BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG ------o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng

VŨ THỊ DIỆU HỒNG

Hà Nội - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

------o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Ngành: Tài chính – Ngân hàng – Bảo hiểm

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60340201

Họ và tên: Vũ Thị Diệu Hồng

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Trần Thị Thu Thủy

Hà Nội - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị công

tác.

Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Diệu Hồng

ii

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, cùng Quý thầy cô của trường

Đại Học Ngoại Thương đã tạo điều kiện và truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý

báu trong quá trình giảng dạy giúp tác giả đã có suy luận mạch lạc và kiến thức tổng

quát để hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Thu Thủy,

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả rất nhiệt tình trong suốt thời gian

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Bên cạnh đó, tác giả xin trân trọng cảm ơn các anh chị trong Cục phòng chống

rửa tiền, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, đã giúp đỡ nhiệt tình trong việc cung cấp

số liệu cần thiết cho đề tài tác giả đang nghiên cứu.

Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, các đồng nghiệp làm việc

tại Ngân hàng HSBC Việt Nam, chi nhánh Hà Nội, nơi tác giả đang công tác, đã tạo

điều kiện, hỗ trợ nhiệt tình giúp tác giả có cái nhìn chính xác hơn về thực tiễn và

cung cấp số liệu cần thiết cho đề tài.

Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành về sự khuyến khích, quan

tâm và tạo điều kiện của những người thân trong gia đình, cũng như các bạn cùng

lớp cao học K22B, đã tạo động lực to lớn để tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu

này.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Diệu Hồng

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... v

DANH MỤC ĐỒ THỊ - SƠ ĐỒ ............................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU ..................................................................................... vi

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN .......................................... vii

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ........................................................................... 5

1.1. Tổng quan về rửa tiền: ..................................................................................... 5

1.1.1. Định nghĩa về hoạt động rửa tiền. ............................................................... 5

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động rửa tiền ............................................................... 10

1.1.3. Hậu quả của vấn nạn rửa tiền ................................................................... 16

1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................................................................. 21

1.2.1. Các giai đoạn rửa tiền qua ngân hàng ...................................................... 22

1.2.2. Dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.............................. 23

1.3. Hệ thống ngân hàng và phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng. ................................................................................................................ 27

1.3.1. Tính cấp thiết của phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ......... 27

1.3.2. Hệ thống ngân hàng. .................................................................................. 28

1.3.3. Phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. ............... 30

1.3.4. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền ............................. 32

1.4. Phòng chống rửa tiền ở một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam ........................................................................................................... 34

1.4.1. Phòng chống rửa tiền tại Mỹ ...................................................................... 34

1.4.2. Phòng chống rửa tiền tại Singapore .......................................................... 37

1.4.3. Phòng chống rửa tiền ở Thái Lan .............................................................. 39

1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................................... 40

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ... 42

iv

2.1. Thực trạng rửa tiền tại Việt Nam ................................................................... 42

2.1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội dẫn đến rửa tiền .................................................. 42

2.1.2. Thực trạng hành vi rửa tiền tại Việt Nam ................................................. 45

2.2. Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ............ 48

2.2.1. Các dấu hiệu rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ....................... 48

2.2.2. Các phương thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ................ 51

2.3. Thực trạng phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ....... 54

2.3.1. Các biện pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Việt Nam ................................................................................................................ 54

2.3.2. Phòng chống rửa tiền tại ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam ..... 62

2.4. Đánh giá về hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thời

gian qua .................................................................................................................... 70

2.4.1. Những thành tựu đạt được ......................................................................... 70

2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại ......................................................................... 71

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên ...................................................... 74

CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ

THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM ..................................................................... 79

3.1. Định hƣớng phát triển chính sách tiền tệ và cải cách hệ thống ngân hàng 79

3.1.1. Định hướng phát triển chính sách tiền tệ, thị trường vốn........................ 79

3.1.2. Cải cách hệ thống Ngân hàng thương mại .............................................. 80

3.1.3. Định hướng phòng chống rửa tiền cho hệ thống ngân hàng Việt Nam .. 80

3.2. Tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới 81

3.2.1. Tình hình thế giới ....................................................................................... 81

3.2.2. Tình hình Việt Nam .................................................................................... 82

3.3. Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam ... 83

3.3.1. Các giải pháp dành cho Chính phủ ........................................................... 83

3.3.2. Các giải pháp dành cho Ngân hàng Nhà nước ......................................... 89

3.3.3. Các giải pháp dành cho Ngân hàng thương mại ...................................... 93

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT

The Asian development ADB Ngân hàng phát triển Châu Á bank

AML Anti money laundering Phòng chống rửa tiền

BSA Bank secrecy act Luật bí mật ngân hàng

CDD Customer due diligence Các yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng

Financial action task force Lực lượng đặc nhiệm tài FATF on money laundering chính về chống rửa tiền

Federal bereau of Cục điều tra liên bang Hoa FBI investigation Kỳ

International monetary IMF Quỹ tiền tệ Quốc Tế fund

KYC Know your customer Thủ tục nhận biết khách hàng

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

Các cả nhân có ảnh hưởng PEP Political exposure persons chính trị

TTCK Thị trường chứng khoán

Báo cáo hoạt động bất UAR Unusual activity report thường

WB World bank Ngân hàng Thê Giới

vi

DANH MỤC ĐỒ THỊ - SƠ ĐỒ

Đồ thị 2.1. Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ nhân viên HSBC báo cáo lên ngân

hàng trong thời gian qua ............................................................................................ 70

Sơ đồ 2.1. Quy trình báo cáo hoạt động bất thường của nhân viên ngân hàng ........ 69

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền ................. 31

Bảng 2.1: Số lượng các vụ án được đem ra truy tố, xét xử theo điều ....................... 48

250 Bộ Luật hình sự .................................................................................................. 48

Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo biểu hiện

rửa tiền ....................................................................................................................... 50

Bảng 2.3: Số liệu báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo phương thức

rửa tiền ....................................................................................................................... 53

Bảng 2.4: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục phòng chống rửa tiền

thu thập ..................................................................................................................... 56

vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu luận văn, tác giả đã đưa ra và giải quyết

được vấn đề mà tác giả đã đề cập đến: đó chính là thực trạng và giải pháp phòng

chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu luận văn được chia thành 3 phần chính sau đây:

Thứ nhất, luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận về hoạt động rửa tiền, tác

động của nó đến nền kinh tế xã hội. Bên cạnh đó cũng đưa ra được quy trình và các

phương thức rửa tiền hiện nay và các kinh nghiệm quý báu từ một số quốc gia đã

đạt được những thành công nhất định trong cuộc chiến chống rửa tiền này.

Thứ hai, luận văn đã phân tích được thực trạng rửa tiền và công tác phòng

chống rửa tiền tại Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng tại Việt Nam nói

riêng trong thời gian vừa qua. Thông qua đó, luận văn đưa ra được những tồn tại

đang diễn ra trong công tác phòng chống rửa tiền cần phải giải quyết triệt để trong

thời gian tới.

Cuối cùng, luận văn đã dựa vào tình hình thực tế và những tồn tại đã tìm hiểu

kĩ bên trên để đưa ra các nhóm giải pháp dành cho các đối tượng khác nhau trong

công cuộc phòng chống rửa tiền đó là: Nhà nước, Ngân hàng nhà nước và ngân

hàng thương mại.

Những điểm mới của đề tài tác giả đã nghiên cứu là:

- Luận văn đưa ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về rửa tiền và phòng

chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng của Việt Nam

- Thông qua việc nghiên cứu kĩ thực trạng hoạt động phòng chống rửa tiền của

hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng HSBC Việt Nam nói riêng,

tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phòng chống

rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam qua ba nhóm đối tượng cụ thể ở ba vị trí

khác nhau trong cuộc chiến chống rửa tiền này.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động ngân hàng ngày nay, trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, không

những chịu áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội

phạm liên quan đến hoạt động ngân hàng, trong đó nổi bật nhất là tội phạm rửa tiền.

Rửa tiền là một loại tội phạm xuất hiện từ rất lâu đời và là một khâu quan trọng

trong quá trình hoạt động tội phạm, nhằm che đậy, xóa nhòa nguồn gốc bất hợp

pháp của những thu nhập có được từ hoạt động phạm tội.Vụ rửa tiền đầu tiên được

biết đến tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới nay hầu hết các nước trên thế giới đều

xuất hiện hành vi này với các mức độ khác nhau và ngày càng có xu hướng gia

tăng. Không những vậy, hoạt động rửa tiền càng ngày càng tinh vi và khó bị phát

hiện hơn. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện nay ngoài việc phải đối phó với

các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, còn phải đối phó với nguy cơ

bị các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng thị trường tài chính Việt Nam như một

miền đất hứa của việc rửa tiền cho các hoạt động bất hợp pháp. Việt Nam là một

quốc gia hội tụ rất nhiều yếu tố thuận lợi cho hoạt động rửa tiền như: nền kinh tế

còn sử dụng nhiều tiền mặt; hệ thống pháp luật còn nhiều lỗ hổng, đặc biệt là luật

chống rửa tiền; đang cần nhiều vốn đầu tư cho nền kinh tế đang phát triển. Rửa tiền

thường gắn liền với một hoặc nhiều hoạt động tội phạm tại nước đó. Do vậy hậu

quả nạn rửa tiền đem đến cho nền kinh tế xã hội vô cùng nghiêm trọng, có thể phá

hủy nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội; không những vậy

nó còn khuyến khích các hoạt động tài trợ khủng bố, buôn bán ma túy, tham nhũng

và kéo theo rất nhiều các hoạt động phạm tội khác, đồng thời nó có thể làm tăng

nguy cơ phá sản của các ngân hàng, làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách

kinh tế vĩ mô và làm mất đi vai trò kiểm soát các chính sách của Chính phủ. Chính

vì vậy có thể nói, nạn rửa tiền không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp

luật mà còn là mối đe dọa nghiêm trọng lên nền an ninh của một quốc gia.

Vì những lý do trên, phòng chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách đối

với nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Việt Nam cần đánh giá đúng

2

thực trạng rửa tiền hiện nay nhằm hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra, bên cạnh

đó hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng cần có những biện pháp nhận biết và phòng

chống hoạt động rửa tiền để chung sức với Nhà nước trong cuộc chiến đấu này. Với

mong muốn đóng góp các ý kiến vào cuộc đấu tranh chống rửa tiền đầy gian khó

này, nhằm từng bước làm ổn định kinh tế xã hội, làm trong sạch hệ thống tài chính

của nước nhà, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG

RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM”

2. Tình hình nghiên cứu

Thời gian gần đây, Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về rửa tiền

tại một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Có thể kể đến

các công trình nghiên cứu như:

- Luận văn Cử nhân kinh tế: “Rửa tiền và chống rửa tiền – hiện tượng, giải

pháp của các nước trên thế giới và Việt Nam” năm 2003 của tác giả: Nguyễn Thị

Thu Trang, Đại học Ngoại Thương Hà Nội.

Luận văn này đã phân tích được về hiện tượng rửa tiền và hoạt động phòng

chống rửa tiền của một số nước trên thế giới trong khoảng thời gian mà hành vi rửa

tiền và hoạt động phòng chống rửa tiền chưa thực sự phổ biến và được nhiều người

biết đến tại Việt Nam. Đó là một ưu điểm rất lớn của luận văn. Từ việc phân tích

bản chất vấn đề, nghiên cứu thực trạng hoạt động, tác giả đã cố gắng phân tích từ

các giải pháp của các nước phát triển trên thế giới, ứng dụng vào Việt Nam. Tuy

nhiên, các giải pháp chưa thực sự hiệu quả và cụ thể với nền kinh tế Việt Nam nói

chung và hệ thống ngân hàng tại Việt Nam nói riêng.

- Luận văn Cử nhân kinh tế: “Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ và bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam” năm 2010 của tác giả: Nguyễn Thị Kim Oanh, Đại

học Ngoại Thương Hà Nội.

Luận văn này đã nêu rõ được thực trạng về hoạt động phòng chống rửa tiền ở

Mỹ, qua đó đưa ra được các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Nhưng luận văn

chưa nêu rõ được các bài học kinh nghiệm có tính ứng dụng cao cho ngành ngân

3

hàng mà chỉ nói chung chung về bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung

trong một số ngành nghề dựa trên các hoạt động phòng chống rửa tiền tại nước Mỹ.

Mỹ là một cường quốc trên thế giới, vì thế có rất nhiều điểm khác biệt và hiện đại

hơn so với Việt Nam. Chỉ từ thực trạng hoạt động phòng chống rửa tiền tại Mỹ để

rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam thực sự chưa mang lại kết quả có tính ứng

dụng cao như tác giả mong muốn.

- Tiểu luận kinh tế: “Hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền – Thiên

đường Thuế” năm 2013 của nhóm tác giả: Trần Phương Linh, Trần Văn Lợi,

Nguyễn Thị Kim Ngọc, Lê Nguyễn Quốc Trung, Đại học Kinh Tế TP Hồ Chí Minh

Tiểu luận này đã được nhóm tác giả phân tích kĩ về hoạt động rửa tiền và

phòng chống rửa tiền nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Bên cạnh việc đưa ra

thực trạng hoạt động phòng chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới, cụ thể là tại

một số Thiên đường thuế trên thế giới, nơi xảy ra dễ nhất các hoạt động rửa tiền

này, các tác giả đã đưa ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Nhưng

cũng như khóa luận trên, các tác giả chưa phân tích được thực trạng cụ thể hoạt

động phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng cũng như chưa đưa được nhiều

bài học kinh nghiệm thực tiễn cho hoạt động phòng chống rửa tiền này.

Đối với việc nghiên cứu về thực trạng và các giải pháp để phòng chống rửa

tiền của Việt Nam nói chung và qua hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng chưa

thấy có nhiều đề tài nghiên cứu thực sự sâu sắc và có kết quả tốt. Hoạt động rửa tiền

diễn ra chủ yếu qua hệ thống ngân hàng tuy nhiên lại chưa có công trình nghiên cứu

nào thực sự phân tích cụ thể thực trạng của hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng tại Việt Nam, qua đó đưa ra được các giải pháp phòng chống rửa

tiền chỉ qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam thay vì cả nền kinh tế Việt Nam như

một số công trình nghiên cứu trước đó. Vì vậy, căn cứ những kết quả đã tìm hiểu,

tác giả nhận thấy đề tài của mình không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu khác.

Hơn nữa, qua việc nghiên cứu thông qua thực tế phòng chống rửa tiền của ngân

hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam nơi tác giả đang công tác, tác giả muốn đưa ra

4

những bài học và giải pháp thiết thực cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam

trong thời gian tới.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở những lý luận cơ bản về rửa tiền và phòng chống rửa tiền, luận văn

nhằm mục tiêu phân tích thực trạng hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng Việt Nam để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt

động này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu tại hệ thống ngân hàng Việt Nam

từ năm 2013 đến năm 2016.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm

tận dụng được hết các tính ưu việt của từng loại phương pháp. Cụ thể là phương

pháp thống kê, phân tích, phương pháp tổng hợp dữ liệu thứ cấp...

6. Kết cấu của luận văn

Đề tài nghiên cứu được trình bày thành 3 phần:

- Phần 1: phần mở đầu, giới thiệu đề tài và trình bày những vấn đề liên quan

đến phương pháp luận trong nghiên cứu.

- Phần 2: phần nội dung của đề tài được trình bày thành 3 chương:

 Chương I: Tổng quan về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng.

 Chương II: Thực trạng rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam.

 Chương III: Các giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Việt Nam

5

- Phần 3: phần kết luận nêu một cách khái quát những nội dung đề tài nghiên

cứu và những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu.

Vấn đề nghiên cứu của đề tài khá phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên

khóa luận không tránh khỏi thiếu sót và mang tính chủ quan của người viết, tác giả

rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu để luận văn được hoàn thiện và

mang tính thực tiễn hơn.

Xin chân thành cảm ơn.

5

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG

RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

1.1. Tổng quan về rửa tiền:

Trước khi đi sâu về tìm hiểu các biện pháp phòng chống rửa tiền, chúng ta cần

tìm hiểu thế nào là rửa tiền và tại sao chúng ta lại cần phòng chống rửa tiền. Vì thế

trong phân mục này tác giả sẽ cố gắng đưa ra cho bạn đọc một cái nhìn khái quát

nhất về thế nào là rửa tiền, đặc điểm của hoạt động rửa tiền và những hậu quả mà

nạn rửa tiền mang lại.

1.1.1. Định nghĩa về hoạt động rửa tiền.

Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong những hoạt động phạm

pháp nhằm đem lại những lợi nhuận kếch xù. Tội phạm tài chính bao gồm nhưng

không giới hạn: Hối lộ và tham nhũng, rửa tiền, tài trợ khủng bố, tội phạm có tổ

chức, buôn người, tài trợ vũ khí hủy diệt hàng loạt, trốn thuế và buôn bán bất hợp

pháp như ma túy. Dấu hiệu rửa tiền đã có từ 4000 năm trước Công Nguyên: các

thương nhân Trung quốc đã che giấu tài sản thực có của mình để tránh bị phát hiện

và sung công. Tuy nhiên phải đến tận thế kỷ XX thì thuật ngữ “rửa tiền” mới được

sử dụng rộng rãi. Lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm 1973 trong vụ bê

bối tài chính Watergate nổi tiếng nước Mỹ, nhưng phải đợi 5 năm sau đó thuật ngữ

“rửa tiền” mới chính thức được sử dụng trong một số văn bản pháp lý của tòa án

Mỹ. Thuật ngữ này trở nên phổ biến trong những năm gần đây bởi tính phổ biến và

ảnh hưởng sâu rộng của chúng.

Rửa tiền được hiểu một cách chung nhất là hành vi phạm tội hoặc cố tình

phạm tội để che giấu hoặc ngụy trang thông tin xác định của các khoản thu có được

một cách phi pháp, để chúng tỏ ra là có nguồn gốc hợp pháp. Rửa tiền là cách thức

tiến hành xử lý các khoản thu được từ hoạt động bất chính hay tiền “bẩn” thông qua

một loạt các giao dịch, bằng cách này tiền sẽ được “rửa sạch” để trông có vẻ là các

khoản thu được từ những hoạt động hợp pháp.

Định nghĩa pháp lý đầu tiên về rửa tiền được xác định trong công ước Vienna

về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988 của

6

Liên hợp quốc: yêu cầu các nước thành viên nghiên cứu đưa vào Luật của nước

mình: “Rửa tiền là hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản

đó đã thu được từ buôn bán ma túy hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội

với mục đích che giấu nguồn tài sản hoặc giúp người khác thực hiện các hành vi

trên, trốn tránh trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình”. Đến tháng 12/2000

khi Công ước Parlemo về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp

Quốc được ký kết về vấn đề tội phạm có tổ chức và tội phạm rửa tiền được xác định

đầy đủ, cụ thể hơn: “Rửa tiền là hành vi:

- Hoán chuyển hoặc chuyển nhượng tài sản khi biết tài sản đó có nguồn gốc từ

những hành vi phạm tội, hoặc

- Tham gia vào hành vi nhằm mục đích giấu diếm hoặc che đậy nguồn gốc phi

pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kì cá nhân nào tham gia vào hành vi này, hoặc

- Giấu diếm hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt,

sự chuyển dịch các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản khi biết

rằng tài sản có được từ hành vi phạm tội, hoặc

- Có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi tại thời điểm tiếp nhận nó đã

biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội.”

Theo Tổ chức chống rửa tiền quốc tế - FATF (Finance Action Task Force):

Rửa tiền là việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật;

việc có ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay chuyển quyền

sở hữu tài sản phạm pháp; việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp.

Theo Mục 1 Điều 3 của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP Ngày 07/06/2005 của

Chính Phủ về phòng, chống rửa tiền: “Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm

cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động:

 Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài

sản do phạm tội mà có;

 Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận

chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;

7

 Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp

hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản

chất thực sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản

do phạm tội mà có”.

Vậy chúng ta có thể đặt câu hỏi: Những đối tượng nào tham gia vào hành vi

rửa tiền này? Câu trả lời đơn giản nhất là bọn tội phạm. Nhưng trên thực tế, câu trả

lời này không phản ánh được hoàn toàn sự thật. Vì người ta có thể tìm thấy hành vi

rửa tiền ở mọi khía cạnh của cuộc sống. Thực tế có thể có những hành vi rất đơn

giản, có những hành vi lại hết sức tinh vi: từ việc buôn lậu, trốn thuế, gửi tiền vào

ngân hàng, đặt cược đua ngựa... đến việc thông qua các công cụ tài chính hết sức

hiện đại. Chúng ta có thể liệt kê ra các hành vi dễ bị lợi dụng để “rửa tiền” như:

Mua bán chứng khoán; Mua bán, đầu tư bất động sản; Đầu tư qua cổ phần hóa

doanh nghiệp; Thành lập công ty ma, công ty sân sau, công ty đầu tư; Thông qua

casino, các hoạt động vui chơi có thưởng; thừa kế tài sản... để khoanh vùng giám

sát, điều tra... Chúng ta cũng có thể thanh lọc các hoạt động như: Đầu tư (số tiền, tỷ

lệ, tỷ suất đầu tư); Lỗ đầu tư (thời gian, số tiền chịu lỗ); Phá sản doanh nghiệp (tình

hình, thời gian, số tiền phá sản); kinh doanh nhà hàng, du lịch, khách sạn... để xác

định hành vi /“rửa tiền”… Chúng ta có thể điểm danh các đối tượng như: Người

nước ngoài (thực hiện các giao dịch mở - đóng tài khoản chuyển tiền, mua bán

doanh nghiệp,...); Các quan chức dễ bị mua chuộc, tham ô, tham nhũng, có tài sản

và tiền gửi lớn…; Các đối tượng tội phạm có tiền án tiền sự (buôn bán ma túy, trộm

cắp)... để thường xuyên theo dõi, phát hiện kịp thời các hành vi bất thường cấu

thành tội phạm “rửa tiền”. Tuy nhiên thực tế cho thấy tội phạm rửa tiền không chỉ là

những tên chủ mưu rửa tiền mà cả những đối tượng giúp đỡ để một tên tội phạm

thực hiện hành động đó. Điều này có nghĩa là nếu các luật sư, các kế toán, thậm chí

là các ông chủ ngân hàng cho phép ai đó rửa tiền thông qua các hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp mình thì họ cũng đang bị quy tội là tham gia rửa tiền.

