hoạch phát triển sản xuất nguyên liệu.

Người nông dân sẽ được hổ trợ các điều kiện về đât đai, vốn, kỹ thuật,… để tăng

quy mô sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy chế biện.

Đồng thời, nó cũng thúc đẩy người nông dân liên doanh, liên kết chặt chẽ hơn nhằm

tăng hiệu quả của sản xuất. Quy mô sản xuất tăng sẽ là điều kiện để hình thành các

trang trại. Việc tiêu thụ nhanh, kịp thời với giá cả đảm bảo sẽ đem lại hiệu quả kinh

tế cho trang trại, tạo điều kiện để chủ trang trại thu hồi được vốn và tái sản xuất.

1.3.3.4 Cơ sở vật chất

Kinh tế trang trại cũng đòi hỏi phải có sự phát triển vể giao thông, thủy lợi,

điện và mạng lưới thông tin liên lạc trong vùng. Một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng

bộ sẽ hổ trợ mạnh mẽ cho sản xuất. Chẳng hạn như điện và thủy lợi tạo điều kiện

cho máy móc công cụ sản xuât phát huy tác dụng và cho phép áp dụng các biện

pháp canh tác tiên tiến, hiệu quả. Nhà cửa và trang thiết bị trong nông nghiệp tạo

điều kiện cho các tư liệu lao động phát huy tác dụng trong sản xuất và là phương

tiện bảo quản, giữ gìn sản phẩm. Giao thông, thông tin phát triển cho phép vận

32

chuyển và tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng.

Các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sau thu hoạch bảo quản và chế biến nông

sản có ý nghĩa to lớn trong việc bảo việc bảo vệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Những điều kiện đó thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất tăng quy

mộ diện tích sản xuất, từng bước hình thành các trang trại từ quy mô nhỏ đến quy mô

lơn với tính chất chuyên môn hóa trong sản xuất ngày càng được nâng cao.

Từ những lý do trên đây, mà cơ sở hạ tầng trở thành nhân tố tác động trực

tiếp và mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế trang trại.

1.3.3.5 Khoa học công nghệ

Ngày nay, khoa học – công nghệ phát triển mạnh, ngày càng đóng vai trò

tích cực trong phát triển kinh tế, khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất

trực tiếp và tác động vào mọi ngành, mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Với môi

trường sản xuất tập trung, kinh tế trang trại càng đòi hỏi phải ứng dụng khoa học –

công nghệ vào sản xuất từ khâu chọn giống, kỹ thuật canh tác, khả năng thâm canh,

mức độ cơ giới hóa, các biện pháp kỹ thuật khác nhằm tạo ra sản phẩm đồng loạt

cùng thời điểm để tiện việc thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, tập trung, kỹ

thuật canh tác của từng vùng, từng địa phương là khác nhau nên việc xây dựng và

phát triển trang trại ở từng vùng cũng hoàn toàn khác nhau.

Quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ, mà đặc biệt là

công nghệ sinh học vào sản xuất sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế

trang trại, mở ra triển vọng lớn cho việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,

tăng hiệu quả và giảm thiểu các rủi ro trong quá trình sản xuất, góp phần nâng cao

khả năng cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà còn tạo điều kiện để hòa

nhập vào thị trường khu vực và thị trường thế giới.

1.3.3.6 Trình độ của chủ trang trại và các yếu tố khác

Việc quản lý sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại trên thực tế là quản lý

một doanh nghiệp. Vì vậy, chủ trang trại phải có trình đồ quản lý, điều hành sản

xuất kinh doanh để đảm bảo cho trang trại hoạt động có hiệu quả. Trong nền kinh tế

tiểu nông, chỉ cần có những người nông dân, chủ hộ cần cù lao động, còn trong kinh

tế thị trường lại cần có những chủ trang trại đồng thời là chủ doanh nghiệp năng

33

động, đủ năng lực điều hành quản lý trang trại đạt hiệu quả cao.

Năng lực quản lý điều hành của chủ trang trại thể hiện ở khả năng về quản lý tư liệu

sản xuất, quản lý lao động, quản lý vốn SXKD, quản lý điều hành, xây dựng kế

hoạch, quy hoạch sản xuất, tiêu thụ nông sản phẩm.

Tài liệu thống kê ở các nước trong khu vực cũng cho thấy trình độ học vấn

chuyên môn của chủ trang trại tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu

nhập của các trang trại.

1.4 MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở

CÁC HUYỆN KHÁC

1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số địa phương trong nước

Kinh tế trang trại giúp đa dạng hóa sản phẩm nông sản có năng suất, chất

lượng, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân, giải quyết việc làm cho lao động

tại chỗ, đóng góp quan trọng vào phong trào xây dựng nông thôn mới tại địa

phương. Thực tế từ khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa ở nước ta đến nay. Kinh tế

trang trại đã chứng minh là loại hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu của

quá trình công nghiệp hóa, là lực lượng xung kích trong sản xuất nông nghiêp ở

nước ta.

Những năm gần đây, huyện Ðoan Hùng (tỉnh Phú Thọ) đẩy mạnh phát triển

mô hình kinh tế trang trại, từng bước hình thành vùng sản xuất nông nghiệp và chăn

nuôi tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa. Các trang trại trên địa bàn chủ yếu

chuyên canh cây bưởi đặc sản, bưởi giống Diễn, lâm nghiệp và chăn nuôi. Vốn bình

quân của một trang trại khoảng 1,69 tỷ đồng, giá trị nông sản hàng hóa bình quân là

2,4 tỷ đồng/năm. Hằng năm, mỗi trang trại giải quyết việc làm cho bốn đến năm

người lao động thường xuyên, sáu đến bảy người lao động thời vụ với thu nhập từ ba

đến năm triệu đồng/người/tháng. Nhiều mô hình trang trại phát huy được lợi thế,

mang lại hiệu quả kinh tế cao, doanh thu đạt từ năm đến sáu tỷ đồng/năm .[22]

Ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, các hộ nông dân đã phát huy tính tự chủ,

tạo sức mạnh mới trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Kinh tế trang

trại phát triển góp phần quan trọng làm tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất

34

nông nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Yên Thế. Huyện đã xây

dựng các kế hoạch, đề án, có cơ chế thích hợp để thực hiện; hỗ trợ cây, con giống, vật

tư, hỗ trợ mua máy móc phục vụ sản xuất; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng; chỉ đạo các

cơ quan chức năng, các tổ chức, đoàn thể nhân dân phối hợp kịp thời với các xã, thị

trấn mở các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỷ thuật đến các hộ nông dân, qua đó

góp phần quan trọng thúc đẩy và tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.

Tại Ðồng Nai, những năm gần đây, số lượng trang trại có xu hướng tăng

nhanh. Các huyện Xuân Phú, Thống Nhất, Xuân Lộc là những địa phương có nhiều

trang trại phát triển, hiện đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại kết hợp trồng cây, thả

cá, chăn nuôi gà, lợn của các hộ gia đình theo tiêu chuẩn VietGAP cho năng suất,

chất lượng cao, mang lại thu nhập tốt cho nông dân.

So với cả nước, các tỉnh miền bắc tuy có số lượng trang trại không nhiều,

song đã xuất hiện những mô hình phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ở xã Mỹ

Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, mấy năm gần đây mô hình kinh tế vườn

kết hợp chăn nuôi phát triển khá mạnh mẽ. Ðảng bộ xã đã chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hóa, chú trọng phát triển các cây, con có thế mạnh của địa phương. Hiện nay, có tới

65% số dân trong xã sống bằng nghề trồng chè kết hợp chăn nuôi để phát triển kinh

tế gia đình. Hàng năm có thu nhập hàng trăm triệu đồng nhờ phát triển chăn nuôi dê,

gà, lợn kết hợp trồng chè theo tiêu chuẩn an toàn VietGAP .

Toàn huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa hiện có hơn 300 trang trại, gia trại với

diện tích trên 600 ha, chủ yếu là các trang trại chăn nuôi, trang trại tổng hợp và nuôi

trồng thủy sản, trong đó có 70 trang trại đạt tiêu chí, doanh thu từ các trang trại

hàng năm đạt trên 60 tỷ đồng.

Các mô hình trang trại chăn nuôi lợn, gà công nghiệp, trang trại tổng hợp

như trồng trọt và nuôi trồng thủy sản; trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm được

khẳng định có thu nhập ổn định và tính bền vững cao, phù hợp với sức lao động,

tiền vốn của nhân dân, cho thu nhập 200-300 triệu đồng/trang trại/năm, tạo việc làm

thường xuyên cho khoảng 3.000 lao động với mức thu nhập bình quân đạt từ 2,5-3,5

35

triệu đồng/người/tháng. Kinh tế trang trại (KTTT) phát triển đã khơi dậy tiềm năng

về lao động, đất đai, vốn, kỹ thuật ở từng địa phương, trong mỗi hộ nông dân để tạo

ra sản lượng nông sản hàng hóa dồi dào, đa dạng, hiệu quả kinh tế cao. Nhận thức

được điều này, thời gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở đã

chỉ đạo sát sao, cùng với sự cố gắng của các chủ trang trại, đã đưa KTTT phát triển.

Mô hình KTTT tổng hợp của cựu chiến binh Lã Trọng Tới, thôn Bạch

Trưng, xã Nga Bạch, là một trong hàng chục mô hình tiêu biểu trong phát triển

KTTT của huyện Nga Sơn. Mô hình của gia đình anh Tới cho thu nhập từ 250 đến

300 triệu đồng/năm. Anh Tới cho biết, trang trại của gia đình anh được xây dựng từ

năm 1994 trên 2,3 ha đất hoang hóa của xã, anh quy hoạch 4 ao thả cá trắm, trôi;

xung quanh bờ ao, anh trồng gần 1.000 cây bạch đàn; cấy lúa và hệ thống chuồng

trại chăn nuôi hiện đại, nuôi lợn giống hậu bị bố mẹ cho Công ty CP Chăn nuôi CP

Việt Nam. Hàng năm, trang trại của gia đình anh Tới cho tổng thu nhập 500 triệu

đồng, trừ chi phí, còn lãi 250 triệu đồng, tạo việc làm ổn định cho 4 lao động địa

phương, với mức tiền công từ 2,5 đến 3 triệu đồng/người/tháng. Sự phát triển của

KTTT đã dần khẳng định vị trí rõ nét trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đặc

biệt là giải quyết được những vấn đề mà kinh tế hộ gia đình trước đây khó có thể

làm được. Đó là, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hàng hóa

lớn; tạo sự liên kết hợp tác dịch vụ sản xuất cũng như thu hút nguồn vốn nhàn rỗi

của nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp; chủ động tiếp cận thị trường, tìm đầu ra

cho sản phẩm...

Đặc biệt, thực hiện chương trình xây dựng, phát triển các mô hình kinh tế,

những năm qua, ngoài cơ chế, chính sách của tỉnh, huyện Nga Sơn đã ban hành

nhiều chính sách hỗ trợ nông dân đầu tư phát triển sản xuất, mang lại hiệu quả kinh

tế cao, như: Xây dựng các kế hoạch, đề án, có cơ chế chính sách dồn điền, đổi thửa;

chuyển đổi ruộng trồng lúa, trồng cói không ăn chắc sang nuôi trồng thủy sản; hỗ

trợ làm đường giao thông vào trang trại; thực hiện lồng ghép các chương trình

khuyến nông để hỗ trợ mua cây, con giống, vật tư; hỗ trợ mua máy móc phục vụ sản

xuất nông nghiệp từ nguồn ngân sách huyện và chương trình mục tiêu quốc gia. Từ

36

năm 2010 đến nay, nhằm “kích cầu” phát triển KTTT, huyện Nga Sơn đã thực hiện

chính sách hỗ trợ 300 triệu đồng/trang trại lợn có quy mô 500-800 lợn thịt, 200 triệu

đồng/trang trại gà có quy mô 5.000-8.000 con. Nhờ vậy, bên cạnh các mô hình kinh

tế trang trại, gia trại đã có, các xã như: Nga Thanh, Nga Văn, Nga Tiến đã phát

triển thêm mô hình nuôi gà quy mô 8.000-10.000 con/lứa; các xã Nga Bạch, Nga

Thành, Nga An, Nga Văn có mô hình chăn nuôi lợn tập trung 100 nái ngoại và 750

lợn thịt; các xã như: Nga Hưng, Nga Thiện, Nga Yên, Nga Trung... cũng có các mô

hình chăn nuôi từ 50 nái ngoại và hàng trăm lợn thịt trở lên. [12]

Như vậy, với một số mô hình phát triển kinh tế trang trại điển hình như trên

có thể tham khảo, đúc kết và áp dụng những điểm phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã

hội, lịch sử và môi trường kinh tế của huyện Quảng Ninh.

1.4.2 Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc phát triển kinh tế trang trại ở huyện

Quảng Ninh

Hiện nay, trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, thực hiện tái cơ cấu ngành

nông nghiệp, khai thác tiềm năng kinh tế trang trại cho yêu cầu phát triển đang trở

thành vấn đề cấp thiết, nhất là ở các địa phương có số lượng trang trại lớn như huyện

Quảng Ninh. Trong điều kiện sẵn có của địa phương, cần có các chính sách cụ thể để

khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật... tạo nhiều việc làm và tăng thu

nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo của người dân.

- Tiềm năng của huyện Quảng Ninh là đất đai và là một huyện ven biển vì

vậy phát triển kinh tế trang trại ở huyện cần phát huy tiềm năng này, cần xây dựng

các vùng trang trại tập trung như trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản …

- Tùy thuộc vào điều kiện của từng vùng, huyện Quảng Ninh cần có định

hướng cụ thể cho các chủ trang trại lựa chọn mô hình phù hợp để phát huy được tính

hiệu quả, tính bền vững của trang trại trong điều kiện khách quan của nó. Hiệu quả

sản xuất của các trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào qui mô đất đai, quy mô

của trang trại mà phụ thuộc nhiều vào chất lượng sản phẩm và trình độ công nghệ.

- Phải có các chính sách để gắn phát triển kinh tế trang trại với công nghiệp

chế biến và dịch vụ tại chỗ đây là bài học kinh nghiệm quí báu. Ở nhiều vùng, kinh

37

tế trang trại phát triển thường đi liền với chuyên môn hoá vào một ít loại cây trồng,

vật nuôi nhất định và hình thành những vùng chuyên canh tập trung lớn. Công

nghiệp chế biến và dịch vụ cho kinh tế trang trại là điều kiện hết sức quan trọng để

thúc đẩy trang trại phát triển có hiệu quả.

- Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết trang trại là một yêu cầu tất

yếu để hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Ở một số nước, hợp tác xã được

hình thành trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, là tổ chức liên thông, liên kết giữa các

trang trại trong quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

- Cần tăng cường công tác quản lý của nhà nước đối với kinh tế trang trại.

Những năm qua, huyện Quảng Ninh luôn quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh phát

triển kinh tế trang trại. Nhằm phát triển trang trại cả về quy mô sản xuất và giá trị

hàng hoá, giải quyết việc làm cho người lao động, sử dụng tối đa diện tích đất hiện

có trên địa bàn huyện.

Kinh tế trang trại phát triển đa dạng trên nhiều lĩnh vực nông nghiệp, nuôi

trồng thủy sản; trên tất cả các vùng miền núi, gò đồi, đồng bằng, ven biển; đã khai

thác được tiềm năng về đất đai, cây trồng, vật nuôi. Nhiều vùng sản xuất tập trung đã

được hình thành như vùng trang trại chăn nuôi tại xã An Ninh, Vạn Ninh; vùng trang

trại chăn nuôi tổng hợp tại xã Hải Ninh, Vạn Ninh…

Tuy quy mô và hiệu quả khác nhau nhưng hầu hết các trang trại bước đầu đã

sử dụng có hiệu quả về đất đai, thu hẹp dần diện tích đất trống, mặt nước, ao hồ. Đẩy

nhanh tốc độ phủ xanh, góp phần điều hòa khí hậu của vùng và cải tạo môi trường

sinh thái.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận văn đã khái quát được cơ sở lý luận để phát triển kinh tế

trang trại. Tập trung chính của chương là đi tìm hiểu muốn phát triển kinh tế trang

trại thì chú trọng phát triển những tiêu chí như: phát triển về số lượng, phải gia tăng

các yếu tố nguồn lực, phát triển thị trường tiêu thụ…

Bên cạnh đó phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế

38

trang trại để làm cơ sở giúp tác giả đi vào phân tích thực trang ở chương 2

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG NINH

2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA HUYỆN QUẢNG

NINH ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình

Huyện Quảng Ninh có vị trí địa lí từ 17004/ đến 17026/ vĩ độ Bắc từ 106017/ đến 106048/ độ kinh Đông, là nơi hẹp nhất nước Việt Nam với chiều dài theo đường chim bay khoảng 50 km, có ranh giới:

- Phía Bắc giáp huyện Bố Trạch và thành phố Đồng Hới;

- Phía Nam giáp huyện Lệ Thủy;

- Phía Đông giáp biển Đông;

- Phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.

Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 119.418,19 ha. Dân số trung bình năm 2016 là: 90.389 người; mật độ dân số: 75 người/km2. Toàn huyện được tổ chức thành 15 đơn vị hành chính, gồm 14 xã và 1 thị trấn.

Là cửa ngõ phía nam thành phố Đồng Hới có các tuyến giao thông Bắc -

Nam gồm đường bộ, đường sắt đi qua nên Quảng Ninh có nhiều cơ hội thuận lợi

trong việc phát triển kinh tế.

Với vị trí địa lí thuận tiện như vậy, tạo cho huyện có điều kiện thuận lợi hơn

để phát triển sản xuất hàng hóa, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế,

39

sớm hòa nhập xu thế chung của cả tỉnh.

Bản đồ 2.1: Bản đồ hành chính huyện Quảng Ninh

Đặc điểm địa hình huyện Quảng Ninh nằm ở sườn Đông của dãy Trường Sơn,

nghiêng từ Tây sang Đông. Toàn huyện có thể chia thành bốn dạng địa hình chính:

- Địa hình vùng rừng núi cao: Dạng địa hình này ở sát biên giới Việt - Lào,

chiếm 57% diện tích tự nhiên, với nhiều lâm sản quý hiếm. Địa hình có đặc điểm là

núi cao chay theo hướng Bắc - Nam, trong đó đan xem một số khối núi đá vôi; độ

cao trung bình vùng núi từ 300 - 500 m, có một số đỉnh cao trên 1.000 m như đỉnh

U Bò - Ba Rền. Do núi cao nằm gần biển nên sườn dốc và bị chia cắt lớn, nhưng

nhờ lớp phủ thực vật còn khá nên hạn chế một phần tốc độ dòng chảy lũ.

- Địa hình vùng gò đồi: Là phần tiếp giáp địa hình núi cao từ Bắc vào Nam,

gồm các quả đồi hình bát úp liên tục chạy theo hướng Bắc Nam, có độ cao từ 50 - 100 m, độ dốc từ 5 - 25o, sườn đồi ít bị chia cắt. Dạng địa hình này chiếm 26,7%

diện tích tự nhiên là nơi có nhiều thuận lợi trong việc trồng rừng lấy gỗ, trồng cây

40

công nghiệp có giá trị kinh tế cao (cao su, thông, tiêu...), chăn nuôi đại gia súc.

- Địa hình đồng bằng: Chiếm 9,5% diện tích, là vùng đồng bằng hẹp nằm

giữa vùng đồi và vùng cát ven biển. Vùng đồng bằng với đặc điểm có độ cao từ 0,5

- 5 m, tương đối bằng phẳng. Do địa hình vùng thấp trũng, hàng năm thường bị

ngập lũ và phù sa bồi đắp nên đất có độ phì tự nhiên cao. Đây là khu vực sản xuất

lương thực trọng điểm của huyện.

- Địa hình vùng cát ven biển chiếm 6,7% diện tích tự nhiên và có chiều dài

19,6 km; có độ cao từ 5 - 20m, thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Do trong vùng

cát có nguồn nước ngầm khá dồi dào nên phù hợp các mô hình trang trại chăn nuôi

kết hợp với nuôi trồng thủy sản và trồng rừng.

2.1.1.2. Điều kiện khí hậu, thời tiết

- Khí hậu, thời tiết và thủy văn: Quảng Ninh nằm trong khu vực nhiệt đới gió

mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam. Nhiệt độ bình quân 24,5 - 25oC, lượng mưa bình quân khoảng 2.100 - 2.200 mm, mỗi năm có

2 mùa rõ rệt.

Mùa khô thường từ tháng 3 đến hết tháng 8 hàng năm, có nhiệt độ trung bình từ 26,5 - 27oC, nhiệt độ cao nhất có khi đến 39oC. Do nền nhiệt cao, lượng mưa chỉ chiếm 20 - 30% tổng lượng mưa cả năm. Trong mùa khô có gió mùa Tây – Nam

(thường gọi là gió Lào) khô, nóng; đồng thời vào mùa khô nước mặn xâm nhập

vùng hạ lưu các sông.

Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau, nhiệt độ trung bình 22 - 23oC, thấp nhất vào tháng 01, có khi chỉ 10oC. Lượng mưa trong mùa này

thường chiếm 65 - 70% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa cao nhất vào khoảng

15/9 - 15/11 hàng năm. Do mưa lớn, địa hình rất dốc nên thường gây lũ lụt ở vùng

thấp và lũ quét hai bên sông ở vùng núi.

2.1.1.3. Các nguồn tài nguyên

- Tài nguyên đất: Tổng diện tích tự nhiên huyện Quảng Ninh là 119.418,19

ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 108.479 ha, chiếm 91,03%; đất phi nông nghiệp

có 6.791,94 ha, chiếm 5,70%; đất chưa sử dụng có 3.898,25 ha, chiếm 3,27% diện

41

tích đất tự nhiên; đất bằng chưa sử dụng; 546,26 ha; 3.184,59 ha đất đồi núi chưa sử

dụng; đất núi đá không có cây rừng: 167,40 ha. Đất trên địa bàn huyện có 5 nhóm

đất chủ yếu, gồm: Nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 70% diện tích tự nhiên; Nhóm đất

phù sa cổ chiếm trên 4,6% diện tích tự nhiên; Nhóm đất mặn, đất phèn và glây (lầy

thụt) chiếm 3,8% diện tích tự nhiên, phân bố ở vùng đồng bằng ven sông Long Đại

và Kiến Giang; Nhóm đất cát ven biển chiếm 5,5% diện tích tự nhiên; Đất khác

chiếm 15,3%, trong đó núi đá chiếm 13,7%, sông suối chiếm 1,6%.

- Tài nguyên nước: Hệ thống sông suối khá phong phú với mật độ khoảng 1 - 1,2 km (chiều dài)/km2. Địa hình chia cắt bởi 2 con sông Kiến Giang, Đại Giang (Long đại) và nhiều chi lưu và phụ lưu nhỏ. Trên địa bàn hiện có 13 công trình hồ chứa nước lớn nhỏ, với tổng dung tích 128,5 triệu m3 nước. Đảm bảo nước tưới cho 2.500 ha đất canh tác nông nghiệp và nước sinh hoạt cho vùng phía Nam của huyện.

Đồng thời mở rộng diện tích tưới cho vùng Hàm Ninh, Duy Ninh. Ngoài ra còn có

hệ thống nước ngầm vùng cát cung cấp nước tưới và sinh hoạt cho các xã ven theo

quốc lộ 1A (Gia Ninh, Võ Ninh).

- Tài nguyên rừng và đất rừng: Đất lâm nghiệp có 99.924,03 ha, chiếm

83,85% diện tích đất tự nhiên toàn huyện và chiếm 92,11% trên tổng diện tích đất

nông nghiệp. Trong đất lâm nghiệp có: đất rừng sản xuất 45.932,34 ha, chiếm

45,97% diện tích; đất rừng phòng hộ có 53.991,69 ha, chiếm 54,03% diện tích. Hiện

tại, độ che phủ rừng tính trên diện tích đất lâm nghiệp có rừng đạt 76,66%; nếu tính

trên diện tích đất có rừng cộng với diện tích cây công nghiệp dài ngày thì độ che

phủ rừng đạt 77,12%. Với một diện tích lớn đất lâm nghiệp có thể chuyển đổi từ

rừng phòng hộ sang rừng sản xuất, cho phép huyện phát triển mạnh một số cây công

nghiệp có hiệu quả kinh tế cao (cao su, thông…). Đây là lợi thế mang tầm chiến

lược của huyện.

- Tài nguyên biển: Với khoảng 25 km bờ biển và ngư trường rộng lớn, Quảng

Ninh có tài nguyên sinh vật biển đa dạng và phong phú, có nhiều loài cá ở tầng nổi,

tầng đáy trên trăm loài; trong đó có nhiều loài đặc sản quý như tôm hùm, cá mú, cá

hồng, mực,... Nhưng do không có cửa lạch, người dân chỉ đầu tư các phương tiện

nhỏ khai thác ven bờ, không có phương tiện và tập quán đánh bắt xa bờ nên chưa

42

phát huy được thế mạnh về biển.

* Về hiện trạng sử dụng đất và cơ cấu sử dụng đất như sau

Bảng 2.1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Quảng Ninh qua các năm

So sánh 2015 2016 2017 2017/2015 Chỉ tiêu Tốc độ tăng bình quân (%)

Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) (+/-) (%)

119.418,19 100 119.418,19 100 119.418,19 100

8.354,33 6,81 8.349 6,81 8.334,57 6,80 -19,76 -0,2 -0,12

7.593,38 93,56 7.675,58 94,57 7.660,66 94,56 67,28 0,9 0,44 Tổng diện tích đất tự nhiên I. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp 1. Đất trồng cây hàng năm

545,57 6,72 440,78 5,43 440,75 5,44 -104,82 -19,2 -10,12

381,49 4,70 412,85 5,09 411,21 5,08 29,72 7,8 3,82

34,53 0,43 34,53 0,43 43,63 0,54 9,1 26,4 12,41 2. Đất trồng cây lâu năm 3.Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản 4. Đất nông nghiệp khác

99.924,03 83,85 99.813,35 83,76 99.835,86 83,6 -88,17 -0,1 -0,04 II. Đất lâm nghiệp

6.746,69 5,66 6.854,30 5,75 7.472,55 6,26 725,86 10,8 5,24 III. Đất phi nông nghiệp

483,94 7,17 495,49 7,23 510,03 7,31 26,09 5,4 2,66

3.453,96 51,19 3.545,52 51,73 3.655,88 52,38 201,92 5,8 2,88

406,96 6,03 413,39 6,03 413,48 5,92 6,52 1,6 0,80 1. Đất ở 2. Đất chuyên dụng 3. Đất khác

3.943,50 3,31 3.937,80 -9,25 3,30 3.247,7 -695,8 -17,6 IV. Đất chưa sử dụng

43

3,18 Nguồn: Niên giám thống kê huyện Quảng Ninh năm 2017

Đất tự nhiên: Theo số liệu kiểm kê đất năm 2017 thì toàn huyện có

119.418,19 ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp có 8.334,57 ha (chiếm 7,42%),

đất lâm nghiệp có 99.835,86 ha ( chiếm 83,6%) đất phi nông nghiệp có 7.472,55 ha

(chiếm 6,25%), đất chưa sử dụng có 3.247,7 ha (chiếm 2,72%).

- Đất sản xuất nông nghiệp có 8.334,57 ha, chiếm 7,42% diện tích tự nhiên

toàn huyện. Trong đó: Đất trồng cây hàng năm có 7.660,66 ha, chiếm 94,56%; đất

trồng cây lâu năm có 440,75 ha, chiếm 5,44%.

- Đất lâm nghiệp 99.835,86 ha , chiếm 83,6% diện tích đất tự nhiên toàn

huyện. Trong đó: Đất rừng sản xuất có 45.858,26 ha, chiếm 45,93%; đất rừng

phòng hộ 53.980,16 ha, chiếm 54,07%. Đối với Quảng Ninh, diện tích đất lâm

nghiệp đang là ưu thế cho tiềm năng phát triển kinh tế của huyện.

- Đất nuôi trồng thủy sản chỉ có 411,21 ha. Nhưng Quảng Ninh có diện tích

sông suối và mặt nước chuyên dùng là 2.399,81 ha nhưng chưa khai thác có hiệu

quả, diện tích mặt nuớc này là tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy sản nước ngọt

của huyện.

- Đất phi nông nghiệp có 7.472,55 ha, chiếm 6,25% diện tích đất tự nhiên

của huyện. Trong đó: Đất ở có 510,03 ha, chiếm 7,13%; đất chuyên dùng có

3.655,88 ha, chiếm 51,52%; đất mặt sông và mặt nước chuyên dùng có 2.399,81 ha,

chiếm 35,36%; đất nghĩa trang nghĩa địa chiếm 5,95%.

Đất chưa sử dụng có 3.795,33 ha, chiếm 3,18% diện tích đất tự nhiên của huyện.

Trong đó: 546,82 ha đất bằng chưa sử dụng; 3.083,11 ha đất đồi núi chưa sử dụng;

167,40 ha đất núi đá không có cây rừng.

Qua bảng tình hình sử dụng đất của huyện Quảng Ninh ta thấy diện tích đất

trồng cây lâu năm và đất chưa sử dụng có xu hướng giảm mạnh, trong khi đó đất

nông nghiệp khác và phi nông nghiệp mà chủ yếu là đất ở và đất chuyên dụng có xu

hướng tăng mạnh. Cho thấy thực tế nguồn tài nguyên đất ngày càng được khai thác

triệt để để phục vụ sản xuất, đất để ở và đất chuyên dụng vì mục đích quốc phòng,

an ninh...ngày càng tăng lên, bởi vì đó củng là một xu hướng của sự phát triển dân

44

số, kinh tế xã hội.

Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu hiện trạng sử dụng đất của huyện Quảng Ninh năm 2017

2.1.1.4. Đánh giá tác động của điều kiện tự nhiên đối với phát triển KTTT

- Vị trí địa lý trong phát triển kinh tế:

Quảng Ninh ở vào vị trí trung độ của cả tỉnh, cả nước, nơi giao thoa các đặc

thù lãnh thổ miền Bắc và miền Nam nên dễ hòa nhập, tiếp thu những tiến bộ kinh

tế, khoa học kỹ thuật. Nơi mà những tuyến đường giao thông quan trọng của quốc

gia xuyên suốt chiều dài của Huyện ( Quốc lộ 1A, đuờng sắt, đường Hồ Chí Minh)

là đầu mối giao lưu của hai miền Nam - Bắc.

Quảng Ninh có 2 con sông Kiến Giang, Nhật Lệ và nhiều chi lưu và phụ

lưu nhỏ chảy từ Tây sang Đông và đổ ra biển, rất thuận lợi cho việc vận chuyển,

giao lưu hàng hóa giữa miền núi và đồng bằng. Có bờ biển dài 25km với bãi tắm

đẹp như Hải Ninh, có nguồn lợi hải sản khá lớn. Đây là thế mạnh của Huyện nếu

phát huy, khai thác tốt sẽ đem lại nguồn lợi cho Huyện rất lớn.

Quảng Ninh có 38km đường biên giới với Lào, có dân cư sống giao thoa với

45

Lào, đây là điều kiện thuận lợi để hợp tác với Lào.

Có sân bay Đồng Hới, ga Đồng Hới cách trung tâm Huyện khoảng 7km, có

đường du lịch 60m nối Đồng Hới với xã Hải Ninh là điều kiện thuận lợi để rút ngắn

khoảng cách với các trung tâm đô thị lớn của cả nước.

Thế nhưng, huyện Quảng Ninh lại có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nơi hội

tụ của các yếu tố bất lợi về thời tiết khí hậu như: bão lụt, gió tây khô nóng, cát bay

cát chảy đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống.

- Lợi thế và hạn chế về quỹ đất và tài nguyên rừng.

Quảng Ninh là huyện có diện tích đất lâm nghiệp 99.835,86 ha chiếm 83,6%

trên tổng diện tích đất tự nhiên, cho thấy điều kiện phát triển các nghề rừng của

huyện còn lớn; nhưng đất sản xuất nông nghiệp chỉ có có 8.334,57 ha, trong lúc đó

hầu hết diện tích đã đưa vào khai thác nên khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp

rất hạn hẹp. Hiện nay chỉ còn một số diện tích đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất gò

đồi phù hợp với trồng cây công nghiệp dài ngày; một số đất vùng cát nghèo ven

biển phù hợp với phát triển trang trại nuôi trồng thủy sản. Vì vậy huyện cần lưu ý

hạn chế việc chuyển đất sản xuất nông nghiệp vào mục đích khác.

Quỹ đất ở hai xã Trường Sơn và Trường Xuân còn khá lớn, nhất là vùng núi,

gò đồi thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, trồng rừng

nguyên liệu, chăn nuôi đại gia súc.

Địa hình phức tạp, bị chia cắt nhiều, có độ dốc lớn nên đất canh tác thường

bị bào mòn và rửa trôi

2.1.2. Tình hình kinh tế

2.1.2.1Cở sở vật chất kỹ thuật của huyện Quảng Ninh

Huyện đã phấn đấu tích cực, huy động mọi nguồn lực để cải tạo kết cấu hạ

46

tầng. Đến nay hạ tầng cơ sở của huyện khá tốt.

Bảng 2.2: Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Quảng Ninh

năm 2017

Tổng Tỷ lệ TT Chỉ tiêu ĐVT (%) số

1 100 15 Xã Số xã có đường ô tô đến UBND xã

276.268 2 Km Số km bê tông hóa giao thông nông thôn

3 100 15 Xã Số xã có trạm xá

4 100 15 Xã Số xã có chợ

5 100 15 Xã Số xã có điện lưới

6 98 % Tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia

7 28 Trạm bơm điện trạm

8 1 Cái Bệnh viện

9 100 15 Xã Số xã có điểm bưu điện văn hóa xã

10 Thủy lợi

13 Hồ chứa nước Hồ

Km 157,9 Tổng số km kênh mương được bê tông hóa

14 Xã 2 Số xã đặc biệt khó khăn

15 % 9,5 Tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn mới của bộ LĐTBXH)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các phòng chuyên môn của huyện Quảng Ninh

Giao thông: Mạng lưới giao thông huyện Quảng Ninh nhìn chung là đảm bảo

nhu cầu cơ bản cho việc đi lại, phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống giao thông trên

địa bàn được kiên cố đến năm 2017 là 320km, trong đó: Quốc lộ 114km (gồm Quốc

lộ 1A, đường Hồ Chí Minh), tỉnh lộ 38km, huyện lộ 88km và 80km đường liên xã.