Trong rất nhiều trường hợp, nhiều người không phải là tội phạm cũng không phải là

doanh nhân đều có nguy cơ trở thành tội phạm rửa tiền nếu họ nắm giữ hộ, chứa

chấp tiền hoặc tài sản thu được từ các vụ rửa tiền. Ví dụ đơn giản như bạn gái hoặc

8

vợ của một tên tội phạm biết hoặc có nghi ngờ bạn trai hay chồng của mình mua

nhà, mua xe, mua đồ trang sức, chu cấp cho mình bằng nguồn tài chính phi pháp

cũng bị trở thành tội phạm rửa tiền. Đối tượng cuối cùng bị coi như tội phạm rửa

tiền chính là những người lên kế hoạch giúp bọn tội phạm đưa ra các phương thức,

kich bản rửa tiền; cho dù họ không hề tham gia vào kế hoạch đó. Ví dụ như một kế

toán, một nhân viên ngân hàng, một tư vấn tài chính có thể gợi ý cho bọn rửa tiền

một ý tưởng để trốn thuế thì chính những người này cũng bị coi là tội phạm rửa

tiền.

Rửa tiền là “chuyển trốn tư bản” hay còn gọi là “vốn bay” (flight capital).

Flight capital là vốn được rút một cách cấp tốc khỏi một nước. Rửa tiền còn được

hiểu là “tiền nóng”, là tiền được chuyển từ một địa điểm này đến một địa điểm khác

có thể do sự lo ngại về các chính sách của chính phủ, hoặc do sự mất lòng tin vào

chính phủ khi tại nước đó xảy ra những biến động về kinh tế, chính trị. Liên quan

trực tiếp việc rửa tiền, đó là Smurfing (Smurf). Smurf là những nhân vật giúp

chuyển tiền từ một tổ chức này sang tổ chức khác, hoặc từ quốc gia này sang quốc

gia khác. Hoạt động của các Smurf thường liên quan đến người cầm đầu, gọi là

Papa Smurf, người trực tiếp chỉ đạo các Smurf gửi tiền thu được từ buôn bán ma túy

tại các ngân hàng với số lượng nhỏ hơn số lượng tối thiểu mà các tổ chức tài chính

được yêu cầu phải báo cáo.

Vậy lại một câu hỏi nữa được đặt ra là lý do gì khiến bọn tội phạm cần phải

rửa tiền? Theo thống kê trên thực tế có ba loại tội phạm cơ bản. Thứ nhất là tội

phạm vì tình hay vì danh dự, thứ hai là tội phạm phá hoại mang tính bạo lực và cuối

cùng là tội phạm kinh tế. Thực tế đa số là tội phạm kinh tế, chúng phạm tội vì tiền.

Đối tượng này có hai lý do để phạm tội: một là do bị kích động, tức là chúng muốn

chứng minh rằng chúng có thể làm được việc đó và bỏ trốn ngay sau khi phạm tội;

hai là vì cho rằng nếu phạm tội thì sẽ có nhiều tiền hơn là bằng cách nỗ lực kiếm

tiền đàng hoàng theo đúng pháp luật. Sau khi kiếm được tiền thông qua việc phạm

tội, bọn chúng sẽ có ba mục đích sử dụng tiền: trực tiếp đưa vào một vụ phạm tội

khác, gửi tiết kiệm để chứng minh nguồn gốc sạch của đồng tiền và trực tiếp đưa

tiền sạch vào các kế hoạch đầu tư hợp lệ. Hoạt động rửa tiền không chỉ xảy ra ở các

9

quốc gia có Luật Bí mật ngân hàng; có những quy định về tài chính, luật pháp lỏng

lẻo; các quan chức, nhân viên của các tổ chức tín dụng dễ bị mua chuộc… mà rửa

tiền còn thường xuyên xảy ra tại các quốc gia có Luật Phòng chống rửa tiền cực kỳ

nghiêm ngặt như Mỹ và Anh. Trong các phương pháp điều tra, phương pháp hiệu

quả nhất là phương pháp điều tra “theo dấu đồng tiền”, vì thế bọn tội phạm luôn

mong muốn dịch chuyển đồng tiền bẩn ban đầu đi xa nhanh nhất có thể để “xóa dấu

đồng tiền” trước khi bị phát hiện bởi các điều tra viên. Hành vi rửa tiền thường rất

đa dạng và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi khoa học công nghệ ngày

càng phát triển thì hành vi này càng ngày càng tinh vi và khó phát hiện hơn. Tùy

thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế cũng như đặc điểm xã hội và hệ thống luật

pháp của từng quốc gia mà bọn tội phạm sẽ sử dụng phương thức rửa tiền phù hợp.

Ví dụ hầu hết các giao dịch ở Mỹ đều được thực hiện qua thẻ thanh toán, qua hệ

thống ngân hàng nên tội phạm rửa tiền muốn rửa được tiền cũng phải tìm cách lách

luật đưa tiền qua hệ thống ngân hàng. Nhưng ngược lại, ở Việt Nam thì nền kinh tế

là nền kinh tế tiền mặt, các giao dịch tiền mặt hầu hết đều chưa được kiểm soát

nguồn gốc đồng tiền nên tội phạm có rất nhiều cơ hội dùng tiền mặt bất hợp pháp để

đầu tư bất động sản, chứng khoán, mua các tài sản giá trị lớn như đồng hồ, trang

sức… Càng ngày tội phạm càng có nhiều ngành nghề và lĩnh vực để lợi dụng thực

hiện hành vi phạm tội. Có lẽ hình thức sơ khai nhất của hành vi rửa tiền là việc rửa

tiền qua việc cá độ tại các trường đua ngựa, các trò xổ số, rồi đến các sòng bạc,

casino… nhưng tinh vi và phức tạp nhất hiện nay là rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng, qua các công cụ và thị trường tài chính khác nhau như chứng khoán, bất động

sản. Có thể nhận thấy một cách dễ dàng là hoạt động rửa tiền ít có xu hướng dựa

vào tiền mặt mà lại hay chuyển qua dùng các công cụ khác nhau trên thị trường tài

chính như: chứng khoán, bất động sản hoặc hình thức hàng đổi hàng (ví dụ như ma

túy đổi lấy vũ khí). Số lượng tiền bẩn cần phải rửa càng ngày càng nhiều khiến cho

hành vi rửa tiền không dừng lại là hành vi của các cá nhân nữa mà nó còn là hành vi

của cả một ngành công nghiệp rửa tiền. Đội ngũ chủ chốt của ngành công nghiệp

này càng ngày càng đa dạng ngành nghề như luật sư, người giao dịch chứng khoán,

người mua bán bất động sản, cố vấn thuế, kế toán,… Càng ngày cỗ máy này càng

10

biến tướng và xâm nhập vào nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề có uy tín trong

xã hội như các ngân hàng lớn, các hiệp hội thể thao, các cơ quan văn hóa, thậm chí

là các tổ chức từ thiện. Việc đó khiến cho việc nhận biết và phát hiện hành vi phạm

tội càng ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

Bên cạnh đó, các nước trên thế giới trong những năm gần đây tham gia hội

nhập với tốc độ nhanh chóng, tiến độ mở cửa kinh tế đã tăng vọt trong thời gian

ngắn. Các thị trường tài chính đặc biệt là thị trường vốn trở nên thông thoáng hơn,

nên số lượng tiền lưu hành toàn cầu đã tăng từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến

19.900 tỷ USD năm 2005. Có thể thấy càng xuất hiện nhiều loại hình tài chính thì

càng có nhiều cơ hội cho bọn tội phạm rửa tiền hợp thức hóa nguồn gốc cho những

đồng tiền phi pháp.

Một khía cạnh nữa là sự cạnh tranh thu hút vốn giữa các quốc gia và các công

ty phát hành chứng khoán, các ngân hàng và các định chế tài chính trung gian khác

ngày càng trở nên căng thẳng và khó khăn. Hậu quả sẽ có những công ty chứng

khoán hoặc ngân hàng sẵn sàng nhận những số tiền lớn mà bọn tội phạm cần rửa mà

không cần quan tâm đến nguồn gốc của chúng có hợp pháp hay không.

Ngày nay chúng ta đang sống và làm việc trong một thế giới vô cùng hiện đại

và công nghệ thông tin được phát triển vượt bậc. Mạng Internet phát triển không

ngừng là cơ hội rất lớn cho các giao dịch qua mạng phát triển theo. Rất nhiều trang

web thương mại cho phép con người tiến hành giao dịch và thanh toán mà không

cần phải cung cấp các thông tin cá nhân. Điều này càng dẫn đến việc các cơ quan

chức năng khó lòng tìm ra dấu vết của bọn tội phạm. Có thể thấy được việc rửa tiền

qua mạng Internet đang diễn ra dễ dàng và phổ biến mà ít khi để lại dấu vết.

Nói tóm lại, nạn rửa tiền đang ngày càng lan rộng trên phạm vi toàn thế giới,

xâm lấn vào nhiều lĩnh vực trong đời sống với tốc độ rất nhanh. Trong phần tới,

chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm của hoạt động rửa tiền để có được cái nhìn

bao quát hơn.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động rửa tiền

1.1.2.1. Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền

11

Để rửa tiền, quy trình biến những đồng tiền phi pháp thành những đồng tiền

hoặc hàng hóa có bề ngoài hợp pháp của những kẻ rửa tiền đều qua các khâu sắp

đặt, phân loại và hòa nhập. Cụ thể:

- Giai đoạn 1: Sắp đặt (Placement) - Đây là quá trình sắp đặt các nguồn tiền

bất hợp pháp vào hệ thống tài chính, thông thường qua một tổ chức tài chính. “Sắp

đặt” được coi là thao tác đầu tiên của hoạt động rửa tiền nhằm chuyển đổi các khoản

tiền do phạm tội mà có sang các hình thức hợp pháp khác và đưa vào các chu trình

kinh tế tài chính. Tội phàm tìm cách đưa các khoản tiền phi pháp vào hệ thống tài

chính để chuẩn bị cho các bước tiếp theo. Việc này có thể được thực hiện bằng cách

gửi tiền vào một tài khoản ngân hàng, chia nhỏ các khoản tiền, gửi dần vào một hay

nhiều định chế tài chính. Việc đổi tiền từ đồng tiền này sang đồng tiền khác có thể

xảy ra ở giai đoạn này. Ngoài ra, các khoản tiền phi pháp có thể được chuyển đổi

thành các công cụ tài chính khác để đánh lạc hướng sự chú ý của các cơ quan chức

năng. Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất với bon tội phạm vì tiền và tài sản có

được là bất hợp pháp và đang bị các cơ quan điều tra theo dõi. Mục đích của bước

này là biến đổi hình thái ban đầu của các khoản thu nhập phạm pháp và tách chúng

ra khỏi tổ chức tội phạm nhằm tránh sự chú ý của các cơ quan chức năng. Thủ đoạn

phổ biến nhất trong giai đoạn này là chia tiền bẩn ra thành các khoản nhỏ để gửi

nhiều lần vào các ngân hàng nhằm mục đích vượt qua cửa đầu tiên là số lượng tiền

tối thiểu cần có giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Ngoài ra còn có các thủ đoạn khác

như mua các hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nước ngoài...

- Giai đoạn 2: Phân loại (chia nhỏ) (layering): Quá trình này chia tách nguồn

tiền bất hợp pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch

tài chính để làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp. Tại thời điểm này, các

khoản tiền, chứng khoán hoặc hợp đồng bảo hiểm được chuyển đổi hoặc chuyển

sang các tổ chức khác nhằm tiếp tục tách chúng ra khỏi nguồn gốc phạm tội. Những

khoản tiền này cũng có thể được chuyển đi dưới bất kỳ một dạng công cụ có thể

chuyển nhượng cho người khác để lấy tiền như séc, lệnh chuyển tiền… ở nhiều

nước và vùng lãnh thổ khác nhau. Hàng ngàn thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm

cho đồng tiền được chuyển dịch khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xóa đi dấu vết tội

12

phạm, cắt đứt một cách giả tạo mối liên hệ giữa tổ chức tội phạm và tài sản. Những

kẻ rửa tiền cũng có thể ngụy trang việc chuyển tiền dưới hình thức thanh toán tiền

cho hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc chuyển kinh phí vào một công ty trá hình. Bọn rửa

tiền cũng thường cố gắng che giấu đầu mối của số tiền lớn qua các hoạt động phạm

pháp muốn rửa những số tiền lớn thường tìm đến các quốc gia có hệ thống luật

doanh nghiệp thông thoáng, hệ thống pháp luật về bảo mật ngân hàng ít khắc khe

hoặc những quy định về phòng chống rửa tiền còn lỏng lẻo để thành lập các công ty

phục vụ cho hoạt động rửa tiền Các sòng bạc cũng trở thành nơi lý tưởng để rửa tiền

vì tại một số nước việc kinh doanh sòng bạc không bị cấm, các sòng bạc lại có thể

chấp nhận tiền mặt sử dụng nhiều. Khi thắng bạc, bọn tội phạm dễ ràng rút séc tại

các ngân hàng của sòng bạc đó và số tiền thắng bạc cũng có thể được coi là hợp

pháp.

- Giai đoạn 3: Hòa nhập (Intergration): Đây là giai đoạn cuối cùng trong quy

trình “rửa tiền”. Tiền bẩn được hòa nhập vào trong nền kinh tế chính thống. Sau khi

tiền “bẩn” trở nên tương đối “sạch” thì bọn tội phạm bắt đầu đầu tư một cách hợp

pháp vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như vốn đầu tư cho các

doanh nghiệp, các khoản vay cá nhân, các cổ phiếu, tín phiếu, bất động sản... Việc

đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị cho đồng

tiền của bọn tội phạm, trộn lẫn những đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp vào với

nhau. Những kẻ rửa tiền tập trung thu hồi tiền về từ các tài khoản nhưng không làm

cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc sử dụng các giao dịch có vẻ

hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp. Chúng có thể thực hiện việc này

bằng cách mua tài sản như bất động sản, chứng khoán hoặc công cụ tài chính khác

hoặc mua hàng xa xỉ. Đây cũng là công đoạn khó khăn nhất để có thể xác định hành

vi cấu thành tội phạm trong tội “rửa tiền”. Nên nếu bọn tội phạm tiến hành rửa tiền

càng qua nhiều giai đoạn thì các cơ quan chức năng càng khó khăn trong việc tìm ra

dấu vết của tiền “bẩn”.

1.1.2.2. Các phương thức rửa tiền

Trong giai đoạn kinh tế phát triển hội nhập ngày nay, hoạt động rửa tiền được

phát triển toàn diện, về cả phạm vi, quy mô, hình thức, nội dung rửa tiền. Bọn tội

13

phạm rửa tiền sẽ tùy theo mức độ và môi trường pháp lý của mỗi quốc gia mà sử

dụng các phương thức khác nhau để rửa tiền. Sau đây là lần lượt các phương thức

rửa tiền theo mức độ phổ biến từ thấp lên cao:

- Rửa tiền qua casino: Tại một số nước, đặc biệt là Mỹ, việc kinh doanh sòng

bạc, đánh xèng, các trò cá cược,… phục vụ cho vui chơi giải trí là hoàn toàn hợp

pháp. Tại những điểm sòng bạc này, người ta có thể đổi rất nhiều tiền mặt mà không

bị ai quan tâm đến nguồn gốc lấy những đồng tiền hoặc thẻ casino được sử dụng

chung tại các điểm đó. Bọn tội phạm có thể dùng cách này để chuyển những đồng

tiền phi pháp của chúng sang thẻ như vậy rồi dùng ngay những thẻ ấy để đổi thuốc

phiện , ma túy với những tên trùm mua bán ma túy hoặc chờ một thời gian sau đổi

thành các séc tại chính sòng bạc đó, và số séc này có thể được coi là hợp pháp.

- Rửa tiền qua các công ty bình phong, công ty vỏ bọc (shell companies and

trust): Các công ty bình phong và các công ty vỏ bọc là các thực thể hợp pháp

thường được thành lập cho các mục đích kinh doanh hoàn toàn hợp pháp. Nhưng

các thực thể này được phép giấu các thông tin về quyền sở hữu, các thông tin chi

tiết về tình hình tài chính do đó mà tội phạm đã tận dụng được hình thức kinh doanh

này để rửa tiền. Công ty “bình phong” là một thực thể được thành lập hợp pháp,

nhưng hoạt động của công ty không nhằm thực hiện các chức năng vốn có mà nhằm

mục đích rửa các nguồn tiền bất chính. Công ty “vỏ bọc” là một thực thể được

thành lập hợp pháp tại một quốc gia nhưng hoạt động chính của chúng lại được tiến

hành tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác.Tội phạm sử dụng các công ty này để

trộn lẫn các nguồn tiền phi pháp với tiền hợp pháp của công ty hoặc sử dụng công

ty để chuyển tiền qua lại với nhau nhằm tách số tiền có được từ hoạt động bất hợp

pháp ra xa nơi chúng thực hiện hành vi phạm tội và nhằm gây khó khăn cho các cơ

quan thực thi pháp luật trong việc dựng lại các giao dịch tài chính hoặc thu hồi tài

sản phạm tội.

- Rửa tiền qua thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán (TTCK) là

một trong những thị trường có tốc độ phát triển khó dự đoán, dễ đi từ sự phát triển

quá nóng sang đóng băng. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, thị trường luôn có luồng

tiền lớn đổ vào, đây là kẽ hỡ để tội phạm lợi dụng rửa tiền. Đối với TTCK, mỗi

14

ngày, khách hàng có thể thực hiện hàng trăm, thậm chí hàng nghìn giao dịch nên

việc truy gốc nguồn tiền trở nên khó khăn nhất hiện nay. TTCK cũng chứa đựng

những rủi ro và tiềm ẩn những yếu tố vi phạm pháp luật, tội phạm, có khả năng ảnh

hưởng đến trật tự an toàn xã hội. TTCK có thể trở thành mảnh đất màu mỡ mà tội

phạm rửa tiền hướng đến để “rửa sạch” các đồng “tiền bẩn” có được từ hoạt động

phạm tội.

- Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm: Ngày nay, các loại hình bảo hiểm

nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn ngày càng phát triển với những gói

dịch vụ khác nhau cũng là một mảnh đất để tội phạm rửa tiền hoạt động. Trong lĩnh

vực bảo hiểm, những giao dịch đáng ngờ đó là việc khách hàng ủy quyền cho người

không có quan hệ được thụ hưởng số tiền bảo hiểm, công ty bảo hiểm thường xuyên

chi trả, đền bù số tiền lớn cho cùng một khách hàng... Đặc biệt hơn, hành vi rửa tiền

nhắm tới các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vì chúng dễ có cơ hội trục lợi bảo hiểm

hơn.

- Rửa tiền bằng cách buôn lậu tiền măt số lượng lớn (bulk cash smuggling):

Tiền bẩn và tài sản phi pháp có thể được bọn tội phạm giấu vào các phương tiện đi

lại, các tàu chở hàng hóa, trong các túi hành lý, những thùng đóng gói chuyển phát

nhanh, trên các máy bay, du thuyền riêng… Tại các điểm giáp ranh các quốc gia

như sân bay, hải quan,… tình hình kiểm tra hành lý đối với những người nhập cảnh

chặt chẽ hơn so với những người xuất cảnh do lo ngại nguy cơ bọn khủng bố đem

vũ khí vào trong nước. Chính vì thế, việc kiểm soát tiền, tài sản mang ra nước ngoài

chưa thực sự được tổ chức thực hiện một cách hiệu quả. Hoạt động buôn lậu tiền

như vậy có thê được bọn tội phạm lách bằng cách thực hiện qua đường bộ, đường

biển hoặc đường hàng không. Đặc biệt việc chuyển tiền tại các khu vực biên giới

giữa các nước diễn ra rất nhiều. Thực tế cho thấy tại các khu vực cửa khẩu còn xuất

hiện những đường hầm để chuyển tiền, rất thuận tiện cho việc qua mặt các cơ quan

chức năng.

- Rửa tiền qua kênh chuyển tiền “chợ đen” (informal transfer value systems):

Đây là một kênh chuyển tiền đã có từ rất lâu và chủ yếu dựa vào lòng tin cũng như

uy tín của các bên. Lúc ban đầu, đây là một hình thức chuyển tiền hợp pháp phục

15

vụ những cộng đồng nhỏ thường xuyên giao dịch với nhau. Một số kênh chuyển

tiền được coi là trung tâm chuyển tiền như Phoe Kuen của Thái Lan, Hundi ở Nam

Á, Fei Chi’en của Trung Quốc. Bọn tội phạm rửa tiền thường xuyên dùng kênh này

để rửa, chuyển tiền, tài sản phạm tội vì chúng ít minh bạch, chi phí cho các phi vụ

này thường rất thấp và hình thức này thì xuất hiện ơ những nơi mà công cụ tài chính

hiện đại chưa có, hoặc là khó sử dụng. Thực tế chỉ cần trong vài giờ đồng hồ là một

giao dịch được thực hiện thành công.

- Rửa tiền qua hệ thống thanh toán trực tuyến: Cùng với sự bùng nổ mang tính

toàn cầu của mạng Internet, việc phát triển những dịch vụ thanh toán mới và tân tiến

đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán nhanh chóng và thuận tiện cho các thương gia.

Tuy nhiên bọn tội phạm tranh thủ những kẽ hở của pháp luật tại một số nước để

lách luật, tiến hành rửa tiền xuyên quốc gia. Trong giai đoạn thứ hai là giai đoạn

phân loại, chia nhỏ thì đây chính là hình thức thuận tiện nhất. Thực tế có rất nhiều

nhà cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tuyến không để lộ các thông tin cá nhân

của các chủ tài khoản online như paypal, e-gold. Mọi người có thể sử dụng tài

khoản ngân hàng đã có, thẻ tín dụng, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền và thậm chí

cả tiền mặt để tạo nên các tài khoản thanh toán trực tuyến trên các trang mua sắm.

Khi đã có tài khoản online thì mọi người có thể dễ dàng thanh toán qua mạng để

mua bán các hàng hóa, tài sản kể cả tài sản có giá trị lớn. Các giao dich đó lại rất dễ

dàng diễn ra trên toàn cầu. Hiện nay mới chỉ có các công ty cung cấp dịch vụ đưa ra

các điều khoản quy định cho các chủ tài khoản mà chưa hề có sự can thiệp của cơ

quan nhà nước nên rất khó kiểm soát. Do đó bọn tội phạm hoàn toàn có thể thực

hiện các giao dịch chồng chéo lên nhau và rất khó để nhận ra dấu vết nguồn gốc của

đồng tiền.

- Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng: Các ngân hàng luôn là đối tượng chính của

bọn tội phạm rửa tiền vì ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ và phương

tiện tiền tệ rất đa dạng như séc, chi phiếu, séc du lịch và đặc biệt là chuyển tiền liên

ngân hàng. Ngày nay các nước rất phát triển cùng hệ thống ngân hàng rất hiện đại

và tiên tiến rất dễ bị lợi dụng bởi bọn tội phạm rửa tiền trong việc thanh toán và

thực hiện các giao dịch qua hệ thống ngân hàng trên toàn cầu. Hệ thống ngân hàng

16

được coi là cửa ngõ cho các dòng tiền đi vào nên cũng chính là cửa ngõ chính của

hoạt động rửa tiền. Khi một lượng tiền bẩn đã thâm nhập vào một ngân hàng nào đó

thì nó có thể dễ dàng được luân chuyển trong các định chế tài chính khác. Ở đây

ngân hàng được hiểu là các ngân hàng thương mại, các hiệp hội cho vay và tiết

kiệm, các hiệp hội tín dụng. Thời gian trước, khi thực hiện giao dịch qua ngân hàng

người ta mới chỉ biết đến các giao dịch qua giấy tờ, lúc ấy vẫn có sự tương tác trực

tiếp giữa khách hàng và cán bộ ngân hàng. Hơn nữa hệ thống ngân hàng khi đó vẫn

chỉ cho phép thanh toán giữa các ngân hàng nội địa với nhau mà không tiếp nhận

thanh toán trực tiếp giữa các ngân hàng quốc tế với nhau nếu như ngân hàng đó

không có chi nhánh hay đại lý ở nước kia. Chính điều này cũng gây trở ngại đôi chỗ

cho bọn tội phạm muốn tiến hành rửa tiền xuyên lục địa. Nhưng trong những năm

gần đây, kiểu thanh toán truyền thống đã được chuyển đổi sang kiểu thanh toán điện

tử cùng với sự phát triển như vũ bão của hệ thống Internet Banking tại các ngân

hàng đã mang đến cho bọn tội phạm nhiều cơ hội hơn trong việc rửa tiền. Các ngân

hàng trên toàn thế giới với những thay đổi chóng mặt về công nghệ đã có thể dễ

dàng kết nối với nhau, khách hàng có thể truy cập vào tài khoản qua mạng, điều này

cũng giúp cho tội phạm có cơ hội thực hiện các giao dịch rửa tiền dễ dàng hơn.

1.1.3. Hậu quả của vấn nạn rửa tiền

Rửa tiền không chỉ là vấn đề của các thị trường tài chính hàng đầu thế giới mà

ngay cả các quốc gia đang trong quá trình hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế

cũng không tránh khỏi. Đặc biệt khi các thị trường mới nổi mở cửa nền kinh tế và

lĩnh vực tài chính thì họ dể dàng trở thành mục tiêu của các hoạt động rửa tiền. Nói

cách khác rửa tiền là hành động gây vẩn đục nền kinh tế. Rửa tiền có thể tàn phá

thành quả kinh tế của một quốc gia. Bằng những thủ đoạn tinh vi, các băng đảng tội

phạm tìm cách hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm của mình -

những đồng tiền bất chính một "nguồn gốc sạch sẽ". Những hoạt động này đã gây

ra những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế vĩ mô nói chung và lĩnh vực tài chính

nói riêng. Dưới đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những hậu quả cụ thể của nạn rửa

tiền:

1.1.3.1. Các thị trường kinh tế mới nổi rất dễ bị tổn thương

17

Do xuất hiện các hoạt động phạm tội dẫn đến có một lượng tiền bẩn cần được

“rửa” dẫn đến tội phạm rửa tiền xuất hiện. Thời gian đầu tội phạm rửa tiền xuất hiện

và hoạt động mạnh mẽ ngay tại các trung tâm kinh tế và tài chính, nơi mà những

đồng tiền bẩn đó được tạo ra. Tuy nhiên, nạn rửa tiền không chỉ là vấn đề của các

thị trường tài chính lớn và Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là vấn đề hết sức

nan giải với các thị trường tài chính mới nổi. Cùng với việc phát triển của tình hình

kinh tế, các quốc gia xuất hiện rửa tiền cũng hình thành hệ thống pháp luật để ngăn

chặn tội phạm rửa tiền, do đó bọn tội phạm sẽ ngay lập tức tìm cách thâm nhập vào

thị trường các quốc gia mới nổi, nơi có rất nhiều tiềm năng để phát triển, đang

mong mỏi, chờ đợi các khoản đầu tư quốc tế vào nước mình. Bên cạnh đó, những

nước đó cũng có hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo và chưa xây dựng được những

biện pháp hữu hiệu để phòng chống nạn rửa tiền. Chúng đang gia tăng việc đầu tư

có tổ chức vào bất động sản, kinh doanh thương mại trong những thị trường này, rõ

ràng không phải là mục tiêu lợi nhuận mà là nhằm che giấu nguồn gốc thực của tiền

phi pháp để tạo ra một vỏ bọc hợp pháp cho đồng tiền. Vì vậy các thị trường mới

nổi rất dễ bị lợi dụng và dẫn đến tổn thương.

1.1.3.2. Khu vực kinh tế tư nhân bị suy yếu

Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa tiền là

ở khu vực kinh tế tư nhân. Bọn tội phạm thường thành lập các công ty vỏ bọc, ngụy

trang dưới bóng các công ty tư nhân, dùng để trộn lẫn các khoản tiền hợp pháp và

phi pháp vì ở hầu hết các nước, việc thành lập các công ty tư nhân ít có sự kiểm soát

chặt chẽ về mặt nguồn vốn. Việc trộn lẫn tiền bẩn và tiền sạch đã làm mất dấu của

tiền bẩn khiến các cơ quan thẩm quyền khó tìm ra được nguồn gốc thực sự của nó.

Việc này đã khiến cho các công ty trong nước cùng ngành bị yếu thế hơn về lợi thế

cạnh tranh với các công ty vỏ bọc này. Vì các công ty này không nhằm vào lợi

nhuận mà chủ yếu để chúng rửa tiền nên chúng thường vẫn tiến hành sản xuất

nhưng với lượng tiền bẩn sẵn có, chúng sẵn sàng đưa sản phẩm ra thị trường với giá

cả thấp hơn hẳn so với giá thị trường để có thể có những chứng từ chứng minh cho

nguồn gốc đồng tiền. Điều này gây ra một cuộc cạnh tranh không lành mạnh trên thị

trường và đe dọa đến hoạt động kinh doanh và sản xuất của những doanh nghiệp

18

làm ăn hợp pháp. Việc này sẽ làm đảo lộn thị trường khu vực và nhiều công ty hợp

pháp sẽ có thể phải phá sản vì không thể cạnh tranh nổi với các công ty vỏ bọc này.

1.1.3.3. Thị trường tài chính bị suy yếu.

Những tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền phi pháp sẽ gặp rất nhiều bất

lợi trong việc quản lý các nguồn tài sản, các khoản nợ khi những đồng tiền bẩn này

được đưa vào thị trường. Giả dụ một khoản tiền lớn cần chuyển hóa được chuyển

vào tài khoản ngân hàng nhưng sau đó lại biến mất đột ngột mà không hề thông báo

qua sự chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường như

những hoạt động nhằm thực thi pháp luật, chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn cho

các ngân hàng về khả năng thanh khoản và các hoạt động khác nữa. Các ngân hàng

nói riêng và cá định chế tài chính nói chung sẽ dẫn tới bị rối loạn khi xảy ra những

cú sốc đột ngột như vậy. Các định chế tài chính này có thể dẫn đến hậu quả sẽ bị rơi

vào tình trạng phá sản.

1.1.3.4. Các chính sách kinh tế bị mất kiểm soát

Theo ông Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF) đã dự tính rằng quy mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng

sản lượng quốc nội toàn thế giới. Tại một số quốc gia có thị trường mới nổi, những

khoản tiền phi pháp này làm cho ngân khố của Chính phủ bị thu nhỏ lại, kết quả là

Chính phủ mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế. Trong thực tế có nhiều trường

hợp rửa tiền gây ra một số lượng khổng lồ tài sản phi pháp và những tài sản này có

thể được sử dụng để làm lũng đoạn thị trường trong khu vực, thậm chí cả những nền

kinh tế nhỏ. Nạn rửa tiền có thể làm gia tăng sự bất ổn của đồng tiền do không xác

định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và hàng hóa. Nó cũng

có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì bọn tội phạm rửa tiền tái

đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có khả năng bị phát hiện ra hơn

là những nơi mà có tỷ lệ lợi nhuận cao. Chính vì thế các cơ quan chức năng sẽ rất

khó khăn trong việc xác định được những thay đổi về nhu cầu tiền tệ và sự biến đổi

gia tăng của các nguồn vốn. Điều này dẫn đến mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia

không được thực hiện đúng.

19

1.1.3.5. Kinh tế bị sai lệch và mất ổn định

Hậu quả của nạn rửa tiền và tội phạm tài chính là những thay đổi không lường

trước được của nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn quốc tế, tỷ

lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Sự mất kiểm soát của nền kinh tế và bản chất khó

lường của nạn rửa tiền khiến cho nền kinh tế bị sai lệch và bất ổn. Bọn tội phạm rửa

tiền sẽ chỉ đầu tư vốn vào các hoạt động có lợi cho mục đích của chúng mà không

cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh tế ở những quốc gia đang giữ các khoản tiền

bẩn đó. Mặt khác bọn tội phạm này còn chuyển vốn từ những dự án đầu tư lành

mạnh sang những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao che giấu được các khoản

bất chính kia nên sự tăng trưởng kinh tế chắc chắn bị tổn hại. Điều này cũng có thể

gây ra những cơn sốt đầu tư ảo trên thị trường khi mà những ngành này thực sự

chẳng có tiềm năng và không có giá trị phát triển cho nền kinh tế tại thời điểm đó.

Cho đến khi việc đầu tư vào những ngành này không còn phù hợp cho hoạt động

rửa tiền của bọn tội phạm nữa thì chúng sẽ bị loại bỏ và gây ra những sụp đổ, thiệt

hại kinh tế cho quốc gia đó.

1.1.3.6. Ngân sách quốc gia bị tổn hại

Xét về bản chất, rửa tiền là che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của một khoản

tiền và hiển nhiên đi kèm với nó la hành vi trốn thuế. Trong khi thuế là nguồn thu

chủ yếu của chính phủ nên các doanh nghiệp trốn thuế sẽ đồng nghĩa với việc làm

cho chính phủ nước đó thất thu một lượng lớn. Thêm một khoản tiền bất hợp pháp

được rửa sạch là chính phủ mất một khoản thuế trên thu nhập đó. Mặt khác, để giải

quyết hậu quả do nạn rửa tiền gây ra, chính phủ các nước lại phải buộc chi ngân

sách để thực hiện các yêu cầu về thực thi pháp luật, tăng những chi phí cho việc

chăm sóc sức khỏe cộng đồng (điều trị cho người nghiện ma túy,…) Bên cạnh đó,

chính phủ còn phải chi cho những hoạt động để khắc phục những hậu quả mà nạn

rửa tiền gây ra.

1.1.3.7. Những nỗ lực tư nhân hóa có thể bị rủi ro

Những quốc gia muốn thực hiện cải cách nền kinh tế của mình bằng việc thực

hiện tư nhân hóa nền kinh tế sẽ bị hoạt động rửa tiền đe dọa. Vì thông qua việc rửa

20

tiền, bọn tội phạm có nhiều tiền hơn để trả giá rất cao cho việc mua lại Doanh

nghiệp nhà nước hơn là những cá nhân dùng tiền hợp pháp còn lại. Nhà nước tiến

hành tư nhân hóa nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng và hiệu quả hơn cho các

doanh nghiệp nhưng có lẽ mục tiêu này khó mà thực hiện được khi việc nắm quyền

doanh nghiệp lại rơi vào tay bọn tội phạm rửa tiền. Những kẻ rửa tiền thường mua

lại những bến cảng, du thuyền, khách sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những

khoản tiền bất chính và đẩy mạnh những hoạt động tội phạm của chúng. Chính vì

thế nên việc khởi đầu của tư nhân hóa cùng với việc mang lại lợi ích kinh tế thì lại

vô tình làm phương tiện tiếp tay cho việc rửa tiền của bọn tội phạm.

1.1.3.8. Danh tiếng có nguy cơ bị tổn hạn

Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay, nạn rửa tiền đã phát triển rộng rãi với

phạm vi toàn cầu thì việc chống lại nó không phải là nhiệm vụ của riêng từng quốc

gia nữa mà đây là một mặt trận chung toàn cầu cần sự góp sức của mọi quốc gia,

mọi tổ chức. Các quốc gia đều được khuyến cáo yêu cầu phải đặt ra các khung pháp

lý, các biện pháp cụ thể để phòng chống rửa tiền. Nếu một quốc gia bị cho là có

dính líu đến hành vi rửa tiền, tội phạm tài chính thì quốc gia đó sẽ bị mang tiếng

xấu và bị giảm đi những cơ hội hợp tác hợp pháp và tăng trưởng bền vững. Bên

cạnh đó các nước đó còn thu hút những tổ chức tội phạm quốc tế với những mục

tiêu ngắn hạn. Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những

công ty tài chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế thanh danh khi mà cả thế

giới đều tuyên chiến với rửa tiền, nếu một quốc gia bị coi là đồng minh cua tội

phạm loại này sẽ bị mất đi thiện chí hợp tác của các quốc gia khác, có thể dẫn tới

tình trạng bị các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về sự bất ổn kinh tế của quốc gia đó

nên sẽ dè dặt trong việc đầu tư hoặc thậm chí có thể bị tẩy chay.

1.1.3.9. Gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội

Tội phạm rửa tiền phát triển kéo theo nhiều loại tội phạm khác cũng phát triển

theo như buôn ma túy, buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế, tội phạm tài chính tài trợ

cho các hoạt động khủng bố. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những

kẻ phạm tội. Nó cho phép những kẻ buôn bán ma túy, những tên buôn lậu và những

21

kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm chính phủ tại các nước đó

phải tăng chi phí để chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền đó gây

ra, như các yêu cầu về việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí cho việc

chăm sóc sức khỏe cộng đồng… Bên cạnh đó, sự phát triển của những loại tội phạm

này không chỉ đe dọa đến nền kinh tế mà còn đe dọa đến cả chính trị và xã hội.

Buôn bán ma túy gây ra tình trạng nghiện ngập dẫn đến nhiều tệ nạn như trộm cắp;

buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế làm lũng đoạn thị trường; tội phạm khủng bố gây ra

chiến tranh và những cuộc thảm sát không đáng có gây mất đoàn kết và tình bằng

hữu giữa các quốc gia. Việc rửa tiền còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, từ

mọi người dân và từ chính phủ sang bên bọn tội phạm. Rửa tiền còn gây ra nạn

tham nhũng của mọi bộ phận, tầng lớp nhân dân trong xã hội dẫn đến mọi quyền lực

lại nằm trong tay bọn tội phạm này, trong tường hợp nghiêm trọng nó có thể dẫn

đến việc tội phạm nắm giữ Chính phủ hợp pháp. Nhìn chung, tội phạm rửa tiền

không trực tiếp gây ra những tội ác kinh hoàng có thể nhìn thấy nhưng nó lại đem

lại hậu quả nghiêm trọng cho mọi quốc gia. Nó đặt ra cho cộng đồng chung thế giới

những thử thách khó khăn và phức tạp. Tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi hỏi

phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế để các quốc gia tuân theo một cách

thống nhất và nghiêm túc nếu như chúng ta muốn giảm khả năng rửa tiền của

chúng.

1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng chiếm tỉ trọng lớn trong các cách thức mà tội

phạm tài chính sử dụng để rửa tiền. Đặc biệt ngày nay, các ứng dụng khoa học công

nghệ kỹ thuật tiên tiến rất phát triển và được áp dụng rộng rãi trong các giao dịch

ngân hàng, cộng với việc rửa tiền qua ngân hàng thu được những món lời khổng lồ,

thì ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng quốc tế được xem như là một “cỗ máy rửa

tiền” thuận lợi nhất. Vì thế, ngành ngân hàng đang phải ý thức được đầy đủ về vai

trò của mình trong công cuộc phòng chống rửa tiền trên toàn thế giới.

Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng tự nhận thấy rằng, bản thân khi họ tiến hành

các hoạt động biện pháp nhằm ngăn chặn việc rửa tiền không chỉ là những nguyên

tắc mang tính chất bắt buộc mà còn là lợi ích thiết thực đối với chính bản thân ngân

22

hàng đó. Các ngân hàng và tổ chức tài chính là những nơi dễ bị bọn tội phạm tài

chính lợi dụng để rửa tiền nhất trong các hình thức. Do đó ngân hàng cần luôn đi

đầu trong việc nghiên cứu, phát triển các chương trình nhằm phát hiện, ngăn chặn

việc rửa tiền. Rửa tiền cũng như các hoạt động phạm tội khác như lừa đảo, in tiền

giả, buôn lậu ma túy, hối lộ,… làm suy yếu danh tiếng của các tổ chức tài chính,

ngân hàng đó. Một ngân hàng đã có vết nhơ do việc rửa tiền sẽ bị các cơ quan ban

hành văn bản quy định buộc tội, bị các cơ quan chấp hành pháp luật trừng trị và bị

giới báo chí lên án mạnh mẽ trên toàn thế giới.

1.2.1. Các giai đoạn rửa tiền qua ngân hàng

Tội phạm rửa tiền có thể cố gắng sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của ngân

hàng để đưa khoản tiền thu được từ các hoạt động phạm tội vào hệ thống ngân hàng

và ngụy trang nguồn gốc và quyền sở hữu của khoản tiền đó (thường là thông qua

các giao dịch phức tạp) để khoản tiền này xuất hiện như là một khoản tiền có nguồn

gốc hợp pháp. Theo truyền thống, rửa tiền là một quy trình được mô tả qua 3 giai

đoạn khác nhau. Trong đó, ngân hàng có thể chịu nguy cơ rửa tiền ở bất kì khâu nào

trong những giai đoạn này.

Trong quá trình thực hiện chương trình chống rửa tiền, các ngân hàng đã tìm

hiểu và phân chia quy trình rửa tiền qua các ngân hàng thông thường có 3 giai đoạn,

mỗi giai đoạn đều độc lập và có liên hệ với một đơn vị tài chính khác nhau.

Cụ thể, các công đoạn rửa tiền được triển khai thực hiện chủ yếu như sau:

- Giai đoạn 1: Đưa vào hệ thống – là giai đoạn tiền bẩn hay tiền thu được từ

hoạt động phạm tội được đưa vào các hệ thống tài chính, ngân hàng. Đây là giai

đoạn trực tiếp phân bổ lượng tiền mặt thu được từ những hoạt động phạm pháp. Bọn

tội phạm tách các khoản tiền lớn thành các giao dịch nhỏ hơn để tránh bị chú ý và

phát hiện khi gửi tiền vào ngân hàng (hoạt động này thường được gọi là chia nhỏ)

- Giai đoạn 2: Phân tầng – là giai đoạn các khoản tiền sau khi được đưa và hệ

thống sẽ được luân chuyển qua hàng loạt giao dịch hoặc hoạt động để tạo khoảng

cách giữa những khoản tiền này với nguồn gốc bất hợp pháp thực sự của chúng.

Giai đoạn này chính là giai đoạn tạo vỏ bọc, tách những khoản tiền bất hợp pháp

23

khỏi nguồn gốc của chúng bằng cách tạo nên một loạt những vỏ bọc phức tạp dưới

hình thức các giao dịch tài chính để cản trở việc kiểm toán dấu vết, che đậy nguồn

gốc của những khoản tiền đó và làm mai danh ẩn tích nguồn gốc xuất xứ thật sự của

nó. Chúng có thể dùng hình thức chuyển khoản tiền qua hàng loạt các tài khoản tại

các ngân hàng khác nhau trên khắp thế giới. Chúng chuyển tiền qua nhiều quốc gia

và tạo ra hàng loạt các giao dịch tài chính phức tạp để che giấu hành trình di chuyển

của các khoản tiền và cắt đứt liên kết với tội phạm ban đầu.

- Giai đoạn 3: Kết hợp – Tiền được quay trở lại với kẻ phạm tội từ nguồn gốc

tưởng chừng như hợp pháp. Đây còn gọi là giai đoạn hợp thức hóa. Giai đoạn này

đưa các khoản tiền đã được rửa trở lại hệ thống lưu thông trong nền kinh tế theo

cách thức giống như các khoản tiền này là kết quả của các hoạt động kinh tế hợp

pháp. Chúng bán tài sản đã được rửa và đầu tư tiền vào một doanh nghiệp mới.

Chúng tái đầu tư các khoản tiền sạch vào các sản phẩm của ngân hàng mà thậm chí

không cần rút tiền ra.

Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động rửa tiền qua ngân hàng của bọn tội phạm

rất đa dạng, phức tạp và được triển khai thực hiện qua nhiều công đoạn. Vì vậy, vấn

đề phòng chống rửa tiền không chỉ là hoạt động riêng của bất kỳ ngân hàng nào mà

là sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ngành, giữa ngân hàng Trung ương và các ngân

hàng thương mại và giữa các phòng ban trong nội bộ ngân hàng thương mại.

1.2.2. Dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Các thủ thuật mà bọn tội phạm sử dụng để che giấu nguồn gốc và mục đích

của các quỹ của chúng liên tục được thay đổi và biến hóa. Mặc dù khó có thể liệt kê

hết các giao dịch và hành vi mà Ngân hàng nên cảnh giác, có một số dấu hiệu để

nhận biết những hoạt động đáng ngờ tiềm ẩn. Những dấu hiệu này được xem là dấu

hiệu cảnh báo. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu các dấu hiệu của hoạt động rửa

tiền qua hệ thống ngân hàng ta có thể chia thành các dấu hiệu sau:

- Thứ nhất là thông qua danh sách những đối tượng khách hàng đặc biệt:

Những đối tượng khách hàng đặc biệt là những đối tượng khách hàng được

xem là có rủi ro cao về tội phạm tài chính. Những người này bao gồm các quan

24

chức công quyền và các cá nhân, các tổ chức có liên quan đến họ cũng như những

đối tượng đặc biệt khác. Các quan chức công quyền và các cá nhân và tổ chức có

liên quan đến họ được gọi là Những người có ảnh hưởng về chính trị (PEP)

Công chức:

+ Người đứng đầu Nhà nước đang đương nhiệm hay người đã từng giữ chức

vụ này

+ Chính trị gia nổi tiếng đang đương nhiệm hay người đã từng giữ chức vụ này

+ Các quan chức cấp cao của các Đảng chính trị hoặc các doanh nghiệp công

nhà nước

+ Các viên chức và sỹ quan cao cấp trong quân đội

Các cá nhân và tổ chức có liên quan:

+ Gia đình trực hệ, chẳng hạn như vợ/chồng, cha/mẹ và anh/em

+ Trợ lý và các cố vấn thân cận khác

+ Cộng sự kinh doanh và các doanh nghiệp mà cá nhân có lợi ích hoặc có ảnh hưởng

Đối tượng khách hàng đặc biệt khác:

+ Các công ty có dịch vụ liên quan đến tiền tệ hoặc hối đoái, chuyển tiền hoặc

dịch vụ kí séc lấy tiền mặt

+ Sòng bạc và các loại hoạt động đánh bạc hoặc trò chơi khác, bao gồm cả các

hoạt động đánh bạc hoặc trò chơi trực tuyến

+ Các công ty tham gia sản xuất, phân phối vũ khí hoặc các sản phẩm quân sự khác

+ Các hội từ thiện, các tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức phi chính phủ có

rủi ro cao

+ Các cơ quan tổ chức do nhà nước hay chính phủ sở hữu có rủi ro cao

+ Các cá nhân sở hữu, điều hành hay có quyền kiểm soát đáng kể đối với bất

kì loại hình doanh nghiệp nào trong số này.