Đến nay 100% số xã có đường ô tô về đến trung tâm.

Các tuyến đường tỉnh lộ 10, tỉnh lộ 11, các tuyến đường liên xã vùng Nam

của huyện đã được nâng cấp kiên cố .

Đến năm 2017 huyện đã thực hiện kiên cố hóa 276.268km đường giao thông

nông thôn với tổng kinh phí hơn 85 tỷ đồng trong đó tỉnh hỗ trợ hơn 40 tỷ đồng,

47

huyện 20 tỷ đồng, còn lại nhân dân đóng góp.

Lưới điện: Hiện nay toàn huyện có 15/15 xã, thị trấn có điện lưới Quốc gia.

Tỷ lệ hộ dùng điện lưới Quốc gia đạt 98%. Mạng lưới điện ngày một phát triển, có

trên 50% số xã đã được hưởng lợi từ dự án cải tạo lưới điện nông thôn REII, toàn

huyện có 92 trạm biến áp với tổng công suất 18.400KVA đáp ứng nhu cầu sản xuất

và sinh hoạt trên địa bàn.

Thủy lợi: Tính đến năm 2017 toàn huyện có 13 hồ chứa ( với tổng dung tích 128,5 triệu m3 ) và 32 trạm bơm điện, đáp ứng cơ bản nhu cầu nước cho trên 9000 ha đất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt trên địa bàn. Trong đó: Hồ Rào Đá có công suất 82 triệu m3 đảm bảo sản xuất 2.500 ha và nước sinh hoạt cho 5 xã lân cận, hồ Trooc Trâu có dung tích 10 triệu m3) đang được đầu tư xây dựng…Ngoài ra còn có hệ thống nước ngầm vùng cát thuộc xã Gia Ninh, Võ Ninh

cung cấp nước tưới và sinh hoạt cho vùng ven Quốc lộ 1A. Đến nay toàn huyện có

157,9km kênh mương đã được bê tông hóa. Tuy nhiên vẫn còn 40% kênh mương

chưa được kiên cố hóa nên vẫn còn tình trạng thẩm thấu, lãng phí nước.

Thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông: Hiện nay trên địa bàn huyện có 2

tổng đài, 3 bưu cục và 15/15 xã, thị trấn có điểm bưu điện văn hóa xã. Ngoài ra một

số doanh nghiệp bưu chính đã bắt đầu triển khai các dịch vụ chuyển phát bằng nhiều

hình thức, phương thức mới mang lại nhiều cơ hội sử dụng dịch vụ cho xã hội.

Về lĩnh vực viễn thông: đến nay đảm bảo 15/15 xã, thị trấn có song điện

thoại di động, truy cập và kết nối Internet. Công nghệ Internet băng thong rộng ngày

càng phát triển, mức độ sẵn sang cho ứng dụng và phát triển công nghệ thong tin

được nâng cao.

Y tế, chăm sóc sức khỏe: các chương trình y tế quốc gia, phòng chống dịch

bệnh thực hiện có hiệu quả. Việc khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là người

nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, đối tượng chính sách ngày càng nề nếp. Mạng lưới y tế từ

huyện đến xã đã được đầu tư, kiện toàn đáp ứng cơ bản nhiệm vụ, có 1 bệnh viện và

15 trạm xá ở 15 xã, thị trấn.

2.1.2.2 Tình hình kinh tế của huyện

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2017, giá trị sản xuất của huyện liên

48

tục tăng với tốc độ khá. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng ngày càng giảm tỉ lệ

giá trị sản xuất nông nghiệp, duy trì và tăng tỉ lệ giá trị sản xuất công nghiệp, sản

xuất thương mại và dịch vụ.

Bảng 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất, cơ cấu của các ngành kinh tế của huyện

Quảng Ninh qua các năm (tính theo giá hiện hành)

(ĐVT: triệu đồng)

2015 2016 2017 Ngành kinh tế So sánh 2017/2014 (+/-) (%)

0,47 216.164 Tốc độ tăng BQ (%) 26,80 460.065 583.342 676.229 Công nghiệp – XD

0,47 241.922 516.370 651.252 758.292 17,95 Thương mại-Dịch vụ

595.992 809.637 860.075 0,44 264.083 10,52 Nông-Lâm-Thủy sản

464.112 654.877 663.191 0,43 199.079 10,14 Nông nghiệp

36.498 44.532 55.064 0,51 18.566 17,83 Lâm nghiệp

95.382 110.228 141.820 0,49 46.438 9,95 Thủy sản

1.572.427 2.044.231 2.294.596 0,46 722.169 16,70 Tổng số

Nguồn: Niên giám thống kê huyện Quảng Ninh năm 2017

Bảng 2.3 cho thấy giá trị sản xuất năm 2017 đạt 2.294,596 tỷ đồng gấp 1,46

lần so với năm 2015 và gấp 1,12 lần so với năm 2016. Tốc độ tăng trưởng bình quân

hàng năm đạt 16,7% cơ bản đạt chỉ tiêu đề ra. Trong đó: công nghiệp – Xây dựng

tăng nhanh nhất với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 26,8%, công nghiệp phát triển

mạnh và đồng bộ theo 2 hướng công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến.

Thương mại - Dịch vụ tăng bình quân 17,95% trong đó các ngành dịch vụ

quan trọng như bưu chính - viễn thông, giao thông - vận tải, tài chính – tín dụng có

tốc độ phát triển khá, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân và

doanh nghiệp.

Giá trị sản xuất Nông – lâm - thủy sản tăng bình quân 10,52%. Giai đoạn

2015-2017 tăng nhanh là do người nông dân đã có kinh nghiệm sản xuất, biết đầu tư

máy móc thiết bị và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi để tăng năng suất,

49

chất lượng sản phẩm..

2.1.2.3 Đánh giá tác động của tình hình kinh tế huyện Quảng Ninh đến phát

triển kinh tế trang trại

Quảng Ninh là một huyện thuần nông, chưa phát triển nên được rất nhiều

chương trình, dự án của Nhà nước cũng như từ tổ chức phi chính phủ đầu tư. Điều

này đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học

vào sản xuất, nâng cao năng lực,thay đổi hệ thống cây trồng có giá trị sản lượng cao

trên một đơn vị diện tích.

Nhà nước, tỉnh và địa phương đã đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng nông

thôn, huyện Quảng Ninh đã có những điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất các sản

phẩm hàng hóa nhất là khi hệ thống giao thong, điện nông thôn và thủy lợi được cải

thiện sẽ là nhân tố tích cực cho các quyết định về trồng cây lâu năm (cây ăn quả,

cây công nghiệp), cây ngắn ngày và cây lâm nghiệp phù hợp với quy mô trang trại

có trên địa bàn huyện.

Nhờ có vị trí thuận lợi về đường giao thông (cả đường bộ, đường sắt và

đường thủy), dịch vụ thương mại trên địa bàn huyện cũng có phát triển, trong những

năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chợ nông thôn được quan

tâm, cải tạo, nâng cấp và xây mới, cơ sở giao lưu buôn bán mở rộng, sản xuất hàng

hóa phát triển.

2.1.3. Đặc điểm xã hội

2.1.3.1 Dân số và lao động

Đặc điểm về dân cư và lao động thể hiện tiềm lực và khả năng sử dụng

nguồn lực để phát triển kinh tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc

chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Bảng 2.5 mô tả một số chỉ tiêu về nhân khẩu học xã

50

hội trên địa bàn điều tra.

Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu về đặc điểm nhân khẩu học xã hội của

huyện Quảng Ninh năm 2017

STT

So sánh 2017/2014

Chỉ tiêu

Năm 2014

Năm 2017

Đơn vị

(+/-) 692,0 501,0

% 1,028 1,025

Tốc độ tăng bình quân/năm (%) 0,94 0,83

24.327 20.014

25.019 20.515

Hộ Hộ

3

4.313

4.504

191,0

1,044

1,45

Hộ

4 5

89018 55030

90.386 56.447

1.368,0 1.417,0

1,015 1,026

0,51 0,85

6

20,4

30

11,8

1,578

16,43

7

13,89

9,5

-4,4

0,684

-11,89

%

8

-6,7

0,625

17,93

11,2

-14,52

1 Tổng số hộ 2 Hộ nông nghiệp Hộ phi nông nghiệp Tổng nhân khẩu Người Tổng lao động Người Triệu Thu nhập bình đồng quân đầu người % Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ cận nghèo

(Nguồn: Niên giám Thống kê huyện Quảng Ninh, 2017)

Theo niên giám thống kê huyện Quảng Ninh năm 2017, toàn huyện có tổng

số hộ là 25.019 hộ, trong đó có tới 82,71% hộ sản xuất nông nghiệp, và có 17,29%

hộ phi nông nghiệp. Tỷ lệ số hộ nông nghiệp cao gần gấp 5 lần số hộ phi nông

nghiệp. Đây là minh chứng rõ nét, thể hiện cho việc dân cư tại huyện Quảng Ninh

có hoạt động sinh kế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, với sự phát triển

của thị trấn Quán Hàu tại trung tâm địa bàn, không thể phủ nhận hoạt động phi nông

nghiệp đang dần được đầu tư phát triển mạnh mẽ với việc đa dạng các ngành nghề

dịch vụ khác nhau.

Tổng nhân khẩu toàn huyện là 90.386, và trung bình có khoảng 4 nhân khẩu

trên hộ. Số lao động trên địa bàn ở mức cao, đạt ngưỡng 56.447 lao động, trong đó

lao động nông nghiệp chiếm 64,39% và 35,61% lao động còn lại nằm trong các

ngành kinh tế khác. Mặc dù hoạt động sản xuất nông nghiệp còn đóng vai trò chủ

lực, số lao động tham gia vào hoạt động này chiếm hơn 1/2 số lao động hiện có, tuy

nhiên, 35,61% lao động phi nông nghiệp cũng không phải là con số nhỏ.

Điều này khẳng định rằng, các hoạt động phi nông nghiệp đang dần thu hút

51

được nhiều lao động tham gia. Điển hình là sự xuất hiện của các cụm công nghiệp,

cụm làng nghề như cụm công nghiệp Áng Sơn xã Vạn Ninh; cụm làng nghề Tây

Bắc thị trấn Quán Hàu; và các công ty, nhà máy xí nghiệp khác trên địa bàn cũng

đang dần thu hút lực lượng lao động về làm việc. Trong khi số hộ tham gia sản xuất

nông nghiệp cao, nhưng trung bình chung mỗi hộ trên địa bàn chỉ có 2 lao động gia

đình. Đây là một con số tương đối thấp, vì có ít lao động gia đình sẽ ảnh hưởng trực

tiếp đến khả năng phát triển và hiệu quả sản xuất của hộ nói riêng, ngành nông

nghiệp nói chung. Tuy nhiên, con số này cũng là một trong những yếu tố góp phần

thúc đẩy cơ giới hóa trong nông nghiệp tại địa bàn, giảm bớt công lao động cho

người nông dân khi thiếu hụt nguồn lao động. Huyện Quảng Ninh hiện đang dần

đầu tư phát triển và hoàn thiện các tiêu chí của nông thôn mới, nhưng với mức bình

quân thu nhập là 20,4 triệu đồng/năm, tức là chỉ gần 1,7 triệu/tháng thì đây là một

con số thấp. Điều này được lý giải bởi nguồn thu của nông hộ chủ yếu có từ hoạt

động sản xuất nông nghiệp, do đó, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn huyện

còn khá cao, với các con số lần lượt là 9,5 và 11,2% trong tổng cơ cấu dân số.

2.1.3.2 Truyền thống văn hóa

Người dân huyện Quảng Ninh có truyền thống sản xuất nông nghiệp, chủ

yếu là làm nghề nông, trồng lúa, chăn nuôi, các nghề thủ công truyền thống như làm

chủi đót ở làng Phúc Duệ, xã Vĩnh Ninh...từ bao đời nay. Thêm vào đó là đức tính

cần cù, siêng năng, chăm chỉ nên nông dân huyện Quảng Ninh đã tích lũy nhiều

kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp nói chung và phát triển trang trại nói riêng.

Tuy nhiên, tập quán sản xuất lạc hậu trong nông nghiệp vẫn còn tồn tại nên trong

những năm qua ít nhiều đã hạn chế đến phát triển nông nghiệp

Dân số trung bình năm 2017 là 90.386 người. Trong đó dân tộc Kinh chiếm

tỷ lệ khoảng 96%, phân bổ tập trung ở đồng bằng và vùng đồi; dân tộc Vân Kiều

chiếm tỷ lệ khoảng 4%, tập trung ở 2 xã Trường Sơn và Trường Xuân.

Người Quảng Ninh có tính siêng năng, cần cù, chịu khó trong lao động sản

xuất và trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì họ lại trở thành người chiến

sỹ trung kiên, xả thân vì đất nước

Ngày nay, trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước người Quảng

52

Ninh cũng luôn đi đầu trong học tập, tỷ lệ con em của huyện nhà vào đại học cao;

trong lao động sản xuất có nhiều điển hình về chăn nuôi lợn, nuôi hươu, xây dựng

kinh tế vườn đồi, vườn rừng, trồng cây công nghiệp… điều đó chứng tỏ con người

Quảng Ninh có thể đủ khả năng tiếp cận với quá trình hội nhập thế giới và khu vực

để xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.

2.1.3.3 Đánh giá tác động của đặc điểm xã hội huyện Quảng Ninh đến phát triển

kinh tế trang trại

- Lợi thế và hạn chế về nguồn nhân lực

Có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động lớn, lực lượng

lao động trẻ, có nguồn lực con người thông minh, cần cù, quyết tâm vượt mọi khó

khăn, cầu tiến bộ. Đây là nguồn nội lực rất quan trọng.

Lực lượng lao động trong các ngành nông lâm nghiệp chiếm số đông là điều

kiện thuận lợi để cung cấp nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp

nói chung và kinh tế trang trại nói riêng.

Dân số tăng nhanh, lực lượng lao động trẻ nhiều nhưng hiện nay phần lớn lao

động trẻ lại không muốn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, một bộ phận dân cư

còn lại vẫn bám trụ với nghề nông thường sống ở vùng nông thôn, trung du, miền

núi, miền biển thì trình độ dân trí và thu nhập còn thấp Sự hiểu biết về thị trường

còn hạn chế làm ảnh hưởng đến làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế

trang trại của huyện Quảng Ninh.

Năng lực, trình độ của chủ trang trại và người lao động còn yếu, chưa đáp

ứng với yêu cầu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa và công cuộc đổi mới.

- Lợi thế và hạn chế về truyền thống văn hóa:

Nhân dân huyện Quảng Ninh ngoài truyền thống anh dũng kiên cường, còn

cần cù chịu khó, thông minh, sáng tạo... là điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát

triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế trang trại nói riêng ở những vùng còn khó

khăn, hạn chế về hạ tầng cơ sở vật chất.

Tập quán canh tác còn mang tính thuần nông, sản xuất tự cung tự cấp là

những hạn chế trong quá trình nâng cao sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Muốn phát

53

triển kinh tế trang trại phải thay đổi tập quán này.

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN

QUẢNG NINH THỜI GIAN QUA

2.2.1. Thực trạng phát triển về số lượng trang trại

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói

chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn

với chế biến và tiêu thụ sản phẩm để xóa đói giảm nghèo, thực hiện CNH-HĐH

nông thôn. Nền sản xuất nông nghiệp nói chung và các mô hình KTTT trên địa bàn

huyện Quảng Ninh nói riêng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, quy mô của

các trang trại không ngừng tăng lên. Người dân ý thức được hiệu quả thấp của sản

xuất nhỏ lẻ, manh mún, trình độ thấp. Do vậy, các mô hình KTTT đã có cơ hội phát

huy được tiềm năng của nó. Năm 2017, toàn huyện có 31 trang trại với 4 loại hình

trang trại, chủ yếu là hoạt động chăn nuôi (chiếm gần 75% tổng số loại hình trang

trại) (bảng 2.5)

Bảng 2.5: Số lượng, cơ cấu của từng loại hình trang trại qua các năm

2015 2016 2017

Loại hình trang trại Tốc độ tăng BQ / năm (%)

44,2 12,78 0 12,5

Số lượng (TT) 1 15 6 4 26 Cơ cấu (%) 3,2 48,4 19,3 12,9 100 Số lượng (TT) 2 18 0 5 25 Cơ cấu (%) 4,2 75 0 20,8 100 Số lượng (TT) 3 19 0 9 31 Cơ cấu (%) 4 76 0 20 100 TT trồng trọt TT chăn nuôi TT thủy sản TT tổng hợp Tổng số

Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Ninh 2017

Trước năm 2011 số trang trại trên huyện Quảng Ninh khá lớn, lên tới 112

trang trại tuy nhiên sau khi thực hiện theo Thông tư số 27/2011/TT-BNN&PTNT

ngày 13/4/2011 Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận KTTT nên đa

số các loại hình trang trại có trên địa bàn huyện Quảng Ninh ở thời điểm đó đều

không đạt chuẩn. Đến năm 2015, tổng số trang trại tại huyện Quảng Ninh là 26

trang trại. Nhìn vào bảng 2.5, ta thấy hiện nay, kinh tế trang trại trên địa bàn huyện

54

Quảng Ninh đang phát triển mạnh nhất là loại hình trang trại chăn nuôi và tiếp

theo là trang trại tổng hợp và trang trại trồng trọt. Vào năm 2016,2017 số lượng

trang trại thủy sản hầu như không còn. Lý do là vì ảnh hưởng của sự cố môi

trường biển do nhà máy Fomosa Hà Tĩnh xã thải gây ra ảnh hưởng đến các trang

trại nuôi trồng thủy sản chủ yếu tập trung ven biển xã Hải Ninh, lý do thứ 2 là do

tỉnh lấy lại mặt bằng ven biển để cho tập đoàn FLC vào đầu tư sân golf nên hiện

nay các trang trại nuôi trồng thủy sản hầu như không có trên địa bàn huyện, mà

chủ yếu người dân nuôi trồng thủy sản mang tính chất nhỏ lẻ, chưa đáp ứng được

các tiêu chí của trang trại.