25

Trên đây là danh sách nhóm các Khách hàng đặc biệt có nguy cơ cao lợi dụng

ngân hàng để rửa tiền vì thế các ngân hàng đều hết sức thận trọng với những khách

hàng này. Công chức và những người và tổ chức có liên quan của họ, có rủi ro cao

tham gia vào hối lộ, tham nhũng, và tiếp xúc với tiền có nguồn gốc tội phạm do vị

thế và tầm ảnh hưởng của họ hoặc do họ có liên hệ với những người có vị thế và

tầm ảnh hưởng.

- Thứ hai là thông qua thái độ của khách hàng khi cung cấp thông tin:

Ngân hàng hoàn toàn có đủ cơ sở để nghi ngờ bất cứ một khách hàng nào có

thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông tin, chứng từ thông thường theo quy

định của ngân hàng trong một quan hệ giao dịch cơ bản với khách hàng. Đặc biệt là

những khách hàng cung cấp ít thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc khi nộp

đơn xin mở tài khoản tại ngân hàng, khách hàng này đã cung cấp những thông tin

mà nếu muốn xác minh được những thông tin đó thì ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó

khăn hoặc phải trả chi phí khá cao.

- Thứ ba là thông qua các tài khoản giao dịch đang bị điều tra, khởi kiện

Nhân viên ngân hàng thường chú ý đến các chủ tài khoản đang bị điều tra,

khởi kiện hoặc liên quan đến các vụ án đang được xét xử tại tòa án, hoặc nằm trong

danh sách cảnh báo rửa tiền.

- Thứ tư là thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch

+ Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt, giá trị lớn

Một là, các khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào ngân

hàng, nhưng tiền rút ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các cá nhân, hay

công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng.

Hai là, gửi tiền mặt với số lượng lớn vào các tài khoản bằng cách chia nhỏ số

tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên nếu tính tổng số tất cả

các khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.

Ba là, rút tiền mặt với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới bất ngờ nhận được

một khoản chuyển tiền vô cùng lớn từ nước ngoài.

26

Bốn là, thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn, mà số tiền này

dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng.

Năm là, mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù khách

hàng có tài khoản của ngân hàng.

+ Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế:

Các giao dịch này có đặc điểm không phù hợp với các hoạt động thông thường

của khách hàng. Ví dụ như xuất hiện các giao dịch qua các tài khoản mà trước đó

chúng hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện giờ lại có rất nhiều giao dịch

một cách bất thường mà chủ tài khoản này không đưa ra được sự giải thích hợp lý

cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao. Hoặc như việc sử dụng thư tín

dụng và một số biện pháp tài chính thương mại của doanh nghiệp để chuyển tiền từ

quốc gia này sang quốc gia khác. Nhưng việc chuyển tiền này lại không hề phù hợp

với các hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng.

+ Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có những đặc

điểm bất thường:

Một là, các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau

về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một thời gian rất

ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản khác nhau.

Hai là, tài khoản bất ngờ có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều

này thể hiện ở việc doanh số giao dịch trên tài khoản được thay đổi đột biến. Tổng

doanh số giao dịch bỗng nhiên rất lớn trong một thời gian ngắn nhưng thực tế số dư

tài khoản lại rất nhỏ

+ Các giao dịch có liên quan đến hoạt động đầu tư

Một là, các doanh nghiệp có vốn đầu tư đến từ mảng vốn đầu tư nước ngoài,

có nguồn gốc từ các nước có tỷ lệ tội phạm cao như: Ý, Ma cao, Nga,… hoặc từ các

nước có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền còn yếu kém như các nước

thuộc Châu Phi.

27

Hai là, hoạt động mua bán chứng khoán không phù hợp với vị thế hiện tại của

khách hàng, hoặc khách hàng đầu tư chứng khoán bằng tiền mặt một cách khác

thường với số lượng lớn.

+ Các giao dịch liên quan đến các điện chuyển tiền ra nước ngoài

Trên thế giới hiện nay các hoạt động kinh doanh đang có bối cảnh toàn cầu

hóa nên các giao dịch có liên quan đến chuyển tiền ra nước ngoài là rất phổ biến.

Chính vì thế nên bọn tội phạm rửa tiền rất hay lợi dụng sơ hở của nhân viên ngân

hàng để chuyển tiền bẩn ra nước ngoài. Trong số các giao dịch chuyển tiền ra nước

ngoài đó, cũng có những giao dịch với mục đích bất thường. Hầu hết các ngân hàng

đều phải đào tạo các nhân viên có thể nhận biết được qua mục đích, tính chất của

việc chuyển tiền. Một số dấu hiệu điển hình có thể là dấu hiệu của hành vi “rửa

tiền” qua hình thức này là:

 Một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không có lý do gì

hợp pháp

 Một khách hàng chuyền tiền tới chi nhánh nước ngoài, công ty con, hoặc

ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và mua

bán ma túy thường xuyên diễn ra. Hoặc thậm chí còn chuyển tiền đến những nước

bị cấm vận trên thế giới.

1.3. Hệ thống ngân hàng và phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng.

1.3.1. Tính cấp thiết của phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Lượng tiền có nguồn gốc không trong sạch đổ vào các nền kinh tế mỗi năm

khoảng 1.000 tỷ USD, tương đương 5% GDP toàn cầu, có khả năng làm sụp đổ hệ

thống tài chính bất cứ lúc nào. Các nước trên thế giới bắt đầu hợp tác phòng chống

rửa tiền từ năm 1989, khi cho ra đời cơ quan chuyên trách có tên FATF (Financial

Action Task Force on money laundering, tức Lực lượng đặc nhiệm tài chính về

chống rửa tiền). Các chuẩn mực về phòng chống rửa tiền đã được ngân hàng thế

giới (WB) và FATF khuyến nghị nhằm hướng đến việc "tiêm vắc xin" phòng ngừa

là chính chứ không đi tìm bệnh để diệt.

28

Hiện nay, các nước đã triển khai các biện pháp về chống rửa tiền trong hệ

thống các tổ chức tài chính. Cụ thể, mỗi tổ chức tài chính đều có một ban chỉ đạo

chống rửa tiền và các quy định riêng về chống rửa tiền.

Thực tế, công tác phòng, chống rửa tiền, chống khủng bố trong ngành ngân

hàng là rất quan trọng, góp phần ổn định hoạt động ngân hàng nên cần được thường

xuyên triển khai thực hiện.Vì vậy, các ngân hàng cần xây dựng quy định, phương

án cụ thể về phòng, chống khủng bố và xử lý các tình huống liên quan tại đơn vị

phù hợp với phương án phòng, chống khủng bố trong ngành ngân hàng.

Theo đó, công tác phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố phải lấy

phòng ngừa là chính, vô hiệu hóa mọi kế hoạch không để bị động bất ngờ. Bảo đảm

đến mức cao nhất an ninh, an toàn về người và tài sản và hoạt động ngân hàng, hạn

chế đến mức thấp nhất thiệt hại xảy ra. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành

động khủng bố, tài trợ cho khủng bố…

Được biết, công tác phòng, chống rửa tiền, chống khủng bố, tài trợ khủng bố

trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay,hầu hết các ngân hàng và một số tổ chức tín dụng

đã xây dựng quy định, phương án cụ thể về phòng, chống khủng bố và xử lý các

tình huống liên quan.

Theo đó, ngành ngân hàng đã tiến hành điều tra, xác minh một số đối tượng có

giao dịch qua hệ thống ngân hàng nghi tài trợ cho khủng bố. Từ đó tổ chức thanh

tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định liên quan đến phòng, chống

khủng bố, tài trợ khủng bố.

1.3.2. Hệ thống ngân hàng.

Tại hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được chia

thành hai cấp: cấp 1 là ngân hàng trung ương, cấp 2 là ngân hàng trung gian.

1.3.2.1. Cấp I - Ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng,

nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Hiện nay, các nước trên thế giới dù lớn

hay nhỏ đều có ngân hàng trung ương, nó có thể được xây dựng ngay sau khi hình

29

thành quốc gia, hoặc có thể có nguồn gốc từ các ngân hàng thương mại tư nhân

được quốc hữu hóa.

1.3.2.2. Cấp II - Ngân hàng trung gian

Thuật ngữ “ngân hàng trung gian” dùng để ám chỉ nhiều loại ngân hàng. Tùy

theo mỗi quốc gia, các loại ngân hàng này có thể có những tên gọi khác nhau,

nhưng nhìn chung hệ thống ngân hàng trung gian gồm có: ngân hàng thương mại,

ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng đặc biệt, các định chế tài chính trung gian

phi ngân hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngân hàng trung gian thực

hiện các chức năng cơ bản như sau:

Thứ nhất là trung gian tín dụng, vì ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng gửi

tiền và vay tiền, ngân hàng chuyển hóa những khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm, tài sản

tạm thời chưa sử dụng của một số chủ thể kinh tế này đến tay chủ thể kinh tế khác

đang cần tiền để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Với chức năng trung gian tín

dụng, ngân hàng trung gian là một thiết chế kinh doanh chuyên nghiệp, giúp cho

cung cầu tín dụng trong nền kinh tế có thể dễ dàng gặp nhau.

Thứ hai là trung gian thanh toán. Theo chức năng này, ngân hàng trung gian

thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản

tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền

gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Để

thực hiện tốt chức năng này, ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện

thanh toán tiện lợi như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,

thẻ tín dụng... Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức

thanh toán phù hợp.

Thứ ba là trung gian giữa ngân hàng trung ương và nền kinh tế. Thông qua

ngân hàng trung gian, tiền mặt từ ngân hàng trung ương cung ứng ra lưu thông và

việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ tác động trực tiếp đến

nền kinh tế. Cũng thông qua ngân hàng trung gian, tình hình về nhu cầu tiền, tổng

cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, gian lận thương mại, đặc biệt là việc lợi dụng hệ thống

ngân hàng để tiến hành rửa tiền được phản hồi về ngân hàng trung ương.

30

1.3.3. Phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.

Với những tác hại to lớn của việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến hành

rửa tiền, nhìn chung, các quốc gia phát triển đều đã thực hiện phương thức phòng,

chống rửa tiền như sau:

- Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền. Hiện

nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. Thời

gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy mô, mức độ tác hại

của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng, chống rửa tiền ở các nước

có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến việc tuân thủ các khuyến nghị

của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ

chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng; (iv) Quy định mức giao

dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách nhiệm,

quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Thành lập cơ quan

chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho

mình một cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Nhiệm vụ của cơ quan

này là giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt

động cơ bản:

 Mô hình thứ nhất, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ máy

Chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung ương, trợ giúp chính phủ thực hiện

công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng giám sát thi

hành Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức năng thu thập các

thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ và đề xuất các

biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền.

 Mô hình thứ hai, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc lập

với bộ máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong bộ máy

chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Ở các

nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm nổi bật của mô hình

này là đảm bảo sự độc lập, khách quan trong điều tra rửa tiền.

31

- Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại.

Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro. Nhìn chung, các ngân hàng thương mại coi

việc đánh giá và phân loại khách hàng là việc làm hàng đầu. Việc đánh giá và phân

loại khách hàng có ý nghĩa quan trọng quyết định, vì thông qua đây, ngân hàng

thương mại sẽ có các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Thông thường các ngân

hàng thương mại trên thế giới thường phân khách hàng thành 3 loại như sau:

Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền

Phân loại khách hàng Mức độ giám sát

Khách hàng có rủi ro cao Kiểm tra giám sát thường xuyên và bắt buộc trong

việc tìm hiểu thông tin về khách hàng.

Khách hàng rủi ro trung bình Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thường và tìm

hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu.

Khách hàng rủi ro thấp Kiểm tra giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi hỏi

những thông tin thông thường về khách hàng

Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà Nội

 Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ

Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa tiền

được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của từng quốc gia. Hầu

hết các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh ... đều xem xét dấu hiệu bất

thường dựa trên mức (ngưỡng) giá trị của các giao dịch quy định (thông thường các

giao dịch có giá trị vượt mức 10.000 USD hoặc tương đương sẽ nằm trong danh

sách các giao dịch cần phải lưu ý, báo cáo). Tuy nhiên ở một số ít các quốc gia khác

lại lưu ý đến những giao dịch có dấu hiệu không bình thường thông qua tính chất,

đặc điểm giao dịch, các thông tin về khách hàng ... mà không quá quan tâm đến giá

trị giao dịch, tiêu biểu cho trường hợp này là Malaysia. Khi phát hiện về các giao

dịch đáng ngờ, nhân viên ngân hàng phụ trách sẽ tiến hành xử lý, báo cáo cấp trên

xem xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ quyết

định việc chuyển các thông tin này cho Cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để việc này

32

được tiến hành tốt, các ngân hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình báo cáo

thông tin về giao dịch này, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin khách

hàng.

 Lưu giữ hồ sơ về khách hàng

Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm chỉnh việc lưu giữ hồ sơ, thông

tin về khách hàng. Các thông tin về nhận dạng khách hàng và thông tin giao dịch

được lưu giữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của các cơ

quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác điều tra khởi tố.

Theo Luật phòng, chống rửa tiền của Malaysia, thời gian lưu giữ hồ sơ khách hàng

là 6 năm nếu không có dính líu gì đến các vụ việc khác.

- Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện các quy định hợp tác quốc

tế về phòng, chống rửa tiền. Ngày nay hành vi rửa tiền đã xuất hiện trong phạm vi

nhiều lãnh thổ quốc gia trên toàn thế giới. Bọn tội phạm không chỉ rửa tiền trong

lãnh thổ một nước mà chúng còn rất thích rửa tiền liên quốc gia từ quốc gia này

sang quốc gia khác để khó bị phát hiện và bắt giữ. Chính vì thế nên các quốc gia và

đặc biệt là các ngân hàng đang phòng tránh rửa tiền cần hợp tác với nhau để cùng

trao đổi thông tin và kinh nghiệm.

1.3.4. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền

Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã đưa ra Bản tuyên bố về ngăn ngừa tội

phạm sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền. Đây là một trong những

quy định đầu tiên của quốc tế về việc phòng chống rửa tiền. Bản tuyên bố này đưa

ra các chính sách và các thủ tục cơ bản mà giám đốc ngân hàng cần bảo đảm có sẵn

trong hệ thống tổ chức của mình để hỗ trợ cho việc chống rửa tiền.

Về cơ bản, Bản tuyên bố này có bốn nguyên tắc được đưa ra:

 Nhận dạng khách hàng đúng cách

 Tiêu chuẩn đạo đức cao và tuân thủ luật pháp

 Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật

 Các chính sách và thủ tục để bảo đảm tuân thủ Bản tuyên bố này

33

Chương trình Liên Hợp Quốc về Kiểm soát ma túy (UNDCP) đã khởi xướng

một hiệp định quốc tế về chống buôn bán ma túy bất hợp pháp và rửa tiền vì mối

quan ngại về tình trạng buôn bán ma túy bất hợp pháp trên quốc tế ngày càng tăng

và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng.

Năm 1988, Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy

và chất hướng thần (Công ước Viên) đã được thông qua, có 169 nước tham gia vào

Công ước này và có hiệu lực từ tháng 11 năm 1990. Công ước này chủ yếu đề cập

đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan

đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước không sử dụng thuật ngữ “rửa tiền”

nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình

sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán ma túy

bất hợp pháp là tội phạm nguồn và không xử lý các khía cạnh mang tính phòng

ngừa.

Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Lực

Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF) do nhóm G-7 thành lập tại Paris năm 1989.

Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và khuyến khích các tổ chức cảnh sát

trong việc chống rửa tiền. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý tưởng cho rằng

hoạt động rửa tiền là tội phạm kinh tế rất phức tạp, do đó nó không thể được kiểm

soát một cách hiệu quả bởi những phương pháp làm luật thông thường. Kết quả là

cần thiết phải tập hợp các cơ quan chức năng như: Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài

chính, Cảnh sát... để phòng, chống rửa tiền. Điều đó sẽ tạo ra sự phối hợp toàn diện

để giải quyết vấn đề phức tạp này. Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước

thành viên ban hành các quy định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng

là ban hành được Luật Chống Rửa Tiền. Theo hướng này, tháng 4 năm 1990, FATF

đã ban hành 40 khuyến nghị nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban

hành luật và thống nhất hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu

được từ hoạt động buôn bán ma tuý chuyển qua các tổ chức tài chính. Mặc dù các

gợi ý về luật pháp được đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh giá việc thực hiện

của các nước thành viên thông qua nỗ lực của từng nước trong việc ban hành các

quy định về phòng, chống rửa tiền. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các

34

trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức ngoài nhóm như: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương

về chống rửa tiền (APG), Lực lượng đặc nhiệm tài chính khu vực Caribe (CFATF),

Hội đồng châu Âu, Nhóm chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG),

Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD).

Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao dịch rửa

tiền trong giao dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực trong việc tạo

ra những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Qua việc đánh giá các

nước trong việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền, FATF đã yêu cầu các

nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải thực hiện luật

đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn đàn hợp tác phòng,

chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy các hoạt động phối hợp xuyên

quốc gia về phòng, chống rửa tiền. Một ví dụ điển hình là sự phối hợp hết sức ăn ý

giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt động rửa tiền của Tập đoàn Cali vào

những năm 1990. FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những

nước và những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền. Danh sách này được gọi là

“danh sách đen”. Mục đích của “danh sách đen” này là “chỉ tên và làm xấu hổ” các

nước được coi là thiên đường của việc rửa riền. Danh sách đen này bao gồm:

Ecuado, Iran, Pakistan, North Korea, Ethiopia, Angola, Turkmenistan, Sao Tome

and Principe. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các ngân hàng đã cắt bỏ quan

hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách trên. Mặc dù, một mặt các

nước trên đều phản đối danh sách này, mặt khác hầu hết họ đều nỗ lực ban hành

hoặc sửa đổi các luật lệ và quy định cho phù hợp với các khuyến nghị của FATF,

đồng thời tích cực hợp tác quốc tế toàn diện và thực hiện báo cáo các giao dịch đáng

ngờ để cố gắng ra khỏi danh sách trên.

1.4. Phòng chống rửa tiền ở một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam

1.4.1. Phòng chống rửa tiền tại Mỹ

- Xây dựng cơ sở pháp lý then chốt

35

Trên thế giới Mỹ là nước đầu tiên và cũng là nước có hệ thống luật pháp về

phòng chống rửa tiền nghiêm khắc, chặt chẽ và toàn diện nhất trên toàn thế giới.

Theo đó tất cả các định chế tài chính ở quốc gia đó và toàn bộ nhân viên của họ phải

tuân thủ theo hệ thống luật pháp này.

Một trong những đạo luật quan trọng nhất của Mỹ liên quan đến phòng, chống

rửa tiền là Luật Bí mật ngân hàng (BSA) ban hành năm 1970 và những quy tắc của

nó. Mục đích của BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm

rửa tiền, trốn thuế… bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những

chứng từ liên quan đến giao dịch trên 10.000 USD. (sau này, Luật được sửa đổi, cho

phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD

trong các cuộc điều tra). Luật về bảo mật ngân hàng ra đời và được áp dụng trong

một thời gian dài cho đến năm 1986, một đạo luật riêng về phòng chống rửa tiền

mới ra đời, đó chính là Luật quản lý rửa tiền (Money Laundering Control Act). Đạo

luật này thừa nhận rửa tiền là một loại tội phạm liên bang và nó có bổ sung một số

tội danh mới: cố ý dụ dỗ thực hiện giao dịch, một giao dịch lớn hơn 10.000 USD có

được từ các hoạt động phạm pháp và cố ý thực hiện các giao dịch nhằm tránh những

quy định về lưu trữ hồ sơ trong luật bảo mật ngân hàng. Đồng thời đạo luật này

cũng hướng dẫn cụ thể hơn về việc lưu trữ và báo cáo các giao dịch đáng ngờ đối

với các ngân hàng.

Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm

Luật Quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật Chống sử dụng ma tuý năm 1988,

Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992, Luật về ngăn chặn rửa tiền

Money Laundering Suppression năm 1994, Đạo luật về chống tội phạm rửa tiền và

tội phạm tài chính năm 1998, Luật USA PATRIOT năm 2001, gần đây nhất là đạo

luật về thông tin tình báo và ngăn chặn khủng bố vào năm 2004. Luật Chống rửa

tiền tại Mỹ quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân đến các tổ

chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào, và là căn cứ để

tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không tuân

thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của các

nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt

36

dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi

phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự,

người vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai. Nhìn

chung Mỹ thường xuyên bổ sung hệ thống luật pháp để có thể đối phó được với tội

phạm rửa tiền đang ngày càng phát triển tinh vi hơn. Những luật và quy định về

phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với những

thay đổi của tội phạm rửa tiền. Chính những nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp lý đã

giúp nước này đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc phòng chống rửa tiền.