Nguyên nhân số lượng trang trại chăn nuôi ngày càng phát triển vì đối với

các loại hình trang trại trồng trọt, trang trại tổng hợp và trang trại thủy sản thì theo

quy định diện tích phải trên 2,1 ha, sản lượng trên 700 triệu/năm, trang trại lâm

nghiệp thì quy định diện tích trên 31 ha, sản lượng trên 500 triệu/năm mới được cấp

giấy chứng nhận trang trại, ta thấy các tiêu chí này rất cao so với một huyện đang

gặp khó khăn và diện tích nhỏ như huyện Quảng Ninh để có thể đủ tiêu chuẩn xây

dựng các trang trại vì vậy, số lượng trang trại của các loại hình trang trại này giảm

đáng kể, riêng chỉ có loại hình trang trại chăn nuôi là khá phù hợp với địa bàn

huyện vì nó yêu cầu về đất đai ít, người dân đã quen với việc chăn nuôi gia súc, gia

cầm và hơn hết là nhu cầu thị trường về loại sản phẩm này rất lớn nên nó có thể đáp

ứng được yêu cầu về giá trị sản lượng hàng hóa là 1 tỷ/ năm.

Tóm lại, số lượng trang trại có dấu hiệu hồi phục và phát triển trong thời

gian qua, các loại hình KTTT không phát triển và phát triển chậm là trang trại

nuôi trồng thủy sản và trang trại lâm nghiệp còn trang trại chăn nuôi thì phát triển

rất nhanh. Việc hình thành và phát triển KTTT chủ yếu từ nông hộ, phụ thuộc nhiều

vào điều kiện tự nhiên, thói quen, kinh nghiệm, thị trường tiêu thụ. Thực tế cho

thấy trên địa bàn huyện tồn tại rất nhiều trang trại tự phát, dựa vào sự năng động,

sáng tạo, tự bươn chải và ý chí làm giàu của chủ trang trại mà chưa có sự hỗ trợ

55

tích cực của lãnh đạo địa phương, các cấp, các ngành.

2.2.2. Thực trạng các yếu tố nguồn lực

2.2.2.1 Đất đai

Để trở thành trang trại, các hộ đồng thời phải có quy mô đất đai và giá trị sản

lượng hàng hóa đạt tiêu chí như trong thông tư số 27/2011/TT-BNN&PTNT ngày

13/4/2011 Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.

Bảng 2.6: Quy mô diện tích của các loại hình trang trại năm 2017

Năm 2017

TT Mô hình Tổng số

1 2 3

Dưới 5 ha 3 12 3 18 Từ 5-10 ha 0 7 3 10 Trên 20 ha 0 0 3 3 3 19 9 31

Từ 10-20 ha 0 0 0 0 0% 58% 32,2% 9,8% 100% TT trồng trọt TT chăn nuôi TT tổng hợp Cộng Cơ cấu %

Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Ninh

Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu trong nông nghiệp nói chung

và cho các trang trại nói riêng. Sự hình thành của các trang trại gắn liền với việc tập

trung tích tụ ruộng đất. Quy mô đất đai là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực

sản xuất của các trang trại.

Năm 2017, xét về quy mô diện tích cho từng loại hình kinh tế trang trại,

thông qua biểu 2.6, trang trại có quy mô diện tích dưới 5 ha là 18 trang trại,

chiếm 58% tổng số trang trại, chủ yếu là các loại hình kinh tế trang trại chăn nuôi,

trồng trọt; quy mô diện tích từ 5 đến 10 ha, có 10 trang trại và chiếm 32,2% tổng

số trang trại gồm các trang trại chăn nuôi và tổng hợp. Quy mô trên 20ha có 3

trang trại trong đó chủ yếu là trang trại tổng hợp.

Quy mô sử dụng đất vào từng loại hình kinh tế trang trại phụ thuộc vào đối

tượng sản xuất cần đất nhiều hay ít. Vì vậy, địa phương cần rà soát, quy hoạch

56

vùng sản xuất gắn với đối tượng sản xuất cho phù hợp.

Bảng 2.7: Thực trạng đất nông nghiệp của các mô hình trang trại

huyện Quảng Ninh năm 2017

(ĐVT: ha)

Các loại đất Tổng số TT tổng hợp TT chăn nuôi TT trồng trọt

13 1,5 9,2 2,3

1,2 1,2 Đất sản xuất nông nghiệp -Đất trồng cây hàng năm -Đất trồng cây lâu năm

151,37 2,1 73,67 75,6 Đất lâm nghiệp

48,8 43,00 5,8

10,7 5,70 5

29 28,00 1,0

165,32 4,8 121,22 39,5

6,61 6,38 Đất đồng cỏ chăn nuôi Diện tích mặt nước NTTS Đất khác Tổng cộng Bình quân ha/ trang trại

4,8 7,9 Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Ninh

Thông qua bảng 2.7, tổng diện tích đất sử dụng sản xuất trang trại ở huyện

năm 2017 là 161,32 ha, chiếm 0,88% so với tổng diện tích đất nông nghiệp trên địa

bàn huyện. Diện tích đất bình quân 6,61 ha/trang trại. Trong đó, diện tích đất của

trang trại chăn nuôi là lớn nhất với 121,22 ha, chiếm 62,8% tổng diện tích đất trang

trại và bình quân 6,38 ha/trang trại, tiếp đến diện tích đất của trang trại tổng hợp là

39,5 ha, chiếm 35,3% tổng diện tích đất trang trại và bình quân 7,9 ha/trang trại.

Trang trại trồng trọt có diện tích nhỏ nhất vì chỉ có 3 trang trại đạt chuẩn được cấp

giấy phép KTTT trên địa bàn huyện Quảng ninh.

Diện tích đất của trang trại được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất lâu dài là thấp chỉ có 55,53 ha, chiếm 21,8% tổng diện tích trang trại, diện

tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận còn khá nhiều. Trong đó, diện tích đất

trang trại tổng hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là lớn nhất,

chiếm 12% diện tích;

Tóm lại: Đất huy động vào sử dụng sản xuất bình quân ở các loại hình trang

57

trại khác nhau. Ngoài trang trại chăn nuôi, trang trại tổng hợp có mức độ đầu tư

thâm canh cao, còn các trang trại khác chủ yếu hoạt động quảng canh và bán thâm

canh. Đất sử dụng sản xuất của trang trại chủ yếu là đất chưa được nhà nước cấp

giấy chứng nhận sử dụng lâu dài nên chủ trang trại chưa mạnh dạn đầu tư thâm

canh sản xuất.

2.2.2.2 Nguồn lao động

Lao động là nhân tố quan trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của

trang trại, ngoài lao động gia đình thì các trang trại cần sử dụng thêm lao động thuê

bên ngoài. Quy mô của lao động cũng phản ánh quy mô sản xuất của trang trại. Số

liệu bảng 2.8 cho biết số lượng, trình độ và cơ cấu lao động theo nhóm tuổi của các

trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh.

Bảng 2.8: Thực trạng lao động của các loại hình trang trại

huyện Quảng Ninh năm 2017

Các chỉ tiêu ĐVT Tổng Bình quân

1. Lao động

Người

TT trồng trọt 20 6 14 9 5 TT chăn nuôi 105 25 80 38 42 TT tổng hợp 43 8 35 10 25 6,12 1,4 4,8 2 2,8 155 35 120 50 70 Người Người

- Lao động gia đình - Lao động thuê ngoài + Lao động thường xuyên + Lao động thời vụ 2. Trình độ của chủ TT 2.1. Trình độ văn hóa

- 12/12 3 17 8 90,3% 28 Người

1 2 0 12 4 2 2 1 4 48,3% 22,5% 19,3% 15 7 6 2.2. Trình độ chuyên môn - Đại học, cao đẳng - Trung cấp - Sơ cấp Người Người Người

3. Cơ cấu tuổi của chủ TT

1 2 0 6 2 1 - Từ 30 tuổi đến dưới 45 tuổi - Từ 45 tuổi đến dưới 60 tuổi - Trên 60 tuổi Người Người Người

58

60% 12 19 27% 4 8 4 13% 3 Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát

Từ bảng 2.8 cho thấy, năm 2017 số lao động sử dụng trong trang trại là 153

lao động, trong đó trang trại chăn nuôi sử dụng số lao động lớn nhất với 105 lao

động chiếm 68,6% tổng số lao động, sử dụng ít lao động nhất là trang trại trồng trọt

với 20 lao động. Trong đó, sử dụng nhiều lao động thuê ngoài thời vụ, bình quân 5

người/trang trại. Như vậy, thực trạng lao động và sử dụng lao động của các trang

trại mới ở quy mô nhỏ, sản xuất với trình độ thấp.

Xét riêng chủ trang trại, đây là đối tượng có vai trò quan trọng, chủ trang trại

ảnh hưởng tới mọi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cả về kết quả và hiệu

quả sản xuất của trang trại. Qua điều tra cho thấy, chủ trang trại 93% là nam giới

quản lý, họ là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong hộ gia đình, trên thực tế, khảo

sát trình độ của chủ trang trại cũng khá tốt, đa số đã tốt nghiệp cấp 3 (chiếm

90,3%), trình độ chuyên môn kỹ thuật của một số chủ trang trại như sau: 48,5% tốt

nghiệp cao đẳng, đại học, 41,8% trình độ trung cấp chủ yếu ở các trang trại tổng

hợp và chăn nuôi, và 9,7% là chưa qua đào tạo thường thuộc các trang trại chăn

nuôi chủ yếu sử dụng kinh nghiệm tích lũy.

Về độ tuổi, phần lớn các chủ trang trại nằm trong độ tuổi 30 – dưới 45 tuổi

(chiếm 60%), đây là độ tuổi mà con người thường chín chắn trong công việc, dám

nghĩ, dám làm sau khi đã đúc rút được các kinh nghiệm về lĩnh vực nông nghiệp

nhỏ ở các hộ gia đình. Trong các trang trại điều tra, không có trang trại nào mà chủ

trang trại dưới 30 tuổi.

Tóm lại: Tổng số lao động sử dụng trong trang trại tăng nhanh cùng với sự

phát triển số lượng trang trại. Tuy nhiên, bình quân số lao động cho một trang trại

giảm. Qua đó, trang trại thể hiện trình độ ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất

ngày càng tăng. Đồng thời, lao động thuê làm việc theo thời vụ không thường

xuyên cần nhiều lao động nhất. Qua đó, các trang trại cần bố trí xen canh, gối vụ để

chủ động lao động và giảm áp lực lao động khi đến mùa vụ sản xuất. Số lượng lao

động còn hạn chế, chất lượng thấp vì chưa qua đào tạo còn nhiều, số lượng chủ

trang trại trẻ chiếm tỷ lệ không cao. Do vậy cần có chiến lược dài hạn nhằm nâng

59

cao trình độ cho lao động, cho chủ trang trại, cần quan tâm hơn nữa đến những

trang trại trẻ. Đây là thế hệ tiếp thu nhanh, dám làm, mạnh dạn đổi mới, có khả

năng nhận thức và áp dụng các tiến bộ KH-KT vào sản xuất.

2.2.2.3 Nguồn vốn đầu tư

Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi trang trại cần phải có một

lượng vốn nhất định. Vốn là điều kiện tiên quyết, quyết định đến thành công hay thất

bại của các mô hình kinh tế trang trại. Việc phát triển kinh tế trang trại cần đầu tư

nhiều vốn và qua nhiều năm (như các trang trại trồng cây lâu năm) tuy nhiên nguồn

vốn vay dài hạn còn hạn chế, chủ yếu vay trung hạn và ngắn hạn. Ta có thể xem xét

tình hình nguồn vốn của các trang trại huyện Quảng Ninh qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.9: Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của các trang trại năm 2017

(ĐVT: triệu đồng)

Vốn tự có Vốn vay Vốn đầu tư

TT Mô hình trang trại Tổng số Giá trị Giá trị Tỷ lệ % Tỷ lệ % Vốn XD cơ bản

966 37,5

5.400 40

Vốn đầu tư trực tiếp cho SX 900 10.200 4.500 15.600 1530 2.430 26.600 14.110 8.100 14.990 44.020 23.740 1560 62,5 64,8 12.600 35,2 16.400 9.000 60 54,4 18.966 45,6 26.960

1.420 760 636 876 520 1 TT Trồng trọt 2 TT chăn nuôi 3 TT tổng hợp Tổng cộng Bình quân vốn/ trang trại

Nguồn: Phòng Thống kê huyện Quảng Ninh, phòng nông nghiệp huyện Quảng Ninh

Xét về quy mô vốn, từ biểu bảng 2.9, nguồn vốn sản xuất kinh doanh của các

trang trại gần 35 tỷ đồng, bình quân vốn của trang trại là 1.420 triệu đồng/trang trại,

vốn tự có của chủ trang trại 23.740 tỷ đồng, trung bình 760 triệu đồng/trang trại,

vốn vay là 18,9 tỷ đồng, trung bình 636 triệu đồng/trang trại. Trong đó, trang trại

chăn nuôi có nguồn vốn đầu tư sản xuất kinh doanh cao nhất là 26,6 tỷ đồng, tiếp

đến trang trại tổng hợp với số vốn gần 15 tỷ đồng.

Xét về cơ cấu nguồn vốn, qua bảng 2.9 ta thấy nguồn vốn tự có, tích luỹ của

60

trang trại 23 tỷ đồng, chiếm 54,4% tổng nguồn vốn, vốn vay của chủ trang trại thấp

hơn nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn là 18,9 tỷ đồng, chiếm 45,6% tổng nguồn vốn

(chủ yếu vay từ các ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách xã hội với lãi

suất cao từ 7-12%/ năm)

Nguồn vốn từ các trang trại được dùng để đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất

của trang trại như xây dựng chuồng trại, mua trang thiết bị sản xuất là 26,9 tỷ đồng

chiếm 62%%, còn lại được sử dụng cho hoạt động trực tiếp sản xuất như mua cây,

con giống, thức ăn, phân bón, thuê nhân công….là 15 tỷ đồng chiếm 38%.

Như vậy, nguồn vốn huy động vào đầu tư phát triển kinh tế trang trại ở

huyện Quảng Ninh rất lớn và chủ yếu là vốn tự có của chủ trang trại, phản ảnh khả

năng huy động nội lực để đầu tư phát triển. Qua điều tra, các trang trại rất thiếu vốn

nhưng việc vay vốn ngân hàng rất khó khăn, với lãi suất cao và thời hạn ngân hàng

cho vay ngắn. Do các chủ trang trại chưa có năng lực xây dựng phương án sản xuất

kinh doanh có tính khả thi chưa cao. Mặc khác, các ngân hàng ngại cho vay sản

xuất nông nghiệp vì rủi ro do thiên tai, dịch bệnh ở miền Trung khá cao và người

nông dân thường không có tài sản thế chấp có giá trị lớn. Các chính sách tài chính

của Nhà nước hỗ trợ phát triển trang trại, theo tinh thần Nghị quyết 03, Bộ Tài

chính ra Thông tư số 82/2000/TT-BTC hướng dẫn cụ thể về chính sách ưu đãi tài

chính đối với trang trại; đến năm 2010 Chính phủ ra Nghị định số 41/2010/NĐ-CP

về chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn, trong đó kinh tế trang trại vay tín

chấp tối đa tới 500 triệu đồng.

2.2.2.4 Khoa học – công nghệ

Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới, công nghệ sinh học

trong phát triển nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản cũng có những kết quả

nhất định.

Trong trồng trọt đã ứng dụng công nghệ sản xuất các loại nấm ăn như: nấm

rơm, nấm sò, mọc nhĩ, tận dụng được nguồn rơm sau thu hoạch lúa, năm 2013 kết

hợp với Trung tâm giống cây trồng triển khai trồng thử nghiệm giống hoa Lily, hoa

Hồng, cúc Đà Lạt tại xã Lương Ninh, thị trấn Quán Hàu.. Ứng dụng quy trình công

nghệ trong sản xuất rau chuyên canh và rau an toàn ở các xã như Võ Ninh, Gia

61

Ninh. Xây dựng mô hình trồng dưa hấu theo quy chuẩn VietGap năm 2016 đạt được

nhiều thành công bất ngờ với người dân xã Hàm Ninh, liên kết với các siêu thị

ngoài tỉnh thu mua ngay tại ruộng dưa.

Trong chăn nuôi đã ứng dụng mô hình nuôi heo trên nền đệm lót sinh học là

phương pháp sử dụng chế phẩm vi sinh Balasa N01 nhằm tạo ra các quần thể vi sinh

vật sống để xử lý chất thải của vật nuôi, làm cho môi trường trong sạch, giúp đàn heo

ăn nhiều, lớn nhanh, tỷ lệ mắc bệnh tiêu hóa giảm do vật nuôi có môi trường tự nhiên

để vận động, đào bới suốt ngày, kích thích quá trình tiêu hóa. Ngoài ra, trung tâm

khuyến nông và phòng nông nghiệp huyện còn kết hợp với Viện nghiên cứu nuôi trồng

thủy sản để giới thiệu cho các chủ trang trại thủy sản tiếp thu công nghệ và chuyển giao

kỹ thuật nuôi thâm canh hàng vạn con cá rô, cá chép trên địa bàn xã Gia Ninh,Võ Ninh,

giống tôm thẻ chân trắng trên địa bàn xã Hải Ninh, cá rô phi, cá loi ở xã Hiền Ninh,

Tân Ninh. Hiện nay do nhu cầu của thị trường về sản phẩm này lớn nên phòng Nông

nghiệp huyện cùng với các chủ trang trại thủy sản đã thử nghiệm mô hình nuôi hàu cửa

sông theo mô hình công nghiệp bằng nguồn giống sinh sản tại Thị trấn Quán Hàu và

mô hình đã và đang được mở rộng quy mô trên nhiều hộ gia đình trong địa bàn.

2.2.3. Thực trạng về liên kết sản xuất

Kinh tế trang trại là mô hình kinh tế sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp.

Việc giải quyết yếu tố đầu ra đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát

triển ổn định của trang trại. Chương trình liên kết 4 "nhà" (nhà nước, nhà khoa học,

doanh nghiệp, nông dân) vẫn chưa thực sự cho hiệu quả như mong muốn, các mối

liên kết dọc và ngang hình thành và phát triển khó khăn. Cụ thể, mối liên kết giữa

doanh nghiệp (DN) và nông dân, nông dân và nông dân trong các trang trại, tổ hợp

tác, câu lạc bộ khuyến nông vẫn khá lỏng lẻo, không gắn kết được lợi ích và trách

nhiệm của các bên với nhau… Mối liên kết thiếu chặt chẽ đã khiến nông dân,

doanh nghiệp không an tâm đầu tư, sản xuất. Nhìn chung, các trang trại trên địa bàn

huyện chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất với tiêu thụ. Đây là vấn đề đã tồn

tại trong thời gian dài nhưng có hướng giải quyết triệt để. Tình trạng sản phẩm nông

sản hàng hóa do các trang trại sản xuất ra không tiêu thụ được hoặc phải bán với giá

62

thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường ở những địa bàn thuận lợi, trong khi giá các

yếu tố đầu vào phải mua với giá cao đang nổi lên là một trong những vấn đề bức

xúc mà các chủ trang trại đang phải chấp nhận, chưa có giải pháp khắc phục.

Ngoài ra, việc liên kết sản xuất của các trang trại trên địa bàn huyện trong

thời gian qua chưa phát triển. Vấn đề liên kết sản xuất kinh doanh giữa các trang

trại với nhau, giữa trang trại với các nông lâm trường, với các hợp tác xã nông

nghiệp được các chủ trang trại quan tâm đúng mức. Vì thế các trang trại gặp khó

khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất, cũng như giải quyết các yếu tố đầu vào,

đầu ra của trang trại còn nhiều bất cập, gây nhiều thiệt hại cho các chủ trang trại.

2.2.4. Thực trạng về phát triển thị trường

Nhìn chung, quy mô các trang trại trong lĩnh vực nông lâm, thủy sản ở

huyện Quảng Ninh là không lớn, các sản phẩm làm ra còn nhỏ lẻ, thời điểm thu

hoạch, trữ lượng và chất lượng các loại nông sản, thủy sản không đồng đều do có

sự khác biệt về giống, kỹ thuật canh tác và cơ cấu sản phẩm nên các trang trại

gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ nông sản hàng hóa.Đối với nhóm nông

sản hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng thì phần lớn các trang trại tiêu thụ gián tiếp,

bán cho các thương lái trước khi đến với người tiêu dùng.

Bảng 2.10: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại năm 2017

ĐVT Thị trường tiêu thụ sản phẩm Tổng số TT chăn nuôi So sánh năm 2015/2017 (+/-) TT trồng trọt TT tổng hợp

12 0 10 2 -4 tr.trại

18 1 8 3 +3 tr.trại

1 0 1 0 +1 tr.trại

0 0 0 0 0

31 3 19 0 Tiêu thụ SP tại địa bàn trang trại Tiêu thụ SP phạm vi trong tỉnh Tiêu thụ SP phạm vi trong nước Xuất khẩu Tổng số tr.trại tr.trại

63

9 Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát

Qua khảo sát điều tra, sản phẩm hàng hoá của các trang trại chủ yếu tiêu thụ

ở trên địa bàn huyện và tỉnh là chủ yếu. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp,

lấy ngắn nuôi dài và nhiều đối tượng sản xuất nên bán một số hàng hoá nông sản

cho người tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn.

Xét về nhóm hàng hoá nông sản của trang trại phục vụ cho nguyên liệu công

nghiệp chế biến như mía, ngô, sắn, dứa tiêu thụ qua trung gian và trực tiếp cho nhà

máy nhưng cũng gặp nhiều khó khăn do quy mô kinh doanh còn nhỏ lẻ.

Phần lớn sản phẩm của các trang trại là chưa qua chế biến, tỷ trọng sản

phẩm đã qua sơ chế và tinh chế rất thấp, dẫn tới giá trị sản phẩm từ trang trại là

không cao. Mặc khác, sản phẩm bán là đối tượng tươi sống mà các trang trại không

có đủ điều kiện để bảo quản nên vấn đề liên kết trong tiêu thụ là khâu rất quan

trọng để tạo ra nguồn hàng hoá lớn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của

trang trại. Hiện nay, trên địa bàn huyện chưa có trang trại nào có sản phẩm đủ tiêu

chuẩn để xuất khẩu.

Bảng 2.11: Sản lượng chủ lực các sản phẩm của trang trại qua các năm

Mô hình trang trại ĐVT Năm 2016 Năm 2017 Năm 2015 Tốc độ tăng bình quân (%)

288,2 225,0 290,0 288,0 6,32 16,83 256,5 211,0 Tạ Tạ

Con Con Con Con 261,0 258,0 11.236 31.988 267 296,0 12.325 32.447 7,74 14,6 10,8 3,1 230,0 225,0 10.027 30.488

235 220,4 9.590 965 136 3.150 249 226,0 10.300 1.264 157 3.520 8,63 22,95 5,1 11,3 24,06 15,68 211 149,5 9.320 1.019 102 2.630 1. TT trồng trọt Cây lương thực Cây màu 2. TT chăn nuôi Trâu Bò Lợn Gia cầm 3.TT tổng hợp Cá Cây ăn quả Gia cầm Lợn Bò Trứng gà, vịt Tạ Tạ Con Con Con 100 quả

64

Nguồn: Số liệu từ phòng Nông nghiệp - PTNT

Tóm lại, các sản phẩm nông sản của trang trại bán qua trung gian và làm

nguyên liệu cho nhà máy chế biến là chủ yếu, thông tin thị trường nông sản đến với

trang trại gặp nhiều khó khăn, bị các thương lái ép giá khi bán nông sản.Các chủ

trang trại liên kết trong tiêu thụ sản phẩm ở huyện còn rất yếu. Đến nay, các chủ

trang trại chỉ trao đổi thông tin về giá cả thị trường để mua nguyên liệu đầu vào và

bán sản phẩm. Hầu hết các chủ trang trại chưa có hợp đồng với các nhà máy chế

biến tiêu thụ sản phẩm, để các chủ trang trại yên tâm đầu tư thâm canh, nâng cao

năng suất cây trồng – vật nuôi, nhà máy chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào. Mặc

khác, các chủ trang trại chưa liên kết với nhau để tạo ra chuỗi giá trị nông sản, nâng

cao năng lực cạnh tranh và giảm sự ép giá, ép cấp của người mua.

2.2.5. Thực trạng về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh

Để đánh giá thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại, ta đi tìm

hiểu quy mô, cơ cấu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và thu nhập hỗn hợp của các

trang trại chia theo các loại hình sản xuất. GTSX trang trại có sự khác nhau đáng kể

vì nó phụ thuộc vào quy mô và đặc điểm, tính chất của sản phẩm sản xuất kinh

doanh , mặt khác nó cũng phục thuộc vào năng lực, trình độ tổ chức quản lý sản

xuất kinh doanh của các chủ trang trại.

Bảng 2.12: Doanh thu và chi phí của các trang trại năm 2017

Doanh thu Chi phí Thu nhập

Mô hình Giá trị Giá trị Giá trị TT % % % trang trại (triệu (triệu (triệu

đồng) đồng) đồng)

1 2.280 1,74 1.320 1,45 960 2,37 TT trồng trọt

2 37.175 84,93 26.295 86,82 10.880 80,68 TT chăn nuôi

3 10.580 13,34 6.395 11,72 4.113 16,95 TT tổng hợp

50.035 34.010 15.953 4 Cộng

1.211 539 1.750,9 5 BQ/1 trang trại

65

Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Ninh

Qua bảng 2.12 ta thấy,trong năm 2017 doanh thu bình quân của 1 trang trại

là 1.750 triệu đồng, trong đó trang trại có doanh thu cao nhất là trang trại chăn nuôi

với hơn 37 tỷ đồng/năm, trung bình 1.956 triệu đồng/trang trại là do số lượng của

các trang trại chăn nuôi trên địa bàn nhiều chiếm 19/31 trang trại, mặt khác sản

phẩm của loại hình trang trại này có thể đáp ứng thường xuyên nhu cầu của thị

trường với số lượng sản phẩm lớn. Trang trại có giá trị sản xuất thấp nhất là trang

trại trồng trọt cụ thể chỉ đạt giá trị là 2.280 triệu đồng là do thời gian thu hoạch sản

phẩm dài nên phần nào chịu nhiều tác động từ thiên tai, dịch bệnh làm giảm chất

lượng sản phẩm từ đó giảm giá trị sản xuất của loại hình trang trại này. Doanh thu

bình quân của trang trại tổng hợp là 1.167 triệu đồng/ trang trại.

Về cơ cấu nguồn thu từ sản xuất kinh doanh của các trang trại cho thấy

nguồn thu từ các trang trại trồng trọt thấp nhất chỉ chiếm 1,74%. Nguồn thu từ trang

trại tổng hợp khá cao chiếm 13,34%, do quy mô đầu tư lớn và chỉ có 9 trang trại

tổng hợp trên địa bàn huyện. Trong đó tỷ trọng doanh thu từ các trang trại chăn nuôi

cao nhất với 84,93%,.

Chi phí sản xuất của các trang trại trên thực tế là chỉ tiêu rất khó xác định

chính xác, vì đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và trình độ sản xuất của các trang

trại mang tính trang trại gia đình, trình độ hạch toán kinh doanh của trang trại còn

thô sơ, đơn giản và trình độ quản lý của chủ trang trại còn thấp nên việc điều tra, thu

thập, tập hợp các khoản mục chi phí sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ tiêu chi

phí trung gian ở đây được tập hợp từ tất cả các khoản chi phí vật chất, chi phí dịch

vụ thuê ngoài cho các sản phẩm thu hoạch. Qua bảng 2.12 cho thấy tổng chi phí đầu

tư kinh tế trang trại hơn 34 tỷ đồng, bình quân chi phí cho 1 trang trại là 1.211 triệu

đồng/năm, trong đó các trang trại có tỷ trọng chi phí cao là trang trại chăn nuôi với

86,82% do loại hình trang trại này chiếm đa số các trang trại trong huyện, giá thành

của các loại con giống cao, chi phí thức ăn và chi phí nhân công lớn.

Tổng thu nhập của các trang trại trong năm 2017 là 15.953 tỷ đồng, bình

66

quân thu nhập 1 trang trại là 539 triệu đồng.

Bảng 2.13: Thu nhập bình quân trang trại huyện Quảng Ninh

giai đoạn 2014 - 2017

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 So sánh 2017/2014 (+/-) (%) Phân theo loại hình trang trại Đơn vị tính: Triệu đồng Tốc độ tăng bình quân/năm %

484,68 502,32 527,24 539 54,32 11,2 2,69 Trung bình/trang trại

287 290 320 33 11,5 2,75 311 1. Trồng trọt

510 532 572,6 62,6 12,27 2,86 560 2. Chăn nuôi

428 432 457 6,77 5. Tổng hợp

446 1,65 29 Nguồn: Chi cục thống kê huyện Quảng Ninh

Qua bảng 2.13, cho thấy năm 2014 thu nhập bình quân của mỗi trang trại là

484,68 triệu đồng/trang trại, đến năm 2017 thu nhập bình quân mỗi trang trại tăng

lên 514 triệu đồng/trang trại, điều này là do quy mô, chất lượng của trang trại tăng

nên thu nhập bình quân của các trang trại tăng lên. Cụ thể: Trang trại trồng trọt năm

2014 bình quân 287 triệu đồng/trang trại, năm 2017 là 320 triệu đồng/trang trại;

trang trại chăn nuôi năm 2014 là 510 triệu đồng/trang trại, đến năm 2017 là 572,6

triệu đồng/trang trại; trang trại tổng hợp 428 triệu đồng/trang trại năm 2014 đến

năm 2017 là 457 triệu đồng/trang trại. Tốc độ tăng trưởng bình quân về thu nhập

của các trang trại khá ổn định.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI

HUYỆN QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN QUA

2.3.1. Kết quả đạt được

Trong những năm qua, phát triển kinh tế trang trại đã thu được những kết quả

khá tốt. Khai thác có hiệu quả tiềm năng về đất đai, lao động, vốn … góp phần tăng

thu nhập, giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong gia đình và nông dân các

vùng lân cận, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Qua thực tiễn đã khẳng định một số cây con phù hợp với điều kiện khí hậu,

thổ nhưỡng, góp phần tăng độ che phủ rừng, cải tạo môi trường sinh thái. Mặt khác

67

khẳng định đây là mô hình sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp. Một số trang trại đã

cho thu nhập khá, nhất là trang trại chăn nuôi 572 triệu đồng/năm đồng/năm, trồng

trọt 320 triệu đồng/năm, tổng hợp 457 triệu

Phát triển kinh tế trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông

nghiệp nông thôn trên địa bàn huyện Quảng Ninh. Các chủ trang trại mạnh dạn đầu

tư áp dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng công nghệ mới vào sản xuất cây trồng, chăn

nuôi để tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Sự phát triển một số loại hình hoạt

động trang trại bước đầu góp phần hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá

như vùng sản xuất lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản… đã từng bước chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển cơ cấu trong nông nghiệp ở huyện Quảng Ninh.

Kinh tế trang trại huyện Quảng Ninh đã khai thác được lượng vốn hiện có

trong dân để phát triển sản xuất. Các chủ trang trại đã huy động nguồn vốn lớn để

hình thành và phát triển trang trại, với lượng vốn đầu tư 44 tỷ đồng, trong đó vốn tự

có của chủ trang trại chiếm 63,5%, đây là yếu tố quyết định đảm bảo duy trì và phát

triển kinh tế trang trại trong thời gian đến.

Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh đã góp phần giải

quyết công ăn việc làm gia đình, lao động xã hội và tăng thu nhập. Các trang trại đã

tận dụng mọi nguồn lao động, trước hết là lao động trong gia đình là chủ yếu, để

quản lý và lao động trực tiếp trong các trang trại.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ nông dân,

kinh tế trang trại đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp

phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

Qua đánh giá phân tích ở phần trên chúng ta thấy, việc phát triển kinh tế

trang trại là phù hợp với qui luật khách quan của nền kinh tế thị trường trong điều

kiện tự nhiên cũng như tiềm năng sẵn có của huyện Quảng Ninh. Kinh tế trang trại

ở Quảng Ninh đã đạt được một số kết quả sau:

1. Trang trại đã có bước phát triển về số lượng, chất lượng; đa dạng về loại

hình sản xuất kinh doanh, thể hiện tính vượt trội so với kinh tế hộ thuần nông; tạo

sự chuyển biến về nhận thức, sự quan tâm của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân

68

dân trong các xã, phường cũng như của thị xã.

2. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu ứng dụng

tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và đã tạo ra sự liên kết giữa 4 nhà (nhà

nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông) gần nhau hơn, thúc đẩy quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo lập các vùng sản xuất hàng

hoá nông – lâm – thuỷ sản tập trung, làm cơ sở cho công nghiệp chế biến và ngành

nghề dịch vụ ở nông thôn ra đời, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp CNH –

HĐH nông nghiệp, nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.