- Điều tra từ các giao dịch đáng ngờ

- Phối hợp trong công cuộc phòng chống rửa tiền trên phạm vi toàn cầu

Một cách tổng quát, mục tiêu của Mỹ là tìm cách chống lại nạn rửa tiền và tài

trợ khủng bố trên tất cả các mặt trận đặc biệt là qua hệ thống tài chính đồ sộ của

nước này. Chiến lược phòng chống rửa tiền của Mỹ nhìn chung sẽ tập trung vào 3

mục tiêu chính:

 Để hiệu quả hơn, tiến hành cắt đứt sự tiếp cận hệ thống tài chính quốc tế

của tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố

 Tăng cường khả năng của chính quyền liên bang hướng đến các tổ chức

rửa tiền và các hệ thống tài trợ khủng bố

 Tăng cường và cải tiến biện pháp phòng chống rửa tiền cho các nhà cung

cấp dịch vụ tài chính để cải thiện hiệu quả những nỗ lực tuân thủ và thực thi pháp

luật để ngăn ngừa và ngăn chặn lạm dụng

Nhằm thực hiện cụ thể hóa mục tiêu đó, Mỹ đã kiểm tra rất gắt gao các tổ

chức tài chính trong việc tuân thủ các quy định của hệ thống, và thực thi rất chặt chẽ

các yêu cầu thông qua hành vi dân sự và hình sự. Mặt khác, Mỹ đánh giá các lĩnh

vực khác nhau để xác định các lỗ hổng chống rửa tiền, nhằm áp đặt các biện pháp

kiểm soát thích hợp. Tính minh bạch và trách nhiệm được khuyến khích tối đa trong

các lĩnh vực dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng. Bên cạnh

đó, Mỹ cũng xem xét các khu vực tư nhân như là một thành phần quan trọng trong

37

việc thực hiện chiến lược phòng chống rửa tiền. Thời gian vừa qua, những khu vực

then chốt của Mỹ đã có những nỗ lực sau:

 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan

 Đảm bảo rằng các cơ quan thực thi pháp luật và Lực lượng đặc nhiệm tài

chính sử dụng và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài chính và các công cụ phân tích

 Tập trung nhân viên thực thi pháp luật và các nguồn lực khác vào các mục

tiêu và các hệ thống tài chính có mức độ ảnh hưởng cao nhất

 Cải cách các cơ quan lập pháp và hành pháp

 Gia tăng các hoạt động hợp tác quốc tế

 Nâng cao sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chính phủ Mỹ và cộng đồng tài chính

 Giúp chính quyền địa phương điều tra và truy tố tội phạm tài chính và rửa tiền

Hệ thống phòng chống rửa tiền của Mỹ còn tồn tại một số lỗ hổng như sau:

 Các biện pháp liên quan đến những người có quan hệ chính trị không áp

dụng một cách rõ ràng cho các Công ty dịch vụ tiền tệ, lĩnh vực bảo hiểm, các nhà

tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa

 Không có quy định rõ ràng yêu cầu các công ty bảo hiểm, các công ty dịch

vụ tiền tệ, hoặc các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa có các chính sách và

thủ tục đối với các giao dịch không trực tiếp

 Các yêu cầu của Đạo luật bí mật ngân hàng không áp dụng cho các chi

nhánh nước ngoài và văn phòng của các công ty bảo hiểm nhân thọ

1.4.2. Phòng chống rửa tiền tại Singapore

Singapore đã cụ thể hơn Mỹ trong việc đưa ra phương pháp tiếp cận đa

phương để đối phó với các rủi ro rửa tiền. Chính phủ đảo quốc này đã nỗ lực trong

việc hướng vào khung pháp lý, thể chế, chính sách một cách toàn diện và đầy đủ, tỷ

lệ tội phạm trong nước luôn ở mức rất thấp, không bao giờ chính phủ khoan dung

cho hành vi tham nhũng xuất hiện trong nước, luôn có một bộ máy tư pháp hiệu

quả, một nền văn hóa tuân thủ đã được thiết lập từ lâu và các biện pháp giám sát

38

được thực hiện hiệu quả và đầy đủ. Singapore đã đi đầu trong việc theo dõi và làm

gián đoạn hành rửa tiền thông qua đội ngũ tình báo và quyền lực pháp lý khác.

Singapore đã xác định các yếu tố chính của chiến lược chống rửa tiền và tài

trợ khủng bố là:

 Xác định các khu vực ưu tiên cao cho hành động dựa trên đánh giá rủi ro

của các mối đe dọa lớn và các lỗ hổng về hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố

 Thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế một cách nghiêm chỉnh, đặc biệt là 40+9

khuyến nghị của FATF

 Duy trì một chế độ hình phạt nghiêm khắc chống lại nạn buôn bán ma túy,

khủng bố và các tội phạm nghiêm trọng khác

 Thực thi pháp luật hiệu quả là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ

 Áp đặt các tiêu chí lựa chọn chặt chẽ đối với các định chế tài chính muốn

gia nhập ngành tài chính của Singapore

 Bảo đảm hiệu quả giám sát các định chế tài chính hoạt động tại Singapore

 Thuê chuyên gia và những chuyên viên nòng cốt để phát triển và thực hiện

các chính sách và biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố

 Thực hiện hợp tác cao độ giữa các cơ quan chính phủ

 Cung cấp hỗ trợ pháp lý khác thông qua các kênh chính thức và không

chính thức, bao gồm cả việc chia sẻ thông tin và tình báo.

Chính phủ Singapore, để tăng cường các biện pháp phòng chống rửa tiền, đã quan

tâm nhiều hơn đến các loại hình kinh doanh phi tài chính mà bản chất của loại hình này

rất nhạy cảm với rửa tiền. Singapore đã đưa ra các sáng kiến mới hơn bao gồm:

 Đánh giá tham nhũng, buôn bán ma túy và các tội phạm nghiêm trọng

khác để điều chỉnh các quy định có liên quan, và có tính đến các yếu tố phản hồi về

các vấn đề thực hiện

 Nghiên cứu khuôn khổ pháp lý phòng chống rửa tiền chi tiết hơn đối với

các nhà cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp

39

 Xây dựng hướng dẫn thi hành luật xã hội

 Mở rộng chương trình tiếp cận lĩnh vực kinh doanh và ngành nghề phi tài

chính bao gồm cả luật sư, đại lý bất động sản, và các doanh nghiệp nói chung

 Mở rộng yêu cầu phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong môi giới

hàng hóa kỳ hạn

 Thực hiện một hệ thống khai báo cho du khách xuất nhập cảnh để kịp thời

phát hiện vận chuyển tiền hoặc công cụ chuyển nhượng vô danh

 Ban hành các quy định phòng chống rửa tiền đối với các hoạt động sòng bạc

Với phương pháp tiếp cận như trên, Singapore đạt được các thành tựu đáng kể

trong công cuộc phòng chống rửa tiền. Số lượng báo cáo các giao dịch đáng ngờ

tăng đều qua các năm, dẫn đến nhiều vụ rửa tiền được phát hiện và ngăn chặn ngay

từ đầu khiến cho các vụ rửa tiền tại Singapore cũng giảm đáng kể.

1.4.3. Phòng chống rửa tiền ở Thái Lan

Năm 1999, Thái Lan đã thực thi Luật chống rửa tiền, một trong những đạo luật

tiến bộ nhất Châu Á, không chỉ nhằm vào loại tội phạm không có tính chất bạo lực

thường bao hàm đến tiền và đối tượng phạm tội thường có mục đích kiếm lợi cho

bản thân mà còn nhằm vào hoạt động phi pháp của nền kinh tế ngầm. Nhiều năm

trôi qua, luật này đã phát huy tác dụng làm cho nạn rửa tiền ở Thái Lan không còn

nhiều như trước nữa. Trên khắp cả nước, cảnh sát Thái Lan đã thu giữ tài sản và đất

đai của những kẻ bị tình nghi là buôn bán ma túy, một vấn nạn của nước này. Thái

Lan rất thận trọng và cẩn thận đi từng bước nhỏ nhưng sự định hướng là rất rõ ràng

nhằm hướng tới có quy định chặt chẽ hơn đối với các hoạt động của thị trường tài

chính và thị trường bất động sản. Văn phòng chống nạn rửa tiền đã thiết lập được

một cơ chế thanh tra mục đích để ngăn chặn sự lặp lại của các vụ tham nhũng, rửa

tiền, buôn bán ma túy lớn trong qúa khứ. Các khoản chi không minh bạch và các

khoản trốn thuế từ lâu gây ra rất nhiều tổn thất cho quốc gia này đã được đội ngũ

thanh tra đó phát hiện và xử lý. Điều quan trọng nhất đối với sự thành công trong

cuộc chiến chống rửa tiền của Thái Lan là có sự tham gia hợp tác chặt chẽ của các

ngân hàng. Giờ đây trong ngân hàng đã đề ra các quy định về hiểu biết khách hàng

40

với từng nhân viên ngân hàng. Và các nhân viên ngân hàng phải báo cáo giải trình

cụ thể với các khoản giao dịch có giá trị lớn hoặc có nhiều giao dịch nhỏ lẻ với giá

trị ngay dưới giá trị tối thiểu phải báo cáo. Văn phòng chống nạn rửa tiền ở Thái

Lan đã ngay lập tức trở thành hình mẫu lý tưởng đáng để học tập cho các quốc gia

trong khu vực.

1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Việt Nam tuy không phải là quốc gia tham gia chiến dịch phòng chống rửa

tiền từ những ngày đầu tiên cùng các quốc gia trên nhưng vì đi sau nên chúng ta sẽ

rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc đấu tranh phòng chống

rửa tiền này. Qua nghiên cứu việc thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền tại

các nước trên, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm như sau:

 Ban hành các văn bản, quy phạm pháp luật và các khung pháp lý về phòng

chống rửa tiền. Kinh nghiệm cho thấy chúng ta cần quy định cụ thể và chi tiết các

hoạt động phạm pháp nào có liên quan đến rửa tiền cũng như các hình phạt cụ thể

đối với các tội phạm rửa tiền. Bên cạnh đó cũng cần quy định rõ cách thức xử lý đối

với tài sản phạm pháp thu được: sung công hay chia bớt một phần cho các quốc gia

hợp tác chống rửa tiền để khuyến khích các hoạt động chống rửa tiền. Nhờ đó

chúng ta có thể không gặp khó khăn trở ngại trong việc xác định tội danh, xử phạt

nghiêm minh và xử lý tài sản. Khung phạt rõ ràng sẽ làm cho khả năng rửa tiền

giảm sút. Đây có thể nói là một trong những phương thức rất hiệu quả để phòng

chống rửa tiền.

 Quy định về hoạt động của các tổ chức tài chính. Nếu các tổ chức tài chính có

công tác theo dõi và kiểm soát giao dịch yếu kém, lỏng lẻo hoặc chính nó thông đồng

với bọn tội phạm để rửa tiền thì việc phòng chống rửa tiền của Nhà nước sẽ rất khó

được thực hiện hiệu quả. Vì thế cần hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động và giao

dịch tài chính nhằm phát hiện nhanh chóng các hoạt động rửa tiền; cũng như yêu cầu

các tổ chức tài chính theo dõi kỹ lưỡng và báo cáo thông tin cho các cơ quan chức

năng khi cần thiết về các giao dịch đáng ngờ; yêu cầu các tổ chức này phải ghi chép,

41

giám sát và theo dõi các hoạt động của các cá nhân đã từng được giao các nhiệm vụ

quan trọng, thiết lập hệ thống kiểm soát để xác định nguồn gốc tài sản của họ.

 Xây dựng hệ thống giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng,

chống rửa tiền hiệu quả. Dù nước Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng,

chống rửa tiền từ những năm 1970 nhưng do thiếu một hệ thống giám sát hiệu quả

nên vẫn để lọt lưới nhiều vụ rửa tiền lớn diễn ra sau đó. Vì vậy công tác giám sát

đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác phòng chống rửa tiền của các quốc

gia.

 Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng tại hệ thống ngân hàng thương

mại. Theo kinh nghiệm của các nước, đây là biện pháp rất hiệu quả trong việc tìm

hiểu kỹ thông tin của khách hàng để cắt đứt sự tiếp cận hệ thống ngân hàng của bọn

tội phạm, dẫn đến giai đoạn 1 của quy trình rửa tiền không được thực hiện.

 Quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và các quốc gia với

nhau. Một vụ rửa tiền được phát hiện và xử lý không chỉ là công sức của riêng bất

cứ một bộ phận, tổ chức nào mà nó còn là sự liên kết của rất nhiều tổ chức. Cũng

như trong các vụ án rửa tiền xuyên quốc gia, khó khăn nổi bật nhất chính là quan hệ

hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Mỗi khi muốn tiếp cận các ngân hàng ở nước

ngoài thường rất khó khăn để xác định rõ nguồn gốc thực sự của khoản tiền cần

điều tra và thẩm quyền để tiến hành việc tịch thu tài sản phạm pháp. Khả năng thu

hồi được các khoản tiền và tài sản phạm pháp phụ thuộc vào rất nhiều sự lành mạnh

của luật lệ quốc gia đó và sự hợp tác của hai quốc gia trên. Để cùng hợp tác thành

công trong cuộc chiến gian nan này, các quốc gia cần cùng nhau hành động nhằm

trao đổi thông tin và hợp tác trong điều tra và xử lý tài sản.

42

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Thực trạng rửa tiền tại Việt Nam

Như chúng ta đã tìm hiểu ở chương I, rửa tiền là hình thức phạm tội mang tính

chất quốc tế, hình thức này xâm nhập vào các quốc gia và gây tổn hại lớn đến quốc

gia đó, đặc biệt là các quốc gia mà hoạt động kiểm soát vấn đề này còn chưa chặt

chẽ, thống nhất, trong đó có Việt Nam. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thực trạng rửa

tiền tại Việt Nam trong những năm vừa qua.

2.1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội dẫn đến rửa tiền

Trong vỏn vẹn ba thập kỷ, Việt Nam đã chuyển mình từ một trong những

nước nghèo nhất thế giới thành một trong những câu chuyện thành công nhất thế

giới về phát triển. Công cuộc Đổi mới bắt đầu từ cuối thập niên 1980 đã giúp đất

nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường,

theo hướng toàn cầu hóa. Thành quả đem lại là Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng

bình quân ấn tượng 7% trong các năm từ 1991 đến 2010.

Ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, lĩnh vực tài chính mới được

tư nhân hóa và chính phủ vẫn trong quá trình xây dựng luật lệ quản lý nên họ dễ trở

thành mục tiêu và phải gánh chịu tác động nặng nề của hoạt động rửa tiền thời toàn

cầu hóa. Toàn cầu hóa đã giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển rực rỡ nhưng cũng là

khó khăn và thách thức không nhỏ với chúng ta. Tội phạm quốc tế có thể xâm nhập

vào nước ta một cách dễ dàng hơn bao giờ hết. Ở các quốc gia phát triển trên thế

giới, các mánh khóe, thủ thuật của bọn tội phạm rửa tiền đã được phát hiện và xử lý

thì đến đất nước Việt Nam đang phát triển còn non kém về trình độ kiểm soát của

chúng ta, chúng lại bắt đầu du nhập và lộng hành. Trong xu thế toàn cầu hóa này,

rửa tiền không chỉ dừng lại ở những quốc gia phát triển, mà chúng còn đang lan

rộng ra những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia còn non yếu như

Việt Nam. Nền kinh tế nước ta trong tương lai sẽ càng ngày càng hội nhập sâu hơn

nữa vào hệ thống tài chính quốc tế. Điều này sẽ là cơ hội hiếm có giúp nước ta

nhanh chóng có thể đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực nói riêng và trên thế

43

giới nói chung. Mặt khác nó sẽ gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam

trong việc phải đối mặt với những hành vi rửa tiền có mức độ tinh vi mang tầm vóc

quốc tế.

Bên cạnh vấn đề toàn cầu hóa thì các vấn đề tồn tại bên trong nền kinh tế của

nước ta cũng là cơ sở mang đến rất nhiều cơ hội và điều kiện tốt cho hành vi rửa

tiền xuất hiện và phát triển. Đó chính là:

- Hệ thống tài chính tiền tệ còn non kém:

Trong thời gian qua, hệ thống tài chính tiền tệ của nước ta đã có những tiến bộ

rõ rệt, đóng góp quan trọng vào ổn định và tăng trưởng kinh tế của nước nhà. Hệ

thống tài chính của nước ta bao gồm: tài chính công, tài chính doanh nghiệp, hệ

thống ngân hàng, bảo hiểm và thị trường tài chính. Hệ thống ngân hàng thương mại

của nước ta ngày càng đáp ứng được các nhu cầu về thanh toán, vay vốn, gửi tiết

kiệm, thư tín dụng, bảo lãnh tín dụng,... tốt hơn, ngoài ra mạng lưới các ngân hàng

ngày càng trải khắp các huyện, các thành phố, các tỉnh trên cả nước, dẫn đến việc

phục vụ về nhu cầu tài chính của người dân ngày càng nhiều và sâu xát hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh sự tiến bộ đó, hệ thống tài chính tiền tệ của nước ta vẫn

còn tồn tại rất nhiều vấn đề để tạo cơ hội cho bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa

tiền. Công nghệ thông tin của ngân hàng còn chưa được cập nhật với thế giới. Các

văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến rửa tiền còn rất nhiều kẽ hở và dễ bị lợi

dụng. Các ngân hàng thương mại tuy đã đều thành lập bộ phận phòng chống rửa

tiền nhưng đều chưa được đào tạo nghiêm túc và cụ thể về việc phát hiện ra hành vi

rửa tiền cũng như đưa ra các biện pháp xử lý để ngăn chặn hành vi đó.

- Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế

Có thể dễ dàng nhận thấy, người tiêu dùng Việt Nam chưa có thói quen sử

dụng các loại thẻ thay vì tiền mặt. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế Việt

Nam trong những năm gần đây đã giảm dần nhưng vẫn còn ở mức khá cao so với

các nước trên thế giới. Điều này đang gây khó khăn cho công tác giám sát quản lý

tiền tệ cũng như gây ra sơ hở để bọn tội phạm lợi dụng cho hoạt động rửa tiền của

chúng.

44

- Công cuộc cổ phần hóa của các Doanh nghiệp nhà nước

Việc cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các Ngân hàng

thương mại Nhà nước đã mang lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế đất nước, xóa bỏ

tình trạng cha chung không ai khóc. Nhưng nó cũng mang lại khá nhiều giá trị tiêu

cực như việc xác định giá trị doanh nghiệp, từ đó đưa ra bán cổ phần doanh nghiệp.

Có hai vấn đề khi cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước này. Vấn đề

thứ nhất là khi xác định giá trị để tiến hành bán cổ phần cũng vô tình đưa ra các kẽ

hở của chính sách cổ phần hóa, dẫn đến hành vi tham nhũng và đây được xem là

nguồn gốc của tiền bẩn. Vấn đề thứ hai là sau khi tiến hành cổ phần hóa xong, các

ngân hàng sẽ đặt mục tiêu to lớn trước mắt là vị lợi nhuận, đặt ra các chỉ tiêu về tín

dụng về huy động vốn rất cao dẫn đến nguy cơ bị lạm dụng rửa tiền nếu như họ

không có chính sách nhận biết khách hàng tốt.

- Lượng lớn kiều hối từ nước ngoài chuyển về Việt Nam

Hàng năm Việt Nam nhận được một lượng lớn kiều hối từ nước ngoài chuyển

về. Đây là những khoản tiền không xác định được rõ nguồn gốc thu nhập. Trong

tình hình kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, lượng tiền kiều hối do cộng đồng

người Việt ở nước ngoài chuyển về trong thực tế lại cao hơn rất nhiều so với con số

được thống kê, do trong khi hệ thống ngân hàng vẫn còn rất hạn chế thì các hệ

thống chuyển tiền “chợ đen” lại được sử dụng thuận tiện, nhanh chóng hơn rất

nhiều, nên nguy cơ bị bọn tội phạm lợi dụng rửa tiền thông qua con đường này là

rất cao.

- Về tình hình an ninh trật tự xã hội

Đi kèm với hòa nhập kinh tế thế giới, chúng ta phải chấp nhận hòa nhập tội

phạm thế giới. Càng ngày càng có nhiều tội phạm quốc tế xuất hiện và sử dụng rất

nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi và khó phát hiện Tội phạm kinh tế đặc biệt là tội

phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đang len lỏi vào mọi ngóc ngách của nền kinh

tế nước ta. Bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều tội phạm tham nhũng, buôn lậu ma túy,

xã hội đen... ngày càng gia tăng dẫn đến nguồn thu bất hợp pháp ngày càng lớn.

45

Chúng luôn có nhu cầu tiêu thụ và chuyển giao những đồng tiền bẩn này thành

những nguồn thu hợp pháp hơn trong mắt pháp luật.

- Hoạt động đầu tư nước ngoài

Các nước đang phát triển như Việt Nam luôn muốn đẩy mạnh việc kêu gọi thu

hút đầu tư nước ngoài và cũng chính việc đầu tư ra nước ngoài của các nước phát

triển đó lại là xu hướng hợp tác kinh tế phổ biến nhất hiện nay trên toàn thế giới.

Chính vì thế, pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam được đưa ra, hoàn thiện

và sửa đổi theo hướng ngày càng thoáng hơn và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.

Tất cả các địa phương và cả quốc gia đều đang tạo mọi điều kiện thuận lợi thông

thoáng nhất để kêu gọi đầu tư từ nước ngoài và trong nước. Chính điều này dẫn đến

việc họ chỉ quan tâm đến hoạt động đầu tư mà không hề quan tâm đến nguồn gốc

của khoản vốn đầu tư này có sạch hay không.

2.1.2. Thực trạng hành vi rửa tiền tại Việt Nam

Theo Cục Phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở Việt

Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện. Nhưng có

những dấu hiệu cho thấy, các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để

thực hiện hành vi rửa tiền. Lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đưa ra cảnh

báo, trong những năm qua, đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển

tiền có nguồn gốc bất hợp pháp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối

tượng, băng nhóm tội phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài

khoản tại các ngân hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau

đó rút hết tiền trong các tài khoản này.

Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an Đà Nẵng phát hiện

vào tháng 10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch

Mozambique khi tên này đến chi nhánh một ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng mở

cùng lúc 2 tài khoản. Ngay sau khi mở được tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng

được chuyển vào. Điều đáng nghi ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút

tiền. Nhận thấy giao dịch bất thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số

tiền trên là khoản tiền bọn tội phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó

46

chuyển vào Việt Nam qua hai chi nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà

Rịa – Vũng Tàu.

Công an Đà Nẵng đã tiến hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis

(quốc tịch Mozambique). Đáng tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo),

người đã mở tài khoản và được chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng

Tàu đã nhanh chân tẩu thoát.

Ngoài ra, trong một số vụ án khác, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã

phát hiện hành vi rửa tiền hoặc có dấu hiệu rửa tiền. Điển hình là vụ Việt kiều Lê

Thị Phương Mai đầu tư tiền từ hoạt động ma tuý vào các dự án của Công ty Viet –

Can Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI),

Lê Thị Phương Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội phạm quốc tế

lớn tại Bắc Mỹ, hoạt động theo qui trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma túy đến

rửa tiền. Đầu năm 2004, trước khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số

người khác dưới danh nghĩa người của Công ty Viet – Can Resorts & Plantation

Inc., có trụ sở tại 857, Unit 1, Somerset St. WestOttawaOntario (Canada), đã về

Việt Nam tìm “cơ hội đầu tư”. Mai đã xin phép đầu tư 25 triệu USD vào dự án khu

nghỉ mát và căn hộ cho thuê tại Dốc Lết, thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Cùng lúc, Công ty Viet – Can Resorts & Plantation cũng lập một website trên mạng

internet để quảng bá dự án du lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng

2/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà có văn bản đồng ý về mặt chủ trương cho

phép đầu tư khu nghỉ mát và căn hộ cho thuê với diện tích khoảng 70 ha tại Dốc

Lết. Dự án chưa kịp hoàn thành thủ tục thì Mai bị bắt giữ.

Hoặc như vụ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được email từ

một số doanh nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại

15% tổng số tiền… Trong thời gian gần đây, lực lượng công an Việt Nam đã phối

hợp với Trung tâm Thông tin phòng chống rửa tiền của NHNN (nay là Cục Phòng

chống rửa tiền) đã phát hiện nhiều giao dịch nghi vấn liên quan đến hoạt động này.

Các chuyên gia của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và quản lý chức

vụ (Bộ Công an) cũng cho rằng, việc rửa tiền qua chứng khoán là việc rất dễ dàng,

47

do đặc thù của chứng khoán là mọi người đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và

tái đầu tư trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất thường. Rửa tiền qua đánh bạc

chính là phương pháp rửa tiền nhanh nhất, như trong một số vụ án thời gian qua đã

bị phanh phui. Trước đây, Công an Việt Nam phối hợp với phía Canada điều tra

trùm cá độ bóng đá Ngô Tiến Dũng (tức Lai Thành Hữu, Dũng “Kiều”) có dấu hiệu

mang hàng chục triệu USD từ nước ngoài về “rửa tiền” ở Việt Nam. Ngô Tiến

Dũng được xác định là người cầm đầu đường dây cá độ bóng đá cực lớn, với số tiền

luân chuyển 1-2 triệu USD mỗi đêm. Vụ việc này cho thấy, mánh khoé của tội

phạm rửa tiền là dùng “tiền bẩn” mở tài khoản ở ngân hàng, sau đó chúng sẽ dùng

số tiền đó rót vào những trận cá độ bóng đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thưởng sẽ

được thanh toán vào một tài khoản hợp pháp khác.

Ở Việt Nam, chưa có tổ chức, cá nhân nào đưa ra nhận xét, đánh giá về tình

trạng rửa tiền; cũng như chưa có bất kì một công bố thống kê chính thức nào về

hoạt động rửa tiền cũng như độ quan trọng của nó trong nền kinh tế. Đến nay, Việt

Nam cũng chưa thực sự xét xử một vụ án rửa tiền nào nhưng rửa tiền lại là một tội

phái sinh của các tội phạm khác. Trong một nghiên cứu được công bố gần đây về

các hoạt động phi chính thức tại Việt Nam, nghiên cứu của Stoyan và các cộng sự

đã cho rằng: “hoạt động phi chính thức tại Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng

50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ thuộc

của hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không

khai báo ở thành thị là 10,5% và hoạt động không khai báo khác là 10%.”Từ đó có

thể thấy dù ít hay nhiều, hoạt động rửa tiền đã xuất hiện tồn tại ở Việt Nam và có

ảnh hưởng không hề nhỏ đến hoạt động kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó, theo ước tính của các chuyên gia Liên hợp quốc và thống kê của

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), hằng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400-

500 tỷ USD, tính ra bằng 2-5% GDP của thế giới. Ta có thể tính được với dự tính

thấp nhất bằng 2% GDP thì số tiền được rửa ở Việt Nam hàng năm rơi vào gần 2 tỷ

USD, là một con số không hề nhỏ nhưng lại không được thống kê rõ ràng và có cơ

sở.

48

Mặc dù con số tiền bẩn được rửa ở Việt Nam hàng năm không hề được tính

toán một cách chính xác nhưng không có nghĩa là nó không có cơ sở, thiếu hiện

thực vì ta có thể thấy hàng năm tại Việt Nam vẫn đưa ra tòa xét xử hàng trăm vụ án

“chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điều 250 Bộ

luật hình sự từ đó dẫn đến có hàng triệu USD tiền mặt bất hợp pháp đang được sử

dụng trên lãnh thổ Việt Nam dưới hình thức chuyển tiền vào Việt Nam từ Mỹ,

Canada, Úc,...

Bảng 2.1: Số lƣợng các vụ án đƣợc đem ra truy tố, xét xử theo điều

250 Bộ Luật hình sự

Năm Số TH điều Số TH truy tố Số TH xét xử Số bị cáo bị

tra tịch thu tiền,

tài sản

216 2013 205 210 505

225 2014 210 220 623

298 2015 250 215 593

289 2016 270 268 645

Nguồn: Nhóm Châu Á, Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền

2.2. Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

2.2.1. Các dấu hiệu rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trong thời gian qua, có rất nhiều dấu hiệu rửa tiền thông qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam được nhận thấy mặc dù chưa thực sự có một vụ rửa tiền chính thức

nào được phanh phui. Cục phòng, chống rửa tiền của Ngân Hàng Nhà Nước đã

nhận được hàng trăm báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng với nhiều

dấu hiệu của hành vi rửa tiền như:

- Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản;

- Tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản;

49

- Doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng

không;

- Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một

tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn;

- Tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm

đến phí giao dịch;

- Thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo;

- Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị

lớn, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường;

- Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt

động kinh doanh;

- Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại

mà không có lý do hợp lý;

- Tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản

tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn;

- Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận

được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối

phiếu;

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau

khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt

động kinh doanh;

- Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được

tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;

- Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn;

50

- Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc

cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên

phương tiện thông tin đại chúng;

- Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng

hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ

trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu

- Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê

tài chính hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch;

- Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không

rõ ràng, minh bạch.

Bảng 2.2: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ đƣợc thống kê theo biểu

hiện rửa tiền

Dấu hiệu 2013 2014 2015 2016

Thái độ miễn cưỡng khi cung cấp thông tin 7 9 5 8

Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển 3 5 19 30 tiền quốc tế

Các giao dịch không mang lợi ích về kinh tế 6 7 8 8

Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có 3 6 9 15 giá trị lớn

Các giao dịch liên quan đến các hoạt động 5 5 7 6 đầu tư

Khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc

nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền của 5 9 17 20

quốc tế

Tổng cộng 27 40 67 88

Nguồn: Cục phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

51

Từ các số liệu báo cáo giao dịch đáng ngờ như bảng trên ta có thể thấy hầu

như các giao dịch có liên quan đến nhóm khách hàng quốc tế đều là các giao dịch

có nguy cơ rửa tiền cao, vào năm 2016 các giao dịch đáng ngờ này có biểu hiện

chiếm 70% các giao dịch đáng ngờ khác.

2.2.2. Các phƣơng thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

Phương thức thứ nhất là: chia nhỏ số tiền sau đó chuyển dần ra nước ngoài.

Bọn tội phạm gửi tiền dưới mức kiểm soát vào những thời điểm khác nhau, ở nhiều

nơi trên thế giới. Sau một thời gian chuyển khoản qua nhiều ngân hàng, chúng có

thể rút tiền ở Ngân hàng của nước thứ ba, thứ tư một cách hợp pháp.

Bản chất của phương thức này là chia nhỏ số tiền mặt và gửi vào các ngân

hàng để tránh bị báo cáo, bị nghi ngờ và thường được sử dụng ở các quốc gia mà

luật pháp yêu cầu phải báo cáo các giao dịch tiền mặt vượt một ngưỡng nào đó, ví

dụ ở Việt Nam là 300 triệu đồng (theo Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg ngày

18/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị

lớn phải báo cáo), ở Hoa Kỳ là 10 nghìn đô la Mỹ. Liên quan đến phương thức này,

tội phạm có thể chia số tiền lớn thành nhiều phần nhỏ dưới mức phải báo cáo để gửi

vào các định chế tài chính hoặc mở nhiều tài khoản ở nhiều các định chế tài chính

khác nhau và gửi số tiền dưới mức phải báo cáo hoặc có thể thuê những người khác

gửi tiền mặt do phạm tội mà có vào tài khoản của họ sau đó chuyển khoản về tài

khoản của tội phạm.

Phương thức thứ hai là: thông qua nghiệp vụ chuyển tiền của NHTM. Đây là

phương thức dễ sử dụng nhất trong các phương thức để lợi dụng rửa tiền của bọn tội

phạm. Bọn chúng lợi dụng sơ hở là các giao dịch chuyển tiền kiều hối từ nước

ngoài về hàng năm đều dễ dàng qua mắt được ngân hàng. Với hơn 5 triệu kiều bào

đang sinh sống và làm việc tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế

giới, hàng năm số kiều bào này đều chuyển về nước một lượng lớn ngoại tệ trợ cấp

cho các thân nhân trong nước, hơn nữa còn để đầu tư làm ăn một vài dự án. Hoạt

động này vừa mang lại những ý nghĩa tích cực cho nền kinh tế Việt Nam như làm

gia tăng đầu tư trong nước và là nguồn cân đối quan trọng trong cán cân ngoại hối

52

của nước ta; nhưng cũng vừa mang lại những cơ hội không hề nhỏ giúp bọn tội

phạm lợi dụng chính sách kiểm soát kiều hối còn lỏng lẻo của Nhà nước để chuyển

tiền về Việt Nam phục vụ cho các hoạt động phạm pháp cũng như thực hiện các

hình thức rửa tiền tiếp theo. Bên cạnh đó, bọn chúng còn lợi dụng phương thức

chuyển tiền này để có thể chia khoản tiền bẩn .ban đầu thành các khoản nhỏ để

chuyển đi nhiều tài khoản khác nhau nhằm đánh lạc hướng các nhà điều tra và xóa

dấu vết của nguồn tiền.

Phương thức thứ ba là: thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các NHTM để

giao dịch chứng khoán. Những năm gần đây, một số NHTM đã mở thêm dịch vụ

mở tài khoản cá nhân phục vụ cho mục đích giao dịch chứng khoán tại các sàn giao

dịch chứng khoán khác nhau. Điều này đem lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho các

ngân hàng nhưng lại vô tình tạo điều kiện cho bọn tội phạm rửa tiền lợi dụng để

thực hiện hành vi rửa tiền. Do nguồn gốc thu nhập để mua cổ phiếu của chủ tài

khoản lại chưa được các ngân hàng làm rõ nên nguồn tiền ban đầu đưa vào tài

khoản để kinh doanh chứng khoán này rất có thể là tiền bất hợp pháp, nhưng sau

một thời gian kinh doanh chứng khoán, chúng được rút ra với một vỏ bọc hoàn toàn

hợp pháp từ ngân hàng đó. Chính vì thế, phương thức này được bọn tội phạm rửa

tiền coi là cách thức khá đơn giản trong bối cảnh hiện nay, khi mà hệ thống kiểm

soát nguồn tiền của các ngân hàng thương mại chưa được hoàn thiện và còn khá

đơn giản.

Phương thức thứ tư là: người nước ngoài dùng chứng từ giả để mở tài khoản

tại các ngân hàng Việt Nam để thực hiện các giao dịch chuyển tiền đã được NHNN

khuyến cáo. Các đối tượng tội phạm thực hiện mở tài khoản cá nhân tại các Ngân

hàng thương mại ở Việt Nam, sau đó chúng thực hiện các lệnh chuyển tiền có giá trị

lớn từ nước ngoài chuyển về tài khoản này.Một thời gian sau khi chủ tài khoản rút

tiền thì ngân hàng ở nước ngoài sẽ có thông báo đề nghị thu lại số tiền đã bị rút đó

vì giao dịch bị giả mạo.

Phương thức thứ năm là: các công ty nước ngoài dùng tiền bất hợp pháp mua

cổ phiếu các NHTM cổ phần tại Việt Nam. Đồng tiền bất hợp pháp đó đã được xoay

vòng để xóa dấu vết sau một thời gian mới được đưa vào sử dụng theo cách này, sau

53

đó lại chuyển lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh này ra nước ngoài để làm mất dấu

đồng tiền.

Phương thức thứ sáu là: các đối tượng thông qua hệ thống ngân hàng để thực

hiện lừa đảo tín dụng. Theo phương thức này, bọn tội phạm sẽ giả danh các tập

đoàn hay khách hàng nước ngoài đến các ngân hàng trong nước để đề nghị cho vay

một khoản tiền lớn với một mức lãi suất rất hấp dẫn, thường thấp hơn lãi suất đang

áp dụng trong thị trường rất nhiều, bên cạnh đó thời gian vay lại dài hạn chứ không

phải ngắn hạn. Nhưng mặt khác chúng lại yêu cầu ngân hàng ứng trước cho chúng

một khoản tiền tương đương 5-10% khoản tiền cho vay đó.

Bảng 2.3: Số liệu báo cáo giao dịch đáng ngờ đƣợc thống kê theo phƣơng

thức rửa tiền

Phƣơng thức rửa tiền 2013 2014 2015 2016

Phương thức thứ nhất 3 7 12 20

Phương thức thứ hai 15 20 24 40

Phương thức thứ ba 5 6 10 11

Phương thức thứ tư 1 2 7 8

Phương thức thứ năm 2 3 6 5

Phương thức thứ sáu 1 2 8 4

Tổng cộng 27 40 67 88

Nguồn: Cục phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo Cục Cảnh sát kinh tế, Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm (Bộ

Công an), tội phạm rửa tiền phổ biến nhất ở Việt Nam là tuồn tiền “bẩn” từ nước

ngoài về để hợp pháp hóa, chuyển sang tiền “sạch”, đó chính là phương thức thứ hai

trong số sáu phương thức vừa phân tích ở trên. Đồng thời, một bộ phận tội phạm

trong nước đã sử dụng số tiền này lừa đảo, tham nhũng, mua bán ma túy... “rửa”

bằng cách mua bất động sản, chuyển cho người thân, đầu tư vào các dự án, hợp

đồng kinh tế “ma”. Việc rửa tiền không chỉ được tiến hành qua ngân hàng, mà qua

54

rất nhiều kênh như chứng khoán, bất động sản, đánh bạc ở casino... Trên thực tế,

các chiêu thức rửa tiền ngày càng tinh vi và khó phát hiện, đặc biệt là sử dụng công

nghệ cao như thẻ tín dụng. Ông Nguyễn Văn Ngọc (Cục trưởng Phòng, chống rửa

tiền) cho biết, từng phát hiện 2 nghi can sử dụng thẻ Visa Debit để tuồn tiền “bẩn”

từ Việt Nam ra nước ngoài, sau đó lại chuyển “tiền sạch” vào Việt Nam. Chúng

dùng thủ đoạn thuê 10 người mở thẻ Visa Debit, sau đó mang số thẻ này sang

Campuchia vì Campuchia cho phép các trụ ATM nhả nội tệ và USD. Sau khi mang

thẻ sang Campuchia, đồng bọn ở Việt Nam liên tục chuyển tiền vào 10 thẻ Visa

Debit trên, còn các nghi can tại Campuchia cũng liên tục rút tiền tại Campuchia. Số

tiền sau khi rút ra được chúng mua vàng chuyển về Việt Nam và từng bước hợp

thức hóa. Đây chỉ là những chiêu thức rửa tiền mới phát hiện. Thói quen sử dụng

tiền mặt, không bắt buộc chứng minh nguồn gốc dòng tiền cộng với tình trạng sở

hữu chéo chằng chịt trong các doanh nghiệp, ngân hàng tại Việt Nam cũng khiến

việc phát hiện tội phạm rửa tiền thêm khó khăn. Trong số các giao dịch đáng ngờ

được tổng hợp bên trên, ta có thể thấy phần lớn các giao dịch được thực hiện thông

qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các ngân hàng thương mại; trong đó các phương

thức rửa tiền còn lại thì không được bọn tội phạm sử dụng nhiều. Có thể thấy

phương thức trên được bọn tội phạm sử dụng nhiều vì ưu điểm là chỉ trong thời gian

ngắn, bọn tội phạm có thể ngồi tại chỗ tạo ra rất nhiều giao dịch chuyển tiền mờ ám

này.

2.3. Thực trạng phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

2.3.1. Các biện pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trước bối cảnh hội nhập kinh tế toàn thế giới với một nền kinh tế mới nổi và

sử dụng nhiều tiền mặt như Việt Nam, chúng ta có thể nhìn thấy trước nguy cơ Việt

Nam sẽ là một miền đất hứa cho bọn tội phạm rửa tiền quốc tế, đặc biệt là rửa tiền

qua hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua, Chính phủ nước ta

đã đưa ra thực hiện một vài biện pháp cơ bản nhằm làm giảm nguy cơ bị lợi dụng

để thực hiện các hành vi rửa tiền của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cụ thể một số

biện pháp đó là:

55

2.3.1.1. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền

Cục phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, trước đây là

Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền, được thành lập theo quyết định số

1003/2005/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005. Đây là đơn vị trực thuộc Ngân Hàng Nhà

Nước Việt Nam, được thành lập với mục đích là cơ quan đầu mối để tiếp nhận, xử

lý và phân tích thông tin. Cục có quyền yêu cầu các cơ quan, cá nhân, tổ chức có

liên quan phải cung cấp tài liệu, hồ sơ và thông tin liên quan đến các giao dịch đã

báo cáo; đồng thời phổ biến các văn bản và thông tin cho các cơ quan chức năng,

thu thập các báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng trong nước.

Bên cạnh đó, Cục Phòng, chống rửa tiền cũng là đầu mối phối hợp với các

quốc gia và các tổ chức quốc tế như: Cơ quan Phòng, chống tội phạm và ma túy của

Liên hợp quốc (UNODC), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á

(ADB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Bộ Tài chính Hoa Kỳ, ... triển khai các hoạt

động về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố. Trong những năm gần đây,

Cục Phòng, chống rửa tiền đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ thu thập, xử lý và

chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác liên

quan đến tội rửa tiền cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Kết quả là, đến nay, Cục

đã nhận và xử lý hàng ngàn báo cáo giao dịch đáng ngờ, hàng triệu báo cáo giao

dịch tiền mặt có giá trị lớn (CTR) và báo cáo chuyển tiền điện tử (EFT).

Thông qua các báo cáo xử lý trên, Cục Phòng chống rửa tiền đã chuyển hàng

trăm vụ việc hoặc hỗ trợ cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra, tố tụng, xét xử

trong và ngoài nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền và tài

trợ khủng bố cũng như các tội phạm khác liên quan đến rửa tiền.

Về vấn đề liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, Cục Phòng chống rửa tiền

đã có văn bản cảnh báo tới các tổ chức tín dụng để chủ động có biện pháp phòng

ngừa phù hợp và tới các cấp, các ngành có liên quan để phối hợp phổ biến tới các

đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành.

Những văn bản cảnh báo liên quan đến: danh sách về cá nhân, tổ chức liên

quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố thuộc danh sách cấm vận theo các Nghị quyết

56

của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc; danh sách về cá nhân, tổ chức và quốc gia

nằm trong danh sách trừng phạt của Hoa Kỳ; danh sách cảnh báo về cá nhân quốc

tịch Li Bi, tổ chức và doanh nghiệp có liên quan do Đại sứ quán Li Bi đề nghị; các

cảnh báo về hiện tượng kinh doanh tiền điện tử, tiền ảo trên mạng có dấu hiệu liên

quan đến rửa tiền, kinh doanh trái phép, vi phạm pháp luật và có tính chất lừa đảo

làm ảnh hưởng đến hoạt động, uy tín của các ngân hàng.

Có thể nói, với vai trò, chức năng thực thi nhiệm vụ của mình, trong những

năm qua, Cục phòng chống rửa tiền – NHNN đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được

giao, đặc biệt là ngăn chặn những giao dịch, hành vi đáng ngờ liên quan đến rửa tiền

tại các tổ chức tín dụng. Hơn nữa, hiện nay, Cục Phòng, chống rửa tiền là đầu mối

triển khai các công việc chuẩn bị cho việc triển khai thực hiện Đạo Luật tuân thủ

thuế đối với tài khoản của công dân Hoa Kỳ ở nước ngoài.

Bảng 2.4: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ đƣợc Cục phòng chống

rửa tiền thu thập

Loại đơn vị báo cáo 2013 2014 2015 2016

Ngân hàng TMCP 50 70 100 150

Ngân hàng TM Nhà nước 23 37 50 70

Các ngân hàng liên doanh 8 10 15 30

Các ngân hàng nước ngoài 10 35 50 80

Các tổ chức tín dụng khác 5 10 15 20

Tổng cộng 96 162 230 350

Nguồn: Cục phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo số liệu thống kê của NHNN, trong 4 năm gần nhất từ đầu năm 2013 đến

cuối năm 2016, cơ quan này chỉ nhận được 838 báo cáo giao dịch đáng ngờ của các

ngân hàng trong nước, trong đó chỉ có 537 báo cáo được chuyển sang cơ quan công

an liên quan tới 103 vụ việc. So sánh tổng số báo cáo giao dịch đáng ngờ với số

lượng được chuyển sang cơ quan công an điều tra thì đây là một tỷ lệ rất thấp.

57

2.3.1.2. Xây dựng hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền

Chúng ta có thể thấy quy định pháp luật đầu tiên của Việt Nam về phòng

chống rửa tiền đã được đề cập đến trong điều 251 Bộ Luật hình sự năm 1999, được

Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999; sau đó được sửa đổi, bổ sung tại kỳ

họp thứ 5, Quốc hội khóa XII thông qua ngày 19/06/2009. Trong điều luật này đã

đưa ra được nội dung cơ bản của hành vi rửa tiền, cụ thể là nguồn gốc của khoản

tiền bất hợp pháp là tiền do phạm tội mà có và các phương thức phạm tội của hành

vi rửa tiền, đó là thông qua các giao dịch ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp

pháp hóa tài sản và tiền do phạm tội mà có. Bên cạnh đó, điều luật này cũng đưa ra

các khung hình phạt khác nhau đối với các mức độ phạm tội khác nhau. Sau đó,

Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực

ngày 01/10/1998, tại điều 19 đã quy định về trách nhiệm của các TCTD đối với các

khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Sau đó 8 năm, Nghị định 74/2005/NĐ-CP

ngày 7/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền được ban hành rộng rãi

nhằm tạo cơ sở pháp lý cũng như thể hiện cam kết đối với quốc tế về việc phòng

chống rửa tiền. Nghị định này đã được quy định: các cá nhân, tổ chức có trách

nhiệm phòng chống rửa tiền; các biện pháp phòng chống rửa tiền; trách nhiệm của

các cơ quan nhà nước trong phòng chống rửa tiền và hợp tác quốc tế về rửa tiền. Có

thể nói điểm đáng nói nhất ở Nghị định này đó là đã đưa ra được các quy định nhận

biết khách hàng, quy định các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ như giao dịch bằng

tiền mặt từ 200 triệu đồng trở lên hoặc giao dịch gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở

lên...

Sau đó khi nền kinh tế mở cửa, hệ thống tài chính Việt Nam có nhiều khả năng

phải đối mặt với những hành vi rửa tiền ngày càng tinh vi và mang tầm quốc tế.

Chính vì thế năm 2012, Quốc hội đã ban hành Luật số 07/2012/QH13 về phòng

chống rửa tiền nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các tổ chức cá nhân

có hành vi rửa tiền. Ngày 4 tháng 10 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều khoản của Luật phòng

chống rửa tiền. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 10 năm

2013 và thay thế cho Nghị định số 74/2005/NĐ-CP trên về phòng chống rửa tiền.

58

Ngoài việc hướng dẫn về nhận biết, báo cáo và lưu giữ thông tin khách hàng, Nghị

định còn hướng dẫn cụ thể về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng

chống rửa tiền; việc áp dụng các biện pháp tạm thời như trì hoãn giao dịch khi phát

hiện các bên liên quan đến giao dịch nằm trong danh sách đen, phong tỏa tài khoản

khi có quyết định phong tỏa tài khoản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền...