3. Kinh tế trang trại phát triển góp phần vào việc khai thác tiềm năng đất đai

(đặc biệt là đất trống đồi núi trọc ở vùng đồi núi, đất hoang hoá ở một số xã chưa

đưa vào sản xuất), tăng nhanh giá trị hàng hoá nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, nâng

cao hiệu quả sử dụng đất, tăng nhanh tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, góp

phần cải thiện cân bằng môi trường sinh thái.

4. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác, huy động thêm nguồn vốn

trong dân đầu tư vào phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

5. Tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động nông thôn, góp phần xoá đói giảm

nghèo, tăng thêm nông sản hàng hoá. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng

giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

Từ những mô hình kinh tế trang trại làm ăn có hiệu quả ở các đơn vị, sẽ

là tiền đề cơ sở thực tiễn giúp các chủ trang trại thấy được chí hướng muốn làm

giàu và vươn lên sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến, với thị trường

theo hình thức liên kết đa chiều trong khu vực nông thôn.

2.3.2. Tồn tại, hạn chế

- Số lượng trang trại tăng chậm, hầu hết trang trại phát triển còn mang tính tự

phát, quy mô nhỏ. Số lao động thu hút tham gia sản xuất trong các trang trại còn ít.

Lao động thuê ngoài hầu hết là lao động phổ thông thiếu kỹ năng và hiểu biết về kỹ

thuật chuyên môn. Khối lượng nông sản hàng hóa sản xuất ra còn thấp, chưa chủ

động trong việc liên kết để thu mua, chế biến nông sản phẩm, xúc tiến thương mại.

- Nguồn vốn đầu tư trang trại còn ít, giá trị hàng hóa tăng chậm, hiệu quả sản

xuất kinh doanh của trang trại chưa cao. Khai thác tiềm năng vùng gò đồi, mặt nước

69

chưa hiệu quả.

- Việc xác định ngành hàng tiềm năng, lợi thế của trang trại còn lúng túng.

Năng suất, chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh thấp.

- Trình độ chủ trang trại, lao động ở các trang trại có trình độ thấp, hầu hết

chưa qua đào tạo; kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật còn hạn chế.

- Chưa chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc rất

nhiều vào thị trường và điều kiện tự nhiên.

- Trang trại có quy mô lớn nhưng thiếu vốn, thiếu đầu tư công nghệ kỹ thuật,

chọn giống, phân bón, thức ăn và biện pháp phòng trừ dịch bệnh.

- Thông tin thị trường nông sản cập nhật chưa kịp thời và ít có tin cậy, chưa

có sự hỗ trợ tư vấn về thị trường trong nước và trên thế giới.

- Ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề bức xúc khó giải quyết của nhiều

trang trại, nhất là các trang trại chăn nuôi.

- Hiệu quả sản xuất chưa cao, bởi vì, hiện nay nhiều trang trại sản xuất vẫn

còn mang nặng tính quảng canh. Một số trang trại vẫn ở tình trạng giữ đất để khai

thác hoa lợi tự nhiên, chưa mạnh dạn đầu tư.

2.3.3. Nguyên nhân của những mặt tồn tại, hạn chế

2.3.3.1 Nguyên nhân từ phía chính quyền

- Về chính sách hổ trợ đối với loại hình kinh tế trang trại.

Việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong điều

kiện thực tế tại Huyện còn nhiều bất cập, ngân sách địa phương hằng năm còn hạn chế,

chưa đảm bảo nguồn lực hổ trợ cho các trang trại. Nhiều trang trại trong lĩnh vực nông

lâm, nhất là các trang trại trong những năm đầu thành lập đứng trước tình trạng thiếu

vốn, thiếu máy móc nông cụ nhưng nhà nước chưa có chính sách hổ trợ kịp thời; hoặc

thiếu kỹ thuật, thiếu lao động lành nghề nhưng bản chất các trang trại không có điều

kiện tự đào tạo, bồi dưỡng trong khi nhà nước chưa quan tâm đúng mức.

- Về công tác khuyến nông

Cán bộ làm công tác khuyến nông chưa phát huy hết vai trò trong việc

chuyển giao khoa học – công nghệ và hướng dẫn theo kiểu “ cầm tay chỉ việc” để

70

các chủ trang trại và người lao động nhanh chóng áp dụng những phương pháp canh

tác, phương thức sản xuất mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, qua

đó phát huy cao hiệu quả của nguồn vốn ngân sách nhà nước hổ trợ.

- Về cơ sở pháp lý

Hiện nay tại huyện Quảng Ninh, chủ trang trại thưởng chỉ được xem như là

một chủ hộ nông dân bình thường, trong khi quy mô sản xuất của trang trại lớn hơn

nhiều lần so với nông hộ, nhất là về vốn đầu tư. Chính vì vậy các trang trại chưa

được chính quyền sở tại thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư cách pháp nhân

trong quan hệ giao dịch với cơ quan công quyền và các tổ chức kinh tế, nhất là với

các tổ chức tín dụng.

2.3.3.2 Nguyên nhân từ bản thân các trang trại

- Về vốn sản xuất kinh doanh.

Hiện nay nhu cầu về vốn của các trang trại là rất lớn, có khoảng 90% các chủ

trang trại có nhu cầu vay vốn với mức bình quân từ 40 – 50 triệu đồng/năm/trang

trại để đầu tư phát triển hoạt động của trang trại, nhưng khả năng tự thân của các

trang trại còn nhiều hạn chế. Thiếu vốn các chủ trang trại không thể đầu tư phát

triển theo chiều sâu. Nhiều trang trại theo cách làm của mình là đầu tư rải đều, kết

hợp trồng cây lâu năm với trồng xen cây ngắn ngày và chăn nuôi để lấy ngắn nuôi

dài, tạo tích lũy dần để đầu tư mở rộng qui mô diện tích, qui mô sản xuất. Một số

trang trại phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hoặc sang nhượng, cho thuê

bớt diện tích, hoặc bỏ hoang để tập trung đầu tư kỹ thuật, nâng cao chất lượng cho

phần diện tích còn lại,... đã dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh trong các trang trại

chưa cao.

- Về lao động trong các trang trại.

Thực tế cho thấy thành phần của chủ trang trại chủ yếu là nông dân, tuy có

nhiều kinh nghiệm thực tế nhưng thiếu kiến thức kỹ thuật, thiếu kiến thức tổ chức,

quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa quy

mô lớn trong nền kinh tế thị trường.Về lao động sản xuất chủ yếu bao gồm lao động

gia đình và lao động làm thuê. Đối với số lao động này, phần lớn là lao động phổ

71

thông, số ít có kinh nghiệm thực tiễn nhưng thiếu kiến thức về kỹ thuật chuyên môn.

- Về khả năng tiếp cận thị trường.

Đa số các trang trại cho rằng không gặp nhiều khó khăn trong việc mua các yếu

tố đầu vào, đặc biệt là việc tìm mua vật tư nông nghiệp, thuê lao động và mua máy móc

thiết bị phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, các trang trại gặp nhiều khó khăn trong việc bán

các sản phẩm ( tìm thị trường đầu ra khó, giá cả nông sản chưa ổn định), đây là nhân tố

quan trọng ảnh hưởng tới khâu thu tiền về của cả trang trại sau một chu kỳ sản xuất.

Điều này cũng là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều chủ trang trại không muốn mở rộng

quy mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai, lao động vẫn còn.

- Về khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ trong sản xuất.

Đối với hầu hết các trang trại nông lâm hiện nay, trình độ quản lý của chủ

trang trại còn nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, việc áp dụng

khoa học – công nghệ vào sản xuất còn khiêm tốn, nhiều ứng dụng chưa mang tính

đặc thù riêng cho từng vùng sinh thái, thiếu chon lọc nên chưa đem lại hiệu quả cao.

Công nghệ chế biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa được đầu tư. Hầu hết

lao động làm thuê cho các trang trại thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật, chưa

được đào tạo qua các trường lớp.

2.3.4 Một số bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại

- Một là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo,

quản lý, có chương trình hành động cụ thể, có những định hướng, có quy hoạch,

chính sách hỗ trợ cho các loại hình trang trại phát triển.

- Hai là, thống nhất nhận thức về tính chất, vị trí và xu hướng phát triển của

kinh tế trang trại, thực hiện đồng bộ các chính sách, tăng cường công tác kiểm tra,

đôn đốc, xây dựng và nhân rộng các điển hình, mô hình tiên tiến.

- Ba là, coi trọng phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế trang trại, cần có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chủ trang trại và lao động trong nông

72

nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Nội dung chương 2 của luận văn đi sâu vào phân tích thực trạng phát triển

kinh tế trang trại ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Tác giả đã khái quát, phân

tích những đặc điểm về tự nhiên, điều kiện xã hội, lao động, điểu kiện kinh tế như

tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ sở hạ tầng của huyện ... ảnh hưởng

đến việc phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn như thế nào.

Đồng thời tác giả cũng tiếp cận thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở

huyện Quảng Ninh thông qua việc phân tích các số liệu thu thập được của các mô

hình trang trại có trên địa bàn huyện như trang trại trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản,

lâm nghiệp, tổng hợp. Qua phân tích, tác giả hiểu được thực trạng phát triển kinh tế

trang trại hiện nay đến đâu cũng như những ưu điểm và hạn chế của từng mô hình

trang trại. Trên cơ sở đó, tác giả sẽ tổng hợp, xâu chuỗi, so sánh giữa lý luận và thực

tiễn nhằm đưa ra các quan điểm, mục tiêu, phương hướng để đưa ra các giải pháp

73

góp phần phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quảng Ninh trong chương 3.

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

Ở HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. CÁC CĂN CỨ TIỀN ĐỀ ĐỂ XÂY DỰNG GIẢI PHÁP

3.1.1. Xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam

Xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam hiện nay là phát triển Kinh

tế trang trại gắn với xây dựng nông thôn mới.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương

trình được triển khai trên địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước nhằm phát triển nông

thôn toàn diện, bao gồm nhiều nội dung liên quan đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế,

văn hóa, xã hội, môi trường, hệ thống chính trị cơ sở. Tuy nhiên, mục tiêu chủ yếu và

xuyên suốt là nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người

dân nông thôn. Như vậy, vấn đề đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất

nói chung và các mô hình kinh tế trang trại nói riêng có hiệu quả ở nông thôn là 1

trong 19 tiêu chí để xem xét, đánh giá xã đạt chuẩn nông thôn mới theo quy định.

Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, vai trò của các hình thức tổ

chức kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn nói chung và các mô hình KTTT

nói riêng đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nâng

cao thu nhập cho người dân nông thôn. Tuy nhiên với thực trạng những năm vừa

qua, để đưa hoạt động của các mô hình KTTT đi vào chiều sâu và phát triển

đúng hướng, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới, cần có sự

nhìn nhận đầy đủ hơn, đồng thời có những bước đi, giải pháp phù hợp để các mô

hình KTTT ngày càng phát triển hiệu quả và bền vững.

3.1.2. Một số quan điểm có tính nguyên tắc khi xây dựng giải pháp.

3.1.2.1 Phát triển kinh tế trang trại gắn với thu hút lao động nông thôn, giải

quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người dân

Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn chính là quá trình huy động các

74

nguồn lực vào sản xuất, các nguồn lực phải được khai thác một cách tốt hơn, có

hiệu quả hơn, vì mục tiêu là thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao thu nhập và đời

sống không chỉ của chủ trang trại mà của cả lao động trong vùng.

Trong quá trình xây dựng và phát triển mô hình kinh tế này phải chú ý phát

triển cả về số lượng lẫn chất lượng, trong đó chất lượng là then chốt, chọn lọc phát

triển các mô hình sản xuất có hiệu quả tránh tình trạng chay theo số lượng mà hiệu

quả của sản xuất đem lại không cao.

3.1.2.2 Phát triển KTTT gắn với xây dựng nền nông nghiệp bền vững

Phát triển nền nông nghiệp bền vững nhằm đáp ứng được các nhu cầu hiện

tại mà không làm tổn thương đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai.

Phát triển bền vững nông nghiệp được khái quát bằng các đặc điểm:

Thỏa mãn các nhu cầu của con người về nông sản phẩm.

Có khả năng thích ứng ngày càng cao và ứng dụng ngày càng nhiều các tiến

bộ khoa học kỹ thuật.

Đảm bảo môi trường sông và môi trường tự nhiên không bị phá hủy.

3.1.2.3 Phát triển kinh tế trang trại đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái

Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nhiều nơi trên đất nước ta cũng như ở

huyện Quảng Ninh cho thấy con người đã khai thác các nguồn tài nguyên, điều kiện

tự nhiên không theo quy luật, thậm chí tàn phá, đã làm tổn thương các nguồn lực,

các tiềm năng vốn có. Điều này đã và đang dẫn đến sự suy giảm kết quả và hiệu quả

sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Muốn phát triển sản xuất

ổn định, lâu dài phải chú ý đến việc bảo vệ và cải thiện các nguồn lực này.

3.1.2.4 Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển

Xác định mục tiêu phù hợp với từng loại hình trang trại, nâng cao chất lượng,

lấy trang trại thủy sản, tổng hợp, chăn nuôi làm đột phá về hiệu qủa kinh tế; đề cao

mục tiêu bảo vệ môi trường.

Phát triển kinh tế trang trại gắn với quy hoạch tổng thể phát triển nông lâm

nghiệp, thuỷ sản và quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo hướng chuyển dịch cơ

75

cấu kinh tế nông nghiệp và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.

Tập trung nâng cao chất lượng các trang trại đã có; phát triển mới số lượng

trang trại hợp lý ở các vùng; đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh của trang trại

theo hướng tập trung, chuyên môn hoá, phát huy tiềm năng, lợi thế của mỗi vùng; chú

trọng khai thác vùng gò đồi và vùng cát ven biển.

Phát triển kinh tế trang trại có sự quản lý của Nhà nước, gắn phát triển kinh

tế trang trại với thực hiện đồng bộ các cơ chế chính sách, nhằm huy động mọi

nguồn lực để phát triển hiệu quả, bền vững, tạo việc làm, góp phần xoá đói giảm

nghèo, ổn định sản xuất, ổn định dân cư và bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần

thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây

dựng nông thôn mới.

Phương châm chất lượng hiệu quả và bền vững trong phát triển kinh tế trang

trại bao gồm cả kinh tế, xã hội và môi trường; nâng cao chất lượng nông sản có ý

nghĩa quyết định sự tồn tại và bền vững.

3.2 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG THỜI

GIAN TỚI

- Phát triển kinh tế trang trại phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh

tế - xã hội và các loại quy hoạch khác, bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi

trường sinh thái. Đẩy mạnh chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại

quy mô lớn nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng sinh thái, thích ứng với

biến đổi khí hậu.

- Thúc đẩy trang trại chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ và quy trình

sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu

cơ, công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Chuyển mạnh từ sản xuất số lượng

sang chất lượng, hiệu quả có giá trị kinh tế cao.

- Phát triển trang trại gắn với phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ du lịch

sinh thái. Chuyển mạnh từ sản xuất trang trại riêng lẻ sang mô hình sản xuất hợp

tác, liên doanh, liên kết, tập trung, quy mô lớn gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm

76

theo chuỗi giá trị.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước, đồng thời có các chính sách đủ

mạnh về phát triển kinh tế trang trại để các trang trại mạnh dạn đầu tư phát triển

đúng hướng, hiệu quả, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.

3.3 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG THỜI

GIAN TỚI.

3.3.1. Mục tiêu chung

- Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, giá trị sản xuất của các trang trại.

Tập trung phát triển trang trại ở vùng gò đồi, vùng cát ven biển. Đa dạng các loại

hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trang trại nhằm nâng cao thu nhập cho người

lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

- Ứng dụng phải khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất, kinh doanh

theo chuỗi giá trị, gắn liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm đảm bảo hiệu quả,

bền vững. Phát triển trang trại nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao.

3.3.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2022

- Giá trị sản xuất của trang trại chiếm 8,5% giá trị sản xuất của ngành

nông nghiệp.

- Trên 70% trang trại tham gia các hình thức liên kết sản xuất, đăng ký nhãn

hiệu; 10% trang trại xây dựng thương hiệu hàng hóa.

- Có 60% trang trại sản xuất theo hướng nông nghiệp sạch, nông nghiệp

hữu cơ gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; trong đó có 10% trang trại

ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao.

- Có 80% chủ trang trại được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức

chuyên ngành và quản lý trang trại.

3.4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN

QUẢNG NINH

3.4.1 Giải pháp phát triển số lượng trang trại.

Phải tận dụng các lợi thế từ điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, các tập

quán tâm lý, xã hội của từng khu vực dân cư và lợi thế so sánh của từng vùng để

77

gia tăng số lượng các trang trại

- Đối với vùng đồng bằng.

Phát triển các trang trại chăn nuôi, trang trại rau, hoa, cây cảnh nhằm phục

vụ nhu cầu đa dạng của dân cư trong tiến trình đô thị hóa

- Đối với vùng ven biển, sông ngòi.