Có thể nói, trong 10 năm qua kể từ khi văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên

điều chỉnh trực tiếp về hoạt động rửa tiền ở Việt Nam là Nghị định số 74/2005/NĐ-CP

ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền có hiệu lực thi hành. Đến nay,

chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động này.

Những chế định pháp lý cơ bản tạo nên khung cơ sở pháp lý cho công tác

phòng chống rửa tiền bao gồm: (i) Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012; (ii) Chế

định tội rửa tiền trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trên cơ sở quy định của các văn bản trên, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước

ban hành văn bản hướng dẫn triển khai công tác phòng, chống rửa tiền. Các văn bản

hiện đang được áp dụng trực tiếp đối với các tổ chức tín dụng là hai Thông tư số

35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực

hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền; Thông tư số 31/2014/TT-NHNN

ngày 18/11/2014 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của thông

tư số 35/2013/TT-NHNN...

Quá trình hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam thường

xuyên được Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF) và Nhóm Châu Á/Thái

Bình Dương về chống rửa tiền (APG) rà soát, đánh giá và đưa ra các khuyến nghị

phù hợp. Hàng loạt những điều chỉnh lớn trong hệ thống pháp luật của Việt Nam

trong thời gian qua đã thể hiện thiện chí và nỗ lực của Việt Nam trong việc đáp ứng

những yêu cầu của các khuyến nghị.

Chẳng hạn như Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có hai thay đổi quan trọng: Xây

dựng chế định tội rửa tiền phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về chống tội

phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo) và quy định trách nhiệm hình

sự đối với pháp nhân...

59

Khoản 1 Điều 22 Luật phòng, chống rửa tiền quy định trách nhiệm của các đối

tượng báo cáo trong việc báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghi ngờ hoặc

có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có

hoặc có liên quan đến rửa tiền. Điều 22 Luật Phòng, chống rửa tiền đưa ra những

dấu hiệu đáng ngờ của một giao dịch và quy định đối tượng báo cáo có trách nhiệm

phải báo cáo giao dịch đáng ngờ. Dấu hiệu đáng ngờ theo Luật Phòng, chống rửa

tiền được chia làm 2 loại: Dấu hiệu đáng ngờ chung và dấu hiệu đáng ngờ cho từng

lĩnh vực. Khoản 2 Điều 22 Luật phòng, chống rửa tiền đưa ra 8 dấu hiệu đáng ngờ

cơ bản, chung cho mọi đối tượng báo cáo, bao gồm:

(i) Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác,

không đầy đủ, không nhất quán;

(ii) Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ

quan nhà nước có thẩm quyền;

(iii) Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp

hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính;

(iv) Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể

liên lạc được hoặc không có số này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch;

(v) Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá

nhân có trong danh sách cảnh báo (danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá

nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi

ro cao về rửa tiền);

(vi) Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về

cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên

tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá

nhân có trong danh sách cảnh báo;

(vii) Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp

với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này;

60

(viii) Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không

đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Với quy định mang tính bắt buộc trên, các đối tượng báo cáo, bao gồm cả các

tổ chức tài chính cũng như các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài

chính có liên quan đều phải thường xuyên cập nhật thông tin khách hàng, thường

xuyên liên hệ với khách hàng để nắm bắt những thông tin thay đổi nhằm phân tích

đúng thực trạng, xác định bản chất giao dịch của khách hàng để phát hiện dấu hiệu

đáng ngờ và báo cáo theo quy định.

Ngoài 8 dấu hiệu đáng ngờ cơ bản, chung cho mọi đối tượng báo cáo, Luật

phòng, chống rửa tiền cũng đưa ra 12 dấu hiệu giao dịch đáng ngờ trong lĩnh vực

ngân hàng; 8 dấu hiệu giao dịch đáng ngờ trong lĩnh vực bảo hiểm; 8 dấu hiệu đáng

ngờ của một giao dịch trong lĩnh vực chứng khoán; 8 dấu hiệu đáng ngờ của một

giao dịch trong lĩnh vực trò chơi có thưởng, casino; 4 dấu hiệu đáng ngờ của một

giao dịch trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.

Luật Phòng, chống rửa tiền không quy định bất cứ dấu hiệu giao dịch đáng

ngờ nào trong các lĩnh vực khác, trong hoạt động của các đối tượng khác chịu sự

điều chỉnh của Luật như lĩnh vực cung ứng dịch vụ kế toán, dịch vụ pháp lý của luật

sư, cung ứng các dịch vụ liên quan cho công ty. Điều này cần được hiểu là, các đối

tượng báo cáo khác sẽ phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản chung để báo cáo giao dịch

đáng ngờ.

Một điểm lưu ý khác là Khoản 8 Điều 22 của Luật phòng, chống rửa tiền quy

định trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam của đối tượng báo cáo khi

phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu cơ bản nêu trên để làm cơ sở cho

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ quy định bổ

sung các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và trong các lĩnh vực liên quan.

2.3.1.3. Nâng cao nhận thức của các ngân hàng thương mại trong phòng chống rửa tiền

Chúng ta có thể thấy nếu như Chính phủ có xây dựng nhiều khung pháp luật

phòng chống rửa tiền đến đâu đi chăng nữa mà không có sự hợp tác, phối hợp của

các ngân hàng thương mại, là nơi đang được bọn tội phạm lợi dụng nhiều nhất cho

61

hành vi rửa tiền, thì cũng là một lỗ hổng lớn trong việc áp dụng các biện pháp

phòng chống rửa tiền với nền kinh tế Việt Nam. Chính vì thế bên cạnh việc ban

hành các quy định, yêu cầu các Ngân hàng xây dựng các quy trình riêng về phòng

chống rửa tiền, NHNN cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi giao lưu, tọa đàm trao

đổi cho các lãnh đạo đại diện các NHTM để nâng cao nhận thức phòng chống rửa

tiền. Các NHTM trong nước hầu hết đã ban hành các quy trình và quy định nội bộ

về phòng chống rửa tiền theo yêu cầu tại Nghị định 74/2005/NĐ-CP nhưng việc

triển khai thực hiện các quy trình nội bộ đó thì lại chưa thực sự làm tốt và làm đúng.

Chỉ thực sự có một vài ngân hàng lớn có uy tín như Vietcombank, Vietinbank,

BIDV,... là đã có các chương trình đào tạo về phòng chống rửa tiền cho nhân viên

làm công tác chuyển tiền hoặc có liên quan đến quy trình rửa tiền này. Các chi

nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hầu hết có các chương trình đào tạo tất

cả nhân viên về nhận biết và phòng chống rửa tiền trong tất cả các khâu giao dịch

với khách hàng đến nội bộ trong ngân hàng. Bên cạnh đó, các chi nhánh ngân hàng

nước ngoài tại Việt Nam còn tổ chức cho tất cả nhân viên tham gia tập huấn trong

và ngoài nước về phòng chống rửa tiền nhằm hạn chế rủi ro uy tín của ngân hàng.

2.3.1.4. Tăng cường phối hợp giữa các bên có liên quan

Chính phủ cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan

trong lĩnh vực phòng chống rửa tiền như: NHNN, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ

Công thương, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng... trong việc hướng dẫn, kiểm tra chấp

hành các biện pháp phòng chống rửa tiền của các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý.

Ngày 13/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 470/QĐ-TT về

việc thành lập Ban chỉ đạo phòng chống rửa tiền do Phó thủ tướng thường trực

Nguyễn Sinh Hùng làm trưởng ban. Các phó trưởng ban là Thống đốc NHNN Việt

Nam và lãnh đạo Bộ Công An, 11 ủy viên là lãnh đạo các bộ,ngành liên quan.

NHNN là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo, có nhiệm vụ thành lập tổ thường

trực giúp việc Ban chỉ đạo và nhiều hoạt động khác phục vụ cho công tác phòng

chống rửa tiền. Chính phủ nhờ có Ban chỉ đạo này sẽ nâng cao được hiệu quả chỉ

đạo và điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành trong công tác phòng chống rửa tiền

trên toàn quốc.

62

2.3.1.5. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng chống rửa tiền

Ngày nay, tội phạm rửa tiền đang thao túng thị trường tài chính trên toàn thế

giới do đó hợp tác quốc tế không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham

gia mà nó còn củng cố mối quan hệ của các quốc gia. Hợp tác quốc tế trong phòng

chống rửa tiền cũng giúp các quốc gia dễ dàng trao đổi thông tin, chia sẻ kinh

nghiệm, hỗ trợ công nghệ,...

Việt Nam cũng nhận thức được sự quan trọng của việc hợp tác quốc tế trong

công tác phòng, chống rửa tiền nên đã được kết nạp làm thành viên thứ 33 của

nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền vào ngày 4/5/2007. Từ đó,

Việt Nam sẽ tiến tới thực hiện đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa

tiền. Trong giai đoạn gần đây, NHNN bên cạnh việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế đã

tích cực tìm kiếm các đối tác hỗ trợ Việt Nam trong công cuộc phòng chống rửa

tiền. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ký bản ghi nhớ trao đổi, cung cấp thông tin với

các nước Đài Loan, Nga, Hàn Quốc, Úc, Anh, Malaysia, Singapore, Trung Quốc,

Hồng Kong và tiếp tục đàm phán ký kết trao đổi thông tin với Nhật, Mỹ, Pháp, Hà

Lan, Thái Lan, Lào, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Áo, Ấn Độ và Canada. Trong cùng khoảng

thời gian này, NHNN cũng nhận được một lượng đáng kể các yêu cầu hỗ trợ tư

pháp để điều tra và đối phó với các hoạt động rửa tiền của các cá nhân, tổ chức

nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam cũng như các cá nhân, tổ chức Việt

Nam ở nước ngoài.

2.3.2. Phòng chống rửa tiền tại ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam

HSBC là một trong những tổ chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất thế

giới. Ngân hàng này đã phục vụ hơn 37 triệu khách hàng thông qua bốn dịch vụ

kinh doanh toàn cầu: Quản lý tài sản và ngân hàng bán lẻ, Ngân hàng thương mại,

Thị trường và ngân hàng toàn cầu và Ngân hàng tư nhân toàn cầu. Mạng lưới của

ngân hàng bao phủ 70 quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Âu, châu Á, Trung Đông

và châu Phi, Bắc Mỹ và châu Mỹ La-tinh. Tại Việt Nam, ngân hàng này đã bắt đầu

hoạt động ở thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1970, được coi là một trong những

ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Đây cũng chính là ngân hàng nước

63

ngoài đầu tiên đưa ngân hàng con vào hoạt động tại Việt Nam vào tháng 09 năm

2008. Hiện nay tại Việt Nam ngân hàng này có rất nhiều chi nhánh và phòng giao

dịch cung cấp rất nhiều sản phẩm và dịch vụ cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân.

Đối với ngân hàng có mạng lưới toàn cầu như HSBC, việc phòng chống rửa

tiền luôn được đề cao và thực hiện hết sức nghiêm túc. Ngân hàng HSBC tại Việt

Nam đã có các biện pháp phòng chống rửa tiền để thực thi theo từ rất lâu trước khi

có Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền tại Việt Nam. Tại HSBC

Việt Nam, các quy trình phòng chống rửa tiền được xây dựng dựa trên sự kết hợp

quy định của Tập đoàn HSBC trên toàn cầu và Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng

chống rửa tiền của Việt Nam. Đã từ rất lâu, những Chuẩn mực toàn cầu được đưa ra

cho toàn bộ hệ thống HSBC trên thế giới thực hiện với một mục tiêu trọng tâm là

hiểu biết khách hàng rõ ràng và chi tiết hơn. Vì thế, biện pháp cơ bản nhất của chiến

dịch phòng chống rửa tiền của HSBC là tìm hiểu và xác minh thông tin khách hàng

và báo cáo hoạt động bất thường. HSBC nỗ lực kiểm soát để chống rửa tiền và tài

trợ khủng bố. Các biện pháp này được gọi là Phòng chống rửa tiền (AML) và phòng

chống Tài trợ khủng bố (CTF). HSBC đã áp dụng chuẩn mực toàn cầu được triển

khai ở hầu hết những nơi HSBC hoạt động. Một trong những chuẩn mực này là

Chính sách phòng chống rửa tiền toàn cầu với các yêu cầu mà tất cả nhân viên phải

tuân thủ để quản lý rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố. Tất cả các nhân viên của

HSBC phải biết rõ mọi chính sách và quy định của HSBC cho chiến dịch phòng

chống rửa tiền toàn cầu này. Trong chính sách này có nêu rõ các bước bắt buộc phải

làm khi bắt đầu giao dịch với khách hàng mới hoặc đang giao dịch với khách hàng

cũ để có thể quản lý rủi ro này.

- Nhận biết, cập nhật và xác minh thông tin khách hàng

Quá trình này bao gồm: (1) thu thập bằng chứng cần thiết để nhận biết một

khách hàng, bao gồm cả quyền sở hữu và xác minh các thông tin đó; và (2) thu thập

và lưu giữ những thông tin về một khách hàng như quốc gia cư trú và hoạt động tài

chính dự kiến, quá trình (2) này được gọi là Nhận biết khách hàng, đó chính là quá

trình thu thập thông tin và bằng chứng cần thiết để xác định hoạt động tài chính dự

64

kiến của khách hàng, để xác định những hoạt động bất thường, và để đánh giá

những rủi ro về rửa tiền.

Tìm hiểu và xác minh thông tin khách hàng (CDD) mô tả các kiểm tra ngân

hàng HSBC tiến hành đối với các khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của

HSBC, tại giai đoạn mới thiết lập mối quan hệ và liên tục trong suốt thời gian duy

trì mối quan hệ. Đây là một phần cơ bản của các biện pháp kiểm soát tội phạm tài

chính và cho phép ngân hàng biết rõ khách hàng là ai, hiểu họ làm gì và luôn cảnh

giác với mọi thay đổi trong hành vi của họ. Một CDD phù hợp sẽ giúp ngân hàng

lựa chọn và duy trì mối quan hệ với những khách hàng phù hợp; nhận diện khách

hàng rủi ro cao cần phải áp dụng các biện pháp kiểm tra bổ sung hay giám sát tăng

cường; cung cấp thông tin có thể giúp xác định các hoạt động hoặc giao dịch bất

thường. Phương pháp của HSBC với CDD và giám sát khách hàng là dựa trên mức

độ rủi ro. Rủi ro phòng chống rửa tiền liên quan đến một khách hàng và các giao

dịch của họ sẽ được xem xét dựa trên một số yếu tố tiềm ẩn. Hiểu rõ khách hàng

không chỉ đơn giản là cho khách hàng điền thông tin vào các biểu mẫu có sẵn, nó

còn là về kiểm soát rủi ro một cách chủ động, vì vậy cần có cách tiếp cận dựa trên

rủi ro. Có bốn yếu tố rủi ro được dùng để giúp xác định mức độ rủi ro gắn với một

sản phẩm, khách hàng hay mối quan hệ như sau:

 Quốc gia cư trú hoặc đang hoạt động

 Loại hình kinh doanh hay nghề nghiệp

 Cấu trúc pháp nhân (đối với khách hàng doanh nghiệp)

 Sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng mà họ sử dụng

Trong CDD có một quy trình nhận biết và xác minh khách hàng, được gọi là

ID&V. Nhận biết là xác định xem khách hàng của bạn là ai, xác minh là chứng

minh khách hàng đúng là người đó. Nhân viên ngân hàng HSBC phải thu thập

thông tin về khách hàng (và mọi bên có liên quan của khách hàng) để đảm bảo rằng

tự nhân viên đó có thể khẳng định khách hàng đúng là người mà họ khai. Sau đó

nhân viên ngân hàng HSBC phải xác minh rằng những thông tin này là chính xác

thông qua các nguồn tài liệu hoặc dữ liệu điện tử độc lập và đáng tin cậy.

65

Một quy trình nữa trong CDD là quy trình Hiểu rõ khách hàng, được gọi là

KYC. Hiểu rõ khách hàng là quy trình giúp ngân hàng HSBC đánh giá được những

rủi ro mà khách hàng có thể mang đến và nhận diện được các hoạt động và giao

dịch bất thường của họ. Các thông tin quan trọng bắt buộc được nêu trong các quy

định của nước sở tại áp dụng đối với bộ phận kinh doanh của ngân hàng và bao

gồm:

 Hoàn cảnh và/hoặc bản chất về việc kinh doanh của khách hàng

 Nguồn gốc tài sản của khách hàng

 Nguồn gốc các khoản tiền sẽ được đưa vào tài khoản của họ

 Lý do mở tài khoản, mục đích và hoạt động dự kiến của tài khoản.

“Xác định những người có liên quan” là một phần trong yêu cầu nhận biết và

xác minh, nhân viên ngân hàng HSBC phải nhận biết và xác minh một số cá nhân

nhất định có liên quan đến tài khoản của khách, ví dụ về những người có liên quan

bao gồm những cá nhân sở hữu một công ty hoặc những người có thể kiểm soát

cách quản lý công ty.

Sau khi nhận biết, cập nhật và xác minh thông tin khách hàng, khách hàng tại

HSBC sẽ được xếp hạng rủi ro Cao, Trung bình hoặc Tiêu chuẩn khi mở tài khoản

hoặc thiết lập quan hệ. Thứ hạng này sẽ xác định mức độ Nhận biết, cập nhật và xác

minh thông tin khách hàng và mức độ giám sát giao dịch này có thể thay đổi tùy

theo đánh giá lại định kỳ. Đối với những khách hàng được xác định có mức độ rủi

ro cao hơn, nhân viên HSBC cần làm Đánh giá tăng cường (EDD), đây là loại đánh

giá ở cấp cao hơn CDD, cần thiết để giảm thiểu rủi ro cao hơn về rửa tiền. Ví dụ

như một số khách hàng là chính trị gia người nước ngoài có rủi ro này cao hơn. Tại

HSBC, những khách hàng được phân loại có rủi ro tội phạm tài chính cao nhất là

các Cá nhân có ảnh hưởng chính trị, được gọi là PEP và những khách hàng được

phân loại vào Nhóm khách hàng đặc biệt, được gọi là SCC. Cũng lưu ý rằng có một

số loại khách hàng như những người có tài khoản ẩn danh và hoạt động như hoạt

động tiền tệ ảo là bị cấm. PEP bao gồm một người hiện tại đang hoặc đã từng nắm

giữ các chức vụ sau đây:

66

 Quan chức cấp cao trong cơ quan điều hành, lập pháp, quản trị, quân sự hay

hành pháp của chính phủ

 Người đứng đầu một cơ quan chính phủ

 Thành viên một gia đình hoàng gia trị vì hoặc gia đình hoàng gia có mối

quan hệ với chính phủ

 Quan chức cấp cao của một đảng phái chính trị

 Quan chức cấp cao của tập đoàn, định chế hay quỹ từ thiện do chính phủ sở

hữu hay chính phủ đầu tư.

Định nghĩa này cũng bao gồm những người có mối quan hệ gia đình trực hệ và

các cộng tác thân cận của PEP. HSBC quy định rằng “Nếu một người đã từng là

PEP, thì người đó sẽ luôn luôn được coi là PEP”, do đó những người này sẽ được

tiếp xúc xác định là PEP kể cả khi người này đã ngừng giữ địa vị PEP. Tất nhiên,

một cá nhân là PEP không có nghĩa họ dính líu đến tội phạm tài chính. Điểm mấu

chốt ở đây cần hiểu là họ có thể gây ra rủi ro cao hơn cho ngân hàng, do đó ngân

hàng cần phải đảm bảo rằng ngân hàng có được tất cả các thông tin cần thiết để có

thể có một bức tranh toàn cảnh họ là ai, tài sản và tiền của họ từ đâu đến và tại sao

họ muốn hợp tác với HSBC. Còn SCC là tên gọi của Nhóm khách hàng đặc biệt. Có

thể là một số đối tượng sau:

 Công ty cung cấp dịch vụ đổi tiền hay ngoại tệ, chuyển tiền hay dịch vụ

quy đổi séc thành tiền mặt.

 Công ty tham gia vào hoạt động phân phối vũ khí hay các sản phẩm quân

sự khác (ví dụ nhà phân phối và sản xuất vũ khí)

 Tổ chức từ thiện, phi lợi nhuận, phi chính phủ và tổ chức tôn giáo có rủi ro cao

 Các cơ quan chính phủ hay thuộc sở hữu Nhà nước và các Đại sứ quán có

rủi ro cao

 Các cá nhân sở hữu, điều hành hay có quyền kiểm soát đáng kể đối với bất

cứ loại hình doanh nghiệp nào trong số này.

67

Theo chính sách Nhận biết, cập nhật và xác minh thông tin khách hàng, khi

muốn thiết lập quan hệ với một khách hàng là SCC, nhân viên ngân hàng bắt buộc

phải có phê duyệt từ một quản lý cấp cao của Ngân hàng cũng như sự đồng thuận

của Khối tuân thủ về phòng chống tội phạm tài chính. Đối với những đối tượng

khách hàng này, lãnh đạo cấp cao khối kinh doanh phải định kỳ xem xét lại việc

Nhận biết, cập nhật và xác minh thông tin khách hàng Nâng cao, đồng thời phải tiến

hành giám sát thường xuyên và ở mức độ nâng cao, và lãnh đạo bộ phận tuân thủ

phải kiểm tra, tiến hành việc đánh giá lại và phê duyệt trên cơ sở định kỳ hàng năm.

Mỗi bộ phận phải duy trì một danh sách các khách hàng của mình thuộc Đối tượng

khách hàng Đặc biệt đã được phê duyệt.

Bên cạnh đó, ngân hàng HSBC phải thường xuyên cập nhật thông tin mới nhất

của khách hàng đang giao dịch. Thông tin ngân hàng nắm giữ về khách hàng phải

chính xác và luôn được cập nhật. Tùy theo từng loại khách hàng, Ngành nghề kinh

doanh và đánh giá rủi ro AML, ngân hàng HSBC luôn thực hiện đánh giá thường

xuyên thông tin này. Ngoài việc đánh giá thường xuyên, những thay đổi quan trọng

đối với tình trạng hoặc hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng phải được xem

xét ngay lập tức và có hành động tương ứng, ví dụ như:

 Ngân hàng biết được thông tin có thể ảnh hưởng đến đánh giá rủi ro của

khách hàng (chẳng hạn như một cá nhân có thể được bầu vào vị trí chính trị cấp cao,

khách hàng chuyển đến khu vực có rủi ro cao hoặc khi mô hình kinh doanh thay đổi

sang ngành nghề có rủi ro cao).

 Có thay đổi về quyền kiểm soát của một công ty

 Ngân hàng bằng cách nào đó biết được thông tin tiêu cực, ví dụ cáo buộc về

hành vi phạm tội hoặc một vụ truy tố thành công.