Chú trọng phát triển các trang trại nuôi trồng thủy sản với các loại hình trang

trại như nuối cá lồng, cá nước ngọt, phát triển các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.

- Đối với vùng gò đồi, miền núi

Phát triển mạnh trang trại chăn nuôi gia cầm, gia súc, các trang trại kinh

doanh tổng hợp, nông lâm kết hợp nhằm tạo việc làm và thu nhập thường xuyên,

cũng như tận dụng được sức sản xuất của đất đai.

Trong những năm đến, trang trại hộ nông dân vẫn chiếm ưu thế trong phát

triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện, trong bối cảnh những điều kiện về vốn, kỹ

thuật còn hạn chế. Vì vậy, Nhà nước cần tìm những hình thức tư vấn phù hợp cho các

chủ trang trại về ứng dụng công nghệ sinh học, quản trị sản xuất kinh doanh phân tích

hoạt động tài chính, ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là cần hình

thành quan niệm tư duy tiến bộ về hoạt động kinh doanh trong kinh tế nông nghiệp,

góp phần hình thành đội ngũ doanh nhân mới hoạt động trong lĩnh vực kinh tế trang

trại, qua đó phát triển được số lượng các trang trại mới trên địa bàn huyện.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần chỉ đạo các phòng ban liên quan tiến hành rà soát

lại các mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông lâm theo tiêu chí

xác định trang trại tại thông tư 27/2011/TT Bộ NNPTNT của Bộ Nông Nghiệp và

Phát Triển Nông Thôn, qua đó hổ trợ chuyển các nông hộ có quy mộ cận tiêu chí

trang trại lên loại hình trang trại để chủ hộ có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất

kinh doanh trong lĩnh vực đang hoạt động.

3.4.2 Giải pháp gia tăng các yếu tố nguồn lực

3.4.2.1 Giải pháp về đất đai

Đất đai có vị trí hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Đây là mối quan tâm

lo lắng của những người làm kinh tế trang trại trên địa bàn Huyện trong những năm

qua. Vì vậy, chính sách đất đai của Huyện thời gian đến cần dựa trên cơ sở khuyến

78

khích phát triển, bằng cách:

- Hoàn chỉnh quy hoạch đất đai.

Huyện cần quy hoạch khoanh vùng, lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù

hợp với từng vùng sinh thái, đặc điểm tự nhiên của huyện và từng xã.

+ Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500 - 750 m, mật độ dân cư

thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Mặt khác, phần

lớn diện tích vùng núi đều đã giao cho các lâm trường, do đó trên cơ sở diện tích

1.660 ha đất đồi núi chưa sử dụng ở xã Trường Sơn (trong đó: 1.205 ha xã đang

quản lý ngoài ranh giới lâm trường và 455 ha ban quản lý rừng phòng hộ Long Đại

thống nhất bàn giao), huyện cần có quy hoạch bố trí sản xuất cho phù hợp. Về cơ

bản mô hình trang trại ở vùng này là trang trại nông - lâm kết hợp.

+ Đối với vùng gò đồi: Bao gồm diện tích 6 xã dọc đường Hồ Chí Minh

(nhánh phía Đông) và xã Trường Xuân với chức năng vừa phòng hộ, vừa khai thác

kinh tế nên các thành phần trong mô hình kinh tế trang trại ở đây có thể kết hợp

nông - lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây công nghiệp (cao

su, thông, bạch đàn, keo...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu,

bò, dê, lợn).

+ Đối với vùng cát ven biển: Xây dựng các mô hình kinh tế trang trại chăn

nuôi tập trung, trồng rau, hoa, trồng rừng kinh tế kết hợp với chăn nuôi đại gia súc,

trang trại nuôi trồng thủy sản. Mô hình phát triển chủ yếu là trang trại tổng hợp:

Trồng rừng kinh tế, kết hợp chăn nuôi lợn tập trung theo phương pháp công nghiệp;

hoặc trồng rừng kết hợp chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò...) và nuôi trồng thủy sản.

- Đẩy nhanh quá trình tập trung đất đai

Để đẩy nhanh quá trình tập trung đất phục vụ phát triển kinh tế trang trại ở

huyện Quảng Ninh, ngoài việc thực hiện dồn điền, đổi thửa còn phải giải quyết vấn

đề chuyển nhượng, cho thuê ruộng đất ở nông thôn. Việc chấp nhận và tạo điều kiện

thuận lợi trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho phép những người có

điều kiện vốn liếng, kỹ thuật tích tụ ruộng đất phát triển sản xuất trang trại. Tuy

nhiên, quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần phải tăng cường công tác

quản lý của Nhà nước, triệt tiêu tư tưởng đầu cơ, bao chiếm đất đai vì nó gây nên sự

79

bất ổn trong giá cả chuyển nhượng và không mang lại hiệu quả cho sản xuất.

3.4.2.2 Giải pháp về lao động và nguồn lực

UBND huyện cần chỉ đạo cho các ban ngành liên quan sử dụng nguồn vốn

ngân sách để xây dựng chương trình nâng cao năng lực quản lý cho chủ trang trại và

nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động bằng cách kết với các Trung Tâm

Khuyến Nông, khuyến lâm, các Trung tâm dạy nghề tổ chức các lớp đào tạo, bồi

dưỡng cho các chủ trang trại những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức

và quản lý sản xuất, về cách tiếp cận với kinh tế thị trường, tiếp cận với khoa học kỹ

thuật, công nghiệp mới,… Đồng thời đối với những người lao động trong các trang

trại cũng phải được huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo trở thành những lao động có kỹ

thuật và tay nghề vững vàng. Các lớp học nên mở với thời gian ngắn hạn, buổi học

nên trình bày súc tích, ngắn gọn, tập trung vào nội dung chính, tăng kinh nghiệm

thực tế bằng cách mời những chủ trang trại thành đạt đến luận, giải đáp những thắc

mắc với tinh thần “cầm tay, chỉ việc”. Đồng thời, khuyến khích những người có

chuyên môn, tay nghề cao trong các trang trại tự đào tạo nghề cho lao động trang

trại mình, khuyến khích thành lập các câu lạc bộ, hiệp hội để các chủ trang trại có

điều kiện trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau.

Nên tổ chức thị trường lao động ở nông thôn bằng cách thông qua các đoàn

thể xã hội như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, bộ phận quản lý lao động ở các xã, thị

trấn,… để làm nơi cung cấp về việc làm. Từ đó, tạo thuận lợi cho người lao động và

chủ trang trại trong việc tìm kiếm việc làm và thuê mướn lao động, nhất là vào giai

đoạn cao điểm như mùa thu hoạch.

3.4.2.3 Giải pháp về vốn

Trên thực tế vốn tự có của các trang trại vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng

vốn đầu tư. Vì vậy, bản thân các chủ trang trại cần có những định hướng riêng để

giải quyết vấn đề về vốn của mình theo phương thức “ lấy ngắn nuôi dài” bằng cách

trồng thêm những cây ngắn ngày, hoặc chăn nuôi gia súc gia cầm, từ đó tích lũy vốn

đầu tư mở rộng sản xuất.

Chủ trang trại có thể hợp tác trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho

sản xuất như: thủy lợi, giao thông nội đồng, sơ chế, chế biến, bảo quản nông

80

sản,…để giảm bớt áp lực về vốn.

Hình thành tổ chức tương trợ về vốn gồm 10-15 trang trại cùng đóng góp xây

dựng một quỹ chung trích ra từ mỗi vụ thu hoạch, khi trang trại nào có nhu cầu thì

có thể vay mượn quỹ chung này.

Cải tiến quan hệ giao dịch vay vốn giữa ngân hàng cho vay và chủ trang trại,

làm sao để chủ trang trại có thể vay vốn không cần thế chấp tại ngân hàng theo quy

định của chính phủ. Nên kiểm tra lại phương thức cho vay, trang thủ tục phiền hà,

cung cấp tín dụng với lãi xuất ưu đãi cho các trang trại mới thành lập.

Xây dựng mô hình quan hệ giữa chủ trang trại, công ty chế biến, thương mại

và ngân hàng nông nghiệp. Đây là hình thức cung cấp giống, phân bón gắn với cho

vay vốn sản xuất dựa trên cơ sở xác lập mối quan hệ kinh tế giữa ba đối tác có tính

chất pháp lý. Mối quan hệ đó là:

- Quan hệ giữa Công ty và trang trại là quan hệ cung ứng giống, vật tư và

tiêu thụ sản phẩm cho trang trại.

- Quan hệ giữa Ngân hàng nông nghiệp và trang trại là quan hệ tín dụng,

Ngân hàng ký khế ước cho trang trại vay vốn sản xuất và khi hết hạn vay các trang

trại có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo khế ước đã ký.

- Quan hệ giữa Ngân hàng và Công ty là mối quan hệ thanh toán cho Công ty

giá trị vật tư, giống theo hóa đơn giao hàng khi cung cấp cho trang trại với giá phù hợp.

3.4.2.4 Giải pháp về khoa học công nghệ

Các phòng ban chuyên môn trên địa bàn huyện cần có cơ chế thích hợp trong

việc thực hiện chuyển giao các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới phù hợp

cho trang trại, thúc đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ

trường của Đảng và Nhà nước.

Chính quyền huyện tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ các chủ trang trại mạnh

dạn đầu tư nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản

xuất nông, lâm nghiệp, tăng năng suất và chất lượng giống cây trồng, vật nuôi. Tăng

cường công tác kỹ thuật phục vụ sản xuất, phục vụ các trang trại như khuyến nông,

bảo vệ thực vật, thú y…để thực hiện việc hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật nông

81

nghiệp, phòng trừ sâu bệnh, phục vụ tưới tiêu…đến các trang trại.

Nhà nước đóng vai trò chủ động trong việc xây dựng mối liên kết, hợp đồng

giữa các trang trại với nhà khoa học trong việc nghiên cứu, chế tạo máy móc thiết

bị, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu lai tạo giống cây trồng, hướng dẫn kỹ thuật

canh tác cho chủ trang trại và người lao động làm việc trong các trang trại, nhờ đó

làm tăng năng suất, tăng hàm lượng chất xám trong các sản phẩm do các trang trại

của huyện làm ra. Ngược lại, các trang trại tạo môi trường cho nhà khoa học nghiên

cứu và thực nghiệm. Mối liên kết này được thực hiện thông qua hợp đồng nghiên

cứu, chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến vào sản xuất trong

các trang trại mà chính quyền huyện phải làm vai trò trung gian.

Song song với việc tuyên truyền đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học –

kỹ thuật vào phát triển kinh tế trang trại, nhà nước cũng cần đẩy mạnh việc triển

khai công nghệ sau thu hoạch, quy hoạch công nghệ chế biến. Quy hoạch, xây dựng

các cơ sở giết mổ chế biến sản phẩm gia súc, gia cầm xa các khu vực đông dân, thị

trấn và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh môi trường. Chọn hướng phát triển công

nghệ chế biến ở những vùng trọng điểm, vùng đã hình thành khu chuyên canh

nguyên liệu nông sản.

3.4.3 Giải pháp tăng cường liên kết sản xuất các trang trại

Hình thành các trang trại theo mô hình liên kết giữa trang trại với nông dân.

Đây là một hình thức liên kết mà một trang trại có uy tín tiến hành ký hợp đồng cam

kết với các hộ nông dân trong vùng về việc sử dụng ruộng đất theo kế hoạch sản

xuất chung, việc tiến hành canh tác vẫn giao cho các hộ gia đình thực hiện. Tùy

theo quy mô và trình độ sản xuất, các trang trại có được mở rộng sang trang trại

cung ứng giống, chuyển giao kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và

tổ chức tiêu thụ cho nông dân.

Các trang trại trong cùng lĩnh vực phải liên kết và hợp tác với nhau, bên cạnh

việc tìm kiếm hợp tác với những tổ chức kinh tế khác, nhắm chia sẻ kinh nghiệm

sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.

Một hình thức hợp tác, liên kết tiêu biểu và đem lại hiệu quả cao là chương

trình liên kết “ 4 nhà” giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông

82

là tiêu biểu nhất.

Chính quyền huyện liên hệ, tìm kiếm doanh nghiệp có thể hổ trợ đầu vào cho

nông dân sản xuất, bao tiêu sản phẩm đầu ra. Chính quyền quy hoạch, hướng dẫn

người nông dân sản xuất cây, con để đảm bảo số lượng, chất lượng yêu cầu. Huyện

hướng dẫn nhân dân thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác hoặc các hợp tác xã, cử ra

ban đại diện cùng với chính quyền làm việc với doanh nghiệp thống nhất giá cả

hoặc những vấn đề khó khăn, phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng

thời, chính quyền tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đúng hợp đồng để giữ

uy tín, duy trì niềm tin đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, chính quyền có thể dần một

lượng vốn ngân sách hổ trợ nhân dân sản xuất vụ mùa sau nếu vụ mùa trước doanh

nghiệp khó khăn trong việc thu mua vì nhu cầu thị trường.

3.4.4 Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của các trang trại

Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng và phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì mọi thành phần kinh tế, kể cả

kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông lâm, thủy sản đều phải chịu sự chi phối bởi

các quy luật kinh tế của thị trường như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu… Vì

vậy, các trang trại trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản phải đổi mới tư duy và nhận

thức đúng vai trò của kinh tế trang trại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa; tức là phải nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa, từ đó mới nâng

cao được sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản.

Nhà nước hỗ trợ thành lập các liên kết sản xuất, thu mua và chế biến, tiêu thụ

sản phẩm, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của trang trại,

tại cụm trang trại đầu mối. Tăng cường hỗ trợ trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ

nông lâm sản hàng hóa, phát triển sản xuất theo các hợp đồng, theo chuỗi giá trị

ngành hàng nông sản. Xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

Dự báo thị trường, hỗ trợ cung cấp thông tin thương mại, kỹ thuật, các

chương trình xúc tiến thương mại; được ưu tiên mời tham dự các hội thảo về

thương mại, dự báo thị trường, dịch vụ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất

83

trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ tổng hợp trong nông nghiệp.

Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đầu

tư mở rộng kho bãi, tăng khả năng thu mua, dự trữ sản phẩm để bình ổn giá; đầu

tư xây dựng các cơ sở chế biến có công nghệ tiên tiến...

Các chủ trang trại tổ chức sản xuất dựa vào nhu cầu của doanh nghiệp chế

biến, thị hiếu của người tiêu dùng. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,

hạ giá thành nâng cao tính cạnh tranh sản phẩm của trang trại.

- Đối với huyện Quảng Ninh:

Cần đảm bảo yếu tố đầu vào qua ký kết hợp đồng, cung ứng một cách kịp

thời với giá cả thoả đáng, tránh tư thương xen vào ép giá, nhằm tăng khả năng cạnh

tranh của trang trại.

Xúc tiến tìm kiếm và giới thiệu thị trường, giá cả nông sản phẩm trong và

ngoài nước cho các trang trại, tránh tình trạng ép giá của tư thương ở địa phương.

Tổ chức các hội chợ nông sản để buôn bán sản phẩm nông sản của trang trại.

- Đối với chủ trang trại:

Tổ chức sản xuất dựa vào nhu cầu, thị hiếu của khách hang, của người tiêu

dung. Ký kết các hợp đồng tiêu thụ với khách hàng.

Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nâng cao tính

cạnh tranh các sản phẩm của trang trại.

Sản xuất kinh doanh của trang trại gắn liền với quá trình chế biến và tiêu thụ

sản phẩm bằng cách ký kết hợp đồng hợp tác với các công ty chế biến – thương mại

3.4.5 Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho từng loại hình

trang trại

3.4.5.1 Đối với trang trại trồng trọt

Loại trang trại này chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng số trang trại của

huyện, trang trại trồng cây hàng năm chủ yếu trồng các loại cây lương thực, cây

thực phẩm và trang trại trồng cây lâu năm chủ yếu trồng hồ tiêu, cao su. Muốn các

trang trại trồng trọt đạt năng suất và chất lượng cao thì yếu tố đầu tiên cần chú trọng

là đất và nguồn nước. Vì vậy cần đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

84

phục vụ cho sản xuất và chế biến sản phẩm trang trại trồng trọt bao gồm:

- Thuỷ lợi: trên cơ sở qui hoạch, phát triển và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi

đồng bộ, nâng cao diện tích chủ động tưới và chủ động tiêu tiến tới tưới tiêu theo

yêu cầu phát triển của các loại cây trồng trước hết là đối với những vùng có trình độ

chuyên môn hoá cao. Đi liền với thuỷ lợi phải thực hiện tốt dự báo khí tượng, thuỷ

văn, thực hiện phòng chống lụt bão có hiệu quả.

- Mở rộng diện tích gieo trồng giống mới với cơ cấu hợp lý.

- Phân bón - yếu tố quyết định đến năng suất cây trồng, cần phải đẩy mạnh sản

xuất phân bón, nhất là phân hữu cơ, phân vi sinh, đồng thời sử dụng hợp lý phân bón.