Trong Chính sách phòng chống rửa tiền của HSBC còn có một khái niệm được

đưa ra đó là những Đối tượng khách hàng dễ bị lợi dụng. Những đối tượng này có

thể vô tình trở thành nạn nhân của bọn tội phạm tài chính và đặc biệt là rất dễ bị ép

buộc và gian lận. Ngân hàng có thể biết được các hoạt động bất thường trên tài

khoản của họ hoặc các hoạt động nằm ngoài hành vi hoặc thói quen tài chính thông

68

thường của họ, ví dụ như quyết định đầu tư bất thường hoặc khách hàng được đưa

vào chi nhánh để rút số tiền lớn... Trong những trường hợp bất thường này, nhân

viên ngân hàng HSBC phải cung cấp báo cáo giao dịch bất thường, được gọi là

UAR.

- Báo cáo hoạt động bất thường (UAR)

HSBC tiếp tục cải thiện môi trường giám sát hoạt động giao dịch nhằm giúp

phát hiện các hoạt động bất thường, tuy nhiên thực tế cho thấy các quan ngại do

nhân viên ngân hàng trực tiếp báo cáo luôn là một trong những dấu hiệu đáng tin

cậy nhất để chỉ ra tài khoản hay giao dịch nào cần được các nhóm điều tra xem xét

kỹ hơn. Tất cả các nhân viên của HSBC luôn được yêu cầu có trách nhiệm hiểu

khách hàng tốt hơn để có thể đáp ứng các nhu cầu của họ cũng như có thể cảnh giác

với bất cứ thay đổi nào trong hoạt động ngân hàng thông thường của khách hàng.

Mọi nhân viên được yêu cầu nếu biết hoặc nghi ngờ rằng ai đó đang rửa tiền, phải

gửi Báo cáo giao dịch bất thường (UAR) qua hệ thống nội bộ của ngân hàng HSBC.

Nhân viên không được phép bỏ qua các dữ kiện mà một người bình thường sẽ nhận

định là bình thường; không bao giờ được nói cho khách hàng biết rằng họ đang nghi

ngờ khách hàng có những hoạt động bất thường hoặc họ đã báo cáo khách hàng lên

UAR. Đồng thời nhân viên cũng chỉ được tiết lộ thông tin về hoạt động bất thường

cho những người trong nội bộ có nhu cầu nghiệp vụ hợp pháp cần nhận thông tin đó

như Nhân viên báo cáo rửa tiền hoặc với văn phòng được chỉ định, thông thường là

Bộ phận tuân thủ. Nhân viên và văn phòng này sẽ quyết định xem Báo cáo của bạn

có được trình lên cơ quan có thẩm quyền không và mọi liên hệ tiếp theo với cơ quan

có thẩm quyền được tiến hành thông qua văn phòng và nhân viên được chỉ định

này.

69

Chọn quốc gia báo cáo Bấm vào liên kết UAR trong trang nội bộ

Nghi ngờ có dấu hiệu bất thường

Chọn AML

Điền UAR AML

Kết thúc

Gửi và xác nhận UAR

Nguồn: Ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam, chi nhánh Hà Nội

Sơ đồ 2.1. Quy trình báo cáo hoạt động bất thƣờng của nhân viên ngân hàng

Sau khi nhân viên ngân hàng gửi UAR, UAR sẽ được xem xét và chuyển cho

một Điều tra viên để điều tra và theo dõi. Nhân viên có thể được yêu cầu cung cấp

thêm thông tin. Sau đó nhân viên đó có thể sẽ không nhận được bất kì một thông tin

gì nữa nhưng điều đó không có nghĩa là báo cáo đó đang bị bỏ qua, các báo cáo này

có thể được lưu để tham khảo hoặc dùng để truy vấn thêm.

Các dấu hiệu rủi ro hoặc dấu hiệu cảnh báo chi tiết về tiêu chí đánh giá hoạt

động bất thường không được cung cấp cụ thể cho từng nhân viên ngân hàng HSBC

nhưng có một số tiêu chí chung được HSBC xác định là có thể là dấu hiệu của hoạt

động bất thường, ví dụ như: (1)khi khách hàng không sẵn lòng hoặc từ chối cung

cấp thông tin; (2)khi giao dịch không nhất quán với hoạt động thông thường hoặc

hồ sơ của khách hàng; (3)khi không có cơ sở kinh tế để giải thích cho một giao

dịch; (4)trường hợp khách hàng đi cùng với một người khác có vẻ như chỉ đạo họ

phải làm gì. Đây chỉ là các dấu hiệu cảnh báo nhân viên cần lập báo cáo UAR,

chúng không phải là bằng chứng hành vi phạm tội. Nhân viên ngân hàng HSBC

70

được yêu cầu luôn luôn đặt ra “câu hỏi đúng” và sử dụng óc phán đoán của bản

thân, dựa trên những gì họ biết về khách hàng đó sau đó luôn dũng cảm báo cáo về

mọi quan ngại của mình lên bộ phận có liên quan.

Nguồn: Ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam, Chi nhánh Hà Nội

Đồ thị 2.1. Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ nhân viên HSBC báo cáo lên

ngân hàng trong thời gian qua

HSBC luôn là một tập đoàn tài chính lớn trên thế giới và có mạng lưới rộng

khắp toàn thế giới nên đây cũng là một miền đất hứa đối với bọn tội phạm rửa tiền

xuyên quốc gia. Chính vì thế toàn bộ nhân viên của Ngân hàng HSBC Việt Nam

luôn được đào tạo một cách cụ thể các biện pháp trên và bị yêu cầu thực hiện một

cách nghiêm ngặt theo một quy trình chuẩn toàn cầu trong tất cả công việc hàng

ngày của họ.

2.4. Đánh giá về hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thời

gian qua

2.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc

Thời gian vừa qua với sự nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước cùng với các Ngân

hàng thương mại trong nước và nước ngoài, chiến dịch phòng chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận sau:

71

- Một là, Chính phủ đã ban hành được Luật phòng chống rửa tiền năm 2012,

sau đó đã thành lập được ban chỉ đạo quốc gia về phòng chống rửa tiền. Đây được

coi là tiền đề nền tảng vững chắc cho công cuộc phòng chống rửa tiền của nước ta.

- Hai là, Ngân hàng nhà nước được thành lập Trung tâm thông tin phòng,

chống rửa tiền, nay được đổi tên thành Cục phòng chống rửa tiền vào ngày

08/07/2005.

- Ba là, hầu hết các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài tại Việt

Nam đã ban hành được các quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền, bên cạnh đó,

một số ngân hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank, HSBC Việt Nam,... đã thành

lập được một bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền.

- Bốn là, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 33 của nhóm Châu Á

Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền và đã được tổ chức này đánh giá đa

phương vào năm 2009.

- Năm là, các hoạt động phòng chống rửa tiền ở Việt Nam được sự hỗ trợ của

rất nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là WB, IMF, ADB.

- Sáu là, Nghị định 74/2005/NĐ-CP ra đời không làm giảm lượng tiền huy

động trong dân chúng. Điều này thể hiện qua lượng tiền huy động tại một số ngân

hàng ở Việt Nam trong những năm sau khi ban hành nghị định vẫn tăng so với năm

2004. Điều đó chứng tỏ nguồn tiền huy động của các ngân hàng thương mại trong

nước hầu như là đều có nguồn gốc trong sạch.

2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại

2.4.2.1. Cơ sở vật chất còn yếu kém

Có thể nói cơ sở vật chất của các ngân hàng thương mại, Cục phòng chống rửa

tiền chưa thể đáp ứng được yêu cầu về phòng chống rửa tiền đã đề ra. Tại Việt

Nam, một năm bình quân có hơn 10 triệu giao dịch trị giá từ 200 triệu đồng trở lên.

Do vậy, số lượng báo cáo mà các ngân hàng gửi về Cục phòng chống rửa tiền rất

lớn trong khi hệ thống công nghệ thông tin tại các ngân hàng thương mại cũng như

tại Cục phòng chống rửa tền vẫn còn yếu kém, chưa thể đáp ứng được yêu cầu này.

72

Trong thời gian qua, các ngân hàng có trách nhiệm phân loại và lưu trữ các giao

dịch theo quy định, chỉ khi nào cần thì Cục phòng chống rửa tiền mới yêu cầu các

ngân hàng thương mại cung cấp, và chỉ khi nào các ngân hàng thương mại tự nhận

thấy các giao dịch đó có hành vi đáng ngờ thì mới phải gửi thông báo về Cục phòng

chống rửa tiền. Trên thực tế, chưa có một ngân hàng thương mại nào của Việt Nam

có một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại phục vụ công tác phòng chống rửa

tiền mà hầu hết vẫn chỉ theo dõi tìm hiểu hành vi khách hàng một cách rất thủ công.

Một số ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam như Vietcombank, ACB, BIDV,

Vietinbank đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng chống rửa tiền

nên đã thuê tư vấn lựa chọn công nghệ phục vụ công tác này.

2.4.2.2. Nhận thức về công tác phòng chống rửa tiền chưa được nhất quán

Thực ra chủ trương xây dựng Nghị định được đề cập đến bắt đầu từ những

năm 2000, nhưng tới tận tháng 6 năm 2005 mới chính thức ban hành Nghị định về

phòng chống rửa tiền. Ngay từ khi bắt đầu xây dựng đến khi ban hành Nghị định

74/2005/NĐ – CP đã có rất nhiều quan điểm trái chiều về cuộc chiến phòng chống

rửa tiền ở Việt Nam.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: việc triển khai công tác phòng chống rửa tiền

này sẽ làm giảm nguồn vốn huy động từ người dân, đặc biệt là nguồn vốn ngoài

nhàn rỗi do tâm lý của người dân Việt Nam ta vẫn lo lắng và ngại ngùng khi bị truy

cứu về nguồn gốc của những khoản tiền lớn. Theo như Nghị định, tổng gía trị giao

dịch (gồm cả VND, ngoại tệ và vàng) trong ngày của một cá nhân, hay một tổ chức

từ 200 triệu đồng trở lên đối với tiền mặt, hoặc 500 triệu đồng trở lên đối với các tài

khoản tiết kiệm sẽ bị xét vào diện bị giám sát và báo cáo. Theo các ngân hàng

thương mại Việt Nam, mức tiền tối thiểu này là thấp và việc báo cáo, giám sát dựa

trên số tiền tối thiểu này sẽ gây phiền hà và khó chịu cho rất nhiều khách hàng

khiến cho họ sẽ ngại gửi tiền tại các ngân hàng.

Quan điểm thứ hai thì khẳng định: Phòng chống rửa tiền là nghiệp vụ đã được

thế giới quan tâm và tiến hành các biện pháp trong hàng chục năm trở lại đây. Bên

cạnh đó, nhiều tổ chức quốc tế cũng đồng thời có nhiều hiệp ước để cùng nhau phối

73

hợp hành động. Vì thế, việc triển khai công tác phòng chống rửa tiền tại Việt Nam

là một vấn đề cấp thiết cần được thực hiện ngay và nó hoàn toàn không hề ảnh

hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nếu Nhà nước làm

tốt được công tác nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân về phòng chống

rửa tiền. Trên thực tế đã chứng minh sau 12 năm thực hiện, lượng tiền gửi vào các

ngân hàng vẫn tăng đều và dấu hiệu giảm có nhưng không đáng kể.

Ta có thể kết luận việc nhận thức và hiểu biết về công tác phòng chống rửa

tiền là hết sức quan trọng và quyết định hầu hết việc thực hiện thành công Nghị

định này. Nếu vẫn chưa thống nhất được ý kiến giữa người xây dựng tức Chính phủ

và người thực hiện là các ngân hàng thương mại và người dân thì khó khăn trong

công tác phòng chống rửa tiền là không thể giải quyết triệt để.

2.4.2.3. NHTM chưa tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật

Thực tế cho thấy rằng các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, đặc biệt

là các ngân hàng thương mại nhỏ, đang thực hiện công tác phòng chống rửa tiền

theo các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành của Nhà nước theo phương

thức “bằng mặt nhưng không bằng lòng”. Những hành động của họ chỉ mang tính

hình thức và có tính thực tiễn rất thấp. Chính vì thế, các quy trình chống rửa tiền

được thiết lập tại các ngân hàng thương mại là chỉ mang tính đối phó với Ngân hàng

Nhà nước trong công tác kiểm tra định kỳ. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho

thấy rằng số báo cáo giao dịch đáng ngờ trong những năm qua vẫn còn rất nhỏ so

với thực tế của số lượng các ngân hàng và tiềm năng rửa tiền tại Việt Nam.

2.4.2.4. Đội ngũ cán bộ của Cục phòng chống rửa tiền vẫn còn non yếu

Vấn đề nhân sự cũng là một vấn đề khó khăn bên cạnh vấn đề về công nghệ

thông tin của ngân hàng. Đây cũng là vấn đề hết sức nhức nhối và gây không ít trở

ngại cho công tác phòng chống rửa tiền. Trước đây là Trung tâm thông tin phòng

chống rửa tiền nay là Cục phòng chống rửa tiền của NHNN, ngay từ ngày đầu thành

lập đã chỉ có 3 cán bộ duy nhất, đến nay số lượng cán bộ tại Cục là 20 người và có

thể chắc chắn rằng kinh nghiệm về vấn đề này chưa hệ có nhiều.

74

2.4.2.5. Đội ngũ nhân viên làm công tác phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng

thương mại chưa được chú trọng

Bên cạnh nhân sự của Trung ương, nhân sự của từng Ngân hàng thương mại

trong công tác phòng chống rửa tiền cũng chưa được quan tâm một cách đúng mực.

Tại một số ngân hàng thương mại lớn đã thành lập các bộ phận riêng biệt về phòng

chống rửa tiền, nhân viên của các bộ phận này chưa được chuyên môn hóa về nhiệm

vụ của mình mà chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm nhiều việc một lúc nên công việc

thường không được hiệu quả. Đối với các nhân viên tiếp xúc trực tiếp với khách

hàng tại các bộ phận như giao dịch viên, tín dụng, nhân viên thanh toán lại hầu hết

chưa được đào tạo nghiệp vụ về phòng chống rửa tiền. Điều này gây ảnh hưởng trực

tiếp đến chất lượng và số lượng báo cáo các giao dịch đáng ngờ và các tài khoản

của khách hàng tại ngân hàng đó.

2.4.2.6. Những yếu tố nội tại của hệ thống ngân hàng vô tình tạo cơ hội cho tội

phạm rửa tiền

Trong giai đoạn này, các NHTM Việt Nam đang trong quá trình thực hiện bổ

sung vốn theo yêu cầu của NHNN nên nguy cơ các ngân hàng thương mại có thể vì

mục tiêu này mà dễ dàng trong việc kiểm tra nguồn gốc tiền gửi thậm chí có thể cố

tình bỏ qua các dấu hiệu đáng ngờ của nguồn tiền gửi để chấp nhận việc gửi tiền bổ

sung vốn của bất kì ai. Hiện nay, các NHTM đang cạnh tranh nhau rất gay gắt trong

vấn đề huy động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí còn sử dụng rất

nhiều hình thức mời chào khách hàng gửi tiền vào ngân hàng rất hấp dẫn người dân.

Chính điều đó đã tạo ra tâm lý không quan tâm đến nguồn gốc các khoản tiền gửi

vào ngân hàng của mình vì ngân hàng đó sẽ rất vui mừng khi nhận được lượng tiền

gửi lớn từ công chúng với mức lãi suất huy động thấp hơn các đối thủ cạnh tranh

khác.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên

2.4.3.1. Hoạt động tuyên truyền về phòng chống rửa tiền chưa được đề cao

Trong cuộc chiến phòng chống rửa tiền của ngành tài chính ngân hàng, việc

triển khai các biện pháp phòng chống rửa tiền không chỉ gây trở ngại cho hoạt động

75

kinh doanh của các ngân hàng thương mại mà còn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực

đến nền kinh tế nếu như chúng ta không tuyên truyền cho toàn bộ người dân về mục

tiêu của hành động này. Việc thực hiện giám sát các tài khoản và báo cáo các giao

dịch đáng ngờ làm cho các cá nhân và doanh nghiệp có nguồn tiền trong sạch rất lo

ngại và thậm chí còn không muốn quan hệ với ngân hàng vì họ luôn có cảm giác tài

sản của mình bị dòm ngó, theo dõi. Hệ quả có thể nhìn thấy ngay đó là người dân sẽ

quay sang đầu tư vào vàng, Đô la Mỹ hoặc bất động sản thay vì gửi tiền vào ngân

hàng để lấy lãi để không bị truy xét nguồn gốc và khai báo những gì đã làm để có

được số tiền đó. Nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam mỗi năm cũng sẽ theo đó mà

giảm dần. Còn các doanh nghiệp sẽ không thoải mái khi giao dịch qua ngân hàng

với giá trị lớn vì sẽ bị điều tra kĩ về nguồn tiền, nên họ sẽ ưu tiên thanh toán bằng

tiền mặt hơn là chuyển khoản. Vì thế, nguồn thu của Ngân hàng thương mại cũng sẽ

bị giảm dần và có khả năng mất khách hàng rất cao. Trong điều kiện hiện nay ở

nước ta được coi là nền kinh tế tiền mặt, nhiều giao dịch với giá trị thanh toán rất

lớn cũng được thực hiện bằng tiền mặt như: Thanh toán giữa các cá nhân với nhau;

gửi, rút tiền, giao dịch chuyển tiền, thanh toán giữa các tổ chức, kể cả các khoản

cho vay lớn; tại các định chế tài chính; các giao dịch bất động sản đều diễn ra ở các

trung tâm môi giới nhà đất không đăng ký, việc mua bán vàng bạc đá quý diễn ra ở

thị trường tự do; cá nhân tham gia đấu thầu quyền sử dụng đất với các ban quản lý

dự án các quận, huyện… Số lượng giao dịch và gửi tiết kiệm trên mức quy định

theo Nghị định trong cả nước diễn ra hàng ngày là rất lớn, chưa nói tới việc các tổ

chức không có đăng ký chính thức, cá nhân có giao dịch với số tiền lớn (thế giới

ngầm) vì lợi ích riêng, không cung cấp thông tin cho Cục Phòng chống rửa tiền.

Ngoài ra, để tránh sự giám sát của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như chia nhỏ số

tiền gửi tiết kiệm, đầu tư bất động sản ở các trung tâm môi giới nhà đất không đăng

ký, mua bán cổ phiếu chui; mang nhiều tên khác nhau trong cùng một gia đình,

dòng họ, bạn bè. Vì vậy, nhận biết các giao dịch đáng ngờ là rất khó khăn, theo ông

Ric Power, cố vấn khu vực về phòng chống rửa tiền và tài trợ chống khủng bố, Cơ

quan Phòng chống tội phạm ma túy của Liên hiệp quốc cho biết: “Rất khó nhận biết

vì các dấu hiệu rửa tiền có nhiều cách thức khác nhau. Việc đầu tiên chúng ta cần

76

tìm hiểu là hồ sơ của người giao dịch có gì bất thường không. Ví dụ như đối với các

viên chức chính phủ có tài khoản và được trả những khoản tiền đều đặn vào trong

tài khoản đó, nếu như họ có một khoản tiền giao dịch bất thường với số lượng tiền

được gửi vào rất lớn thì chúng ta phải tìm hiểu về nguồn tiền. Có thể số tiền đó có

được từ hoạt động tham nhũng hoặc từ những hoạt động bất thường nào đó”.

Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại cũng rất không thoải mái khi phải

tuân thủ hoàn toàn các điều khoản trong Nghị định vì lo ngại mất khách và số lượng

báo cáo theo quy định là vô cùng lớn.

2.4.3.2. Hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền còn hạn chế

Tính thiếu hiệu quả trong các hoạt động chống rửa tiền tại Việt Nam cơ bản là

do chúng ta thiếu một khung pháp luật hoàn thiện và một cơ chế kiểm soát đồng bộ

và hiệu quả. Thực tế là, hiện nay các qui định về chống tội phạm rửa tiền được qui

định rải rác tại các văn bản khác nhau, các thiết chế có. Trong quá trình đấu tranh

với tội phạm rửa tiền, hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta vẫn còn có một số tồn

tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, mặc dù chúng ta đã đưa ra các giải pháp hạn chế việc sử dụng tiền

mặt trong nền kinh tế nhưng các giải pháp đó chưa phát huy được tính hiệu quả. Từ

đó làm giảm khả năng kiểm soát các hành vi rửa tiền thông qua công cụ là các tổ

chức tín dụng.

Thứ hai, mức xử phạt đối với các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phòng

chống rửa tiền theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP là khá thấp, chưa đủ răn đe, với

mức phạt tối đa là 30 triệu đồng, rất thấp so với mức phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực chứng khoán và ngân hàng, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính là

500 triệu đồng, và thấp hơn nhiều so với các chi phí để ngân hàng thực hiện nghiêm

túc các biện pháp phòng chống rửa tiền.

Thứ ba, không có quy định cụ thể nào yêu cầu báo cáo giao dịch đáng ngờ

trong những trường hợp có các giao dịch có ý định thực hiện hoặc chưa được hoàn

tất nhưng đáng ngờ về bản chất.

77

Thứ tư, một số tổ chức tín dụng hiện chưa thực hiện phân loại chi tiết hơn về

nhóm khách hàng có mức độ rủi ro khác nhau. Chẳng hạn như chưa có quy định cụ

thể về việc tiếp nhận và cập nhật thông tin khách hàng có các giao dịch từ các quốc

gia chịu sự cảnh báo từ FATF.

Thứ năm, chưa thiết lập được cơ chế phối hợp hiệu quả trong việc chia sẻ

thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan chủ quản của các đối tượng

báo cáo khác được xác định theo Luật Phòng, chống rửa tiền. Bao gồm các cơ quan:

Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Công thương.

Thứ sáu, cần thúc đẩy một cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin đủ mạnh giữa

Ngân hàng Nhà nước với Tổng cục Thuế. Qua đó, không chỉ thúc đẩy cơ chế

phòng, chống rửa tiền hiệu quả mà còn bảo vệ danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp

của các chủ thể có liên quan.

Thứ bẩy, Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của việc hoàn thiện cơ chế giám

sát trong lĩnh vực ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế với quá trình triển khai Basel

II. Trong khi đó, lĩnh vực này đã có bước phát triển nhanh chóng ở phạm vi quốc tế

khi đã có thêm hai hiệp ước mới là Basel III và Basel IV được ban hành.

Thứ tám, trong nỗ lực hướng tới đáp ứng những yêu cầu của các chuẩn mực

quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày

25/11/2014 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa

tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 - 2020. Quyết định đã xác định rõ nhiệm vụ

cho các cơ quan trong Chính phủ có liên quan cũng như yêu cầu về thời hạn cho

từng nhiệm vụ.

2.4.3.3. Chi phí đầu tư công nghệ thông tin phục vụ công tác phòng chống rửa tiền

quá cao

Trên thực tế, chi phí đầu tư vào phần