- Phát triển hệ thống giao thông bao gồm cả hệ thống giao thông nông thôn

và giao thông nội đồng đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ giới hoá và vận chuyển

hàng hoá.

- Coi trọng công nghệ chế biến bảo quản sản phẩm thu hoạch để nâng cao

chất lượng và giá trị sản phẩm.

- Thực hiện trồng xen cây hàng năm như sắn, dứa.. với các cây lâu năm mới

trồng chưa đến thời kỳ thu hoạch để tận dụng diện tích và cũng coi như là lấy ngắn

nuôi dài.

- Thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh chú ý biện pháp thủy

lợi, giống, phân bón, đảm bảo về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu.

- Làm tốt công tác khuyến nông, nhằm chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới

cho người sản xuất. Đối với địa hình xã Võ Ninh, Gia Ninh là nơi có diện tích đất

cát tự nhiên rất lớn, loại đất này giá trị dinh dưỡng cao rất phù hợp với các loại cây

rau màu, cây thực phẩm nên huyện cần tập trung chỉ đạo và chuyển giao kỹ thuật

trồng rau, hoa cho các xã này. Còn đối với loại địa hình đồi núi như ở xã Trường

Xuân, An Ninh, Vạn Ninh, Vĩnh Ninh thì phù hợp cho các loại cây lâu năm có khả

năng chịu hạn cao như hồ tiêu, cao su nên cần tich cực khuyến khích các hộ nông

dân, các chủ trang trại hiện có ở những vùng này gia tăng diện tích canh tác nâng

cao năng suất cây trồng.

- Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế khuyến khích phát triển ngành trồng

85

trọt như: chính sách giá cả, thị trường chính sách vốn, chính sách đấy đai...

- Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước,

hợp tác xã, hộ gia đình và trang trại, liên kết chặt chẽ các hình thức tổ chức sản

xuất để đẩy nhanh quá trình sản xuất hàng hoá trong trang trại trồng trọt.

3.4.5.2 Đối với trang trại chăn nuôi

Loại trang trại này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số trang trại của huyện.

Hướng tập trung phát triển đàn gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt...). Tiếp

tục thực hiện chương trình cải tạo đàn bò lai, đưa giống lợn lai siêu nạc, lai kinh tế,

giống gà siêu thịt, vịt siêu trứng vào chăn nuôi.

* Chăn nuôi trâu, bò:

- Tập trung đầu tư cải tạo đàn bò địa phương theo hướng Zêbu hóa, tăng

nhanh số bò lai. Đẩy nhanh công tác lai tạo đàn bò bằng cả hai phương pháp: Thụ

tinh nhân tạo và nhảy trực tiếp. Quy hoạch lại vùng thụ tinh nhân tạo và vùng nhảy

trực tiếp cho phù hợp trên địa bàn toàn huyện.

- Khuyến khích các hộ trồng cỏ nuôi bò nhốt để từng bước hình thành và

phát triển phương thức chăn nuôi bò thâm canh, bán thâm canh. Khuyến khích phát

triển bò trang trại ở các xã vùng đồi núi có tiềm năng, lợi thế.

- Mở các lớp tập huấn, tham quan học tập, nâng cao trình độ kiến thức chăn

nuôi bò thâm canh cho người dân.

* Chăn nuôi lợn:

- Có chính sách khuyến khích hỗ trợ các hộ chăn nuôi trang trại phát triển để

làm hạt nhân tạo con giống ổn định và có chất lượng cung cấp cho thị trường trong

và ngoài huyện.

- Quy hoạch vùng chăn nuôi lợn nái ngoại gồm xã: Vĩnh Ninh, Gia Ninh, An

Ninh và Xuân Ninh.

* Đối với chăn nuôi gia cầm, thủy cầm:

Gắn việc phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch H5N1 trong những

năm tới với việc phát triển đàn thủy cầm theo hướng:

- Nâng cao chất lượng đàn gia cầm, thủy cầm bằng cách nhập các giống mới

86

có tiềm năng để thay thế giống địa phương.

- Khuyến khích phát triển chăn nuôi ngỗng, ngan Pháp... Hình thành các

trang trại chăn nuôi vịt ở các xã An Ninh, Vạn Ninh, Gia Ninh, Tân Ninh và trang

trại chăn nuôi gà ở các xã dọc đường Hồ Chí Minh, Hải Ninh.

- Đưa vào thử nghiệm các đối tượng nuôi mới để lựa chọn vật nuôi phù hợp.

Đưa các quy trình kỹ thuật mới, xây dựng các mô hình nuôi gà an toàn sinh học và

nhân rộng trên địa bàn huyện.

- Quy hoạch khu chăn nuôi tập trung ở các xã phía Tây huyện xa dân cư.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất theo hướng khép kín.

- Cần nuôi các loại gia súc gia cầm theo nhu cầu thị trường lâu dài.

3.4.5.3 Đối với trang trại tổng hợp

Đây là loại hình trang trại đang được đánh giá có thu nhập ổn định, rủi ro

thấp nhất hiện nay ở huyện Quảng Ninh, tuy nhiên chi phí vẫn chiếm tỷ trọng khá

cao trong doanh thu. Điểm mạnh của loại hình này chính là các mô hình VAC hoặc

VACR. Để trong những năm tới, loại hình trang trại tổng hợp phát triển mạnh, cần

thực hiện triệt để các vấn đề sau:

Mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng tỷ trọng hàng hoá, ưu tiên trồng

các loại cây đặc sản trên đất nông nghiệp như rau thực phẩm, rau an toàn (phát triển

mạnh ở xã Võ Ninh).

Đối với chăn nuôi lợn và gia cầm, cần có biện pháp đảm bảo vệ sinh chuồng

trại, thực hiện mô hình BIOGAS nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhất là loại

hình trang trại này đang được phát triển mạnh ở những khu vực trung tâm và đông

dân cư sinh sống của huyện.

3.4.6 Giải pháp tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với KTTT

- Nhà nước tăng cường khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại.

Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất,

cho thuê đất,cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật

để sảnxuất kinh doanh.

- Nhà nước nên đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có

87

hiệu quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng

khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt

nước eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh

với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển

kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và

thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho

thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất,quản lý, có yêu

cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản

xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.

- Nhà nước cần thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của

hộ nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở

rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông

dân,các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và

doanhnghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng

hợpcho nông nghiệp, nông thôn phát triển.

- Nhà nước phải hỗ trợ về vốn, KH-CN, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây

dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bềnvững.

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành

mạnh, có hiệu quả.

- Sáng tạo, không ngừng đổi mới, vượt qua những khó khăn, chịu khó học

hỏi kinh nghiệm và các kiến thức khoa học kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất kinh

doanh, đặc biệt là phải có khả năng và ý chí làm giàu hơn những người khác trong

những điều kiện cho phép. Bên cạnh đó, cần phải ý thức gìn giữ môi trường sinh

88

thái trong sạch để hướng tới một nền nông nghiệp sản xuất nông sản sạch, an toàn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Tại chương 3, trên cơ sở đi sâu phân tích giữa lý luận và thực trạng phát triển

kinh tế trang trại trong những năm qua và trên cơ sở các dự báo phát triển kinh tế -

xã hội của huyện Quảng Ninh trong những năm đến, tác giả đã đề xuất một số giải

pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại tập trung vào một số nội dung như sau:

Đầu tiên, phát triển số lượng trang trại vì hiện nay số trang trại trên địa bàn

còn quá ít. Tiếp theo, phải gia tăng các yếu tố nguồn lực như đất đai, vốn, KH-KT,

lao động...và quan trọng hơn cả là cần quan tâm đến thị trường tiêu thụ các sản

phẩm mà trang trại sản xuất ra. Từ đó cần thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải

pháp thì sẽ tăng hiệu quả kinh tế cho các mô hình trang trại, cải thiện thu nhập cho

người lao động, nâng cao đời sống người dân, góp phần quan trọng trong sự

89

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội huyện Quảng Ninh.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Kinh tế trang trại là xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế nông hộ sản xuất

hàng hoá trên thế giới và ở Việt Nam. Đây là loại hình sản xuất đã trải qua một quá

trình lịch sử lâu dài và phát triển theo quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hoá

trong lĩnh vực sản xuất nông – lâm nghiệp.

Kinh tế trang trại ở Quảng Ninh cũng mới chỉ xuất hiện trong mấy năm gần

đây, số lượng, cơ cấu loại hình có sự thay đổi do các nguyên nhân khác nhau, cả

khách quan và nguyên nhân phía trang trại. Số lượng trang trại giảm, nhưng cơ cấu

loại hình lại dịch chuyển theo hướng tích cực: phát triển mạnh các loại hình trang

trại như chăn nuôi, sản xuất kinh doanh tổng hợp và trang trại thuỷ sản dựa trên

điều kiện tự nhiên đã đang phát triển mạnh.

Kết quả sản xuất của các trang trại trong những năm qua của Quảng Ninh phản

ánh trình độ phát triển và quy mô mới ở dạng dưới trung bình của toàn quốc. Hiệu

quả sản xuất kinh doanh còn chưa cao. Còn có nhiều sự khác biệt giữa các loại hình

trang trại, giữa các vùng sinh thái với nhau. Các trang trại khu vực trung tâm do điều

kiện thuận lợi về giao thông, gần thị trường nên tồng giá trị sản xuất cao hơn hẳn các

trang trại ở vùng khác. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp và trang trại chăn

nuôi có kết quả sản xuất tính trên một năm cao hơn các loại hình khác.

Phát triển kinh tế trang trại ở Quảng Ninh, con đường xoá đói, giảm nghèo,

nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc

thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa và các xã thuộc chương trình 135 để tạo ra cách

làm ăn mới trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, góp phần thực

hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Huyện.

Kinh tế trang trại phát triển không những đem lại nguồn thu cho chủ trang

trại mà còn có những đóng góp đàng kể về nhiều mặt như: kinh tế - xã hội và môi

trường. Cụ thể, các trang trại hàng năm đòng góp cho việc nâng cao hệ thống cơ sở

hạ tầng nông thôn như: đường liên thôn, kênh mương thuỷ lợi, điện, nhà văn hoá;

90

hàng năm giải quyết cho gần 800 lao động thường xuyên và lao động thời vụ, tăng

thu nhập cho các hộ nghèo; giải quyết được lượng vốn tồn động trong dân để đầu tư

cho sản xuất. Hệ thống trang trại lâm nghiệp, trang trại tổng hợp giúp phần điều hoà

không khí, bảo vệ đất, chống ô nhiểm môi trường,...

Tuy số cơ cấu loại hình tương đối đa dạng nhưng trên mỗi trang trại vận thể

hiện tính đơn lẻ về sản phẩm. Điều này không phản ánh tính chuyên nghiệp trong

sản xuất của các trang trại mà chính là nguyên nhân của sự thiếu kiến thức kinh

doanh, kiến thức thị trường, thiếu vốn và đặc biệt các chủ trang trại chưa dám mạnh

dạn đầu tư, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Loại cây trồng đặc sản, mang tính

đặc thù của vùng chưa được chú ý, sản phẩm chưa tạo được sự khác biệt so với các

huyện khác, nên vì vậy sức cạnh tranh trên thị trường thấp.

Để phát triển mạnh kinh tế trang trại Quảng Ninh theo hướng bền vững cần

thực hiện tốt các giải pháp chung và giải pháp riêng cho từng trang trại. Chung quy

lại đó là việc giải quyết các vấn đề mấu chốt sau: nâng cao trình độ về kiến thức

quản lý kinh tế, kinh doanh, xây dựng kế hoạch, chiến lược cho trang trại, tạo niềm

tin cho chủ trang trại trong quá trình đầu tư lâu dài trong chính sách quy hoạch đất

đai, giải quyết vốn, đầu ra cho các trang trại.

2. Kiến nghị

2.1. Đối với cấp tỉnh

- Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chỉ đạo

các cấp, các ngành liên quan tập trung rà soát, bổ sung quy hoạch vùng phát triển

kinh tế trang trại gắn với thị trường, tập trung vào những sản phẩm có lợi thế, tạo

điều kiện giúp chủ trang trại tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

- Rà soát hiện trạng sử dụng đất phát triển kinh tế trang trại, làm rõ nguồn

gốc sử dụng đất của các trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất, xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các chủ trang trại yên tâm

đầu tư phát triển sản xuất.

- Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi

cho các chủ trang trại được vay vốn theo lãi suất ưu đãi, trong đó có cả các chủ

91

trang trại không có tài sản để thế chấp.

- Hỗ trợ, khuyến khích các chủ trang trại đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học

kỹ thuật, công nghệ mới, xử lý môi trường vào quá trình sản xuất kinh doanh. Hỗ

trợ các trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông sản hàng hóa, phát triển sản

xuất theo các hợp đồng, theo chuỗi giá trị.

2.2. Đối với cấp huyện

- Trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành

nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới cấp xã đã được phê duyệt và các quy hoạch

khác liên quan. Huyện cần cập nhật vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và xây

dựng quy hoạch chi tiết phát triển cụm trang trại, các loại hình trang trại phù hợp.

- Tùy thuộc vào nhu cầu thị trường và điều kiện của từng trang trại, huyện

cần có các chính sách phù hợp để khuyến khích, hỗ trợ các trang trại phát triển

một số cây trồng, vật nuôi đặc sản mang lại lợi nhuận cao đồng thời phục vụ nhu

cầu người tiêu dùng.

- Huyện cần có chính sách hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cấp

đất, giao đất phát triển kinh tế trang trại tại những vùng đã có quy hoạch; hỗ trợ

kinh phí di dời, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các trang trại di dời đến

92

vùng quy hoạch phát triển kinh tế trang trại của địa phương./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bản tin khoa học, khuyến nông – khuyến ngư (số 03/2013), Phát triển kinh tế

trang trại ở huyện miền núi Hương Sơn, Hà Tĩnh, trang web

http://xttm.agroviet.gov.vn/XTTMSites/viN/76/tapchi/130/136/6161/Default.asp

[2] Đinh Phi Hỗ (2004), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Đại học Kinh tế

thành phố Hồ Chí Minh

[3] Trần Hai (2000), “Một số nhận thức về kinh tế trang trại Việt Nam”, Nhà xuất

bản TP Hồ Chí Minh - Tư liệu về kinh tế trang trại.

[4] Bộ Nông nghiệp và PTNT (2011), Thông tư số 27/2011/TT-BNN&PTNT

ngày 13/4/2011 Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế

trang trại.

[5] Bùi Quang Bình (2012), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội.

[6] Phạm Văn Chung (2011), Phát triển Kinh tế trang trại trên địa bàn huyện

Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển, Đà Nẵng

[7] Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới,

NXB Thống kê Hà Nội.

[8] Đài phát thanh và truyền hình Thừa Thiên Huế (21/3/2013), Quảng Điền: Tỷ

phú trên vùng trang trại rú cát bạch sa, trang web

http://www.trt.vn/tabid/58/itemid/16223/categoryId/0/type/1/ Default.aspx

[9] Trần Quốc Đạt (2012), Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện

Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển, Đà Nẵng.

[10] Trần Lệ Thị Bích Hồng (2007), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát

triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên , Luận

văn Thạc sĩ Kinh tế, Thái Nguyên.

[11] Nguyễn Thành Nam (2008), Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang

trại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Nông nghiệp,

93

Thái Nguyên.

[12] Báo Thanh Hóa (10/5/2013), Huyện Nga Sơn, Phát triển kinh tế trang trại gắn

với xây dựng nông thôn mới, trang web

http://baothanhhoa.vn/vn/kinh-te/n107712/Huyen-Nga-Son:-Phat-trien-kinh-

te-trang-trai-gan-voi-xay-dung-nong-thon-moi

[13] Huyện ủy Quảng Ninh (2010), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Quảng

Ninh lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2010-2015, Quảng Bình.

[14] Phòng Thống kê huyện Quảng Ninh (2007- 2013), Niên giám thống kê huyện

Quảng Ninh, Quảng Bình.

[15] Trần Đình Trân (2011), Phát triển Kinh tế trang trại tỉnh Quảng Ngãi –Luận

văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển, Đà Nẵng.

[16] Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, NXB Đại học Kinh

tế Quốc dân, Hà Nội.

[17] Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lý trang trại nông lâm nghiệp, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

[18] Ủy Ban Nhân Dân huyện Quảng Ninh (2011-2013), Báo cáo tình hình thực

hiện nghị quyết HĐND về phát triển kinh tế- xã hội năm 2010, 2011, 2012 và

mục tiêu, nhiệm vụ năm 2011, 2012, 2013, Quảng Bình

[19] Ủy Ban Nhân Dân huyện Quảng Ninh (2007), Chương trình phát triển kinh tế

trang trại và vùng gò đồi giai đoạn 2007-2010, định hướng đến 2015 ban

hành kèm theo Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày 30/7/2007, Quảng Bình

[20] UBND huyện Quảng Ninh (2013), Báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội năm

2012.

[21] Hội làm vườn Việt Nam (31/5/2013), Mô hình sản xuất nông nghiệp nào phù

hợp với cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước

ta hiện nay. Trang web:

http://www.vacvina.org.vn/Story/vn/Kinhtetrangtrai/Kinhtetrangtrai/2013/5/6

94

61.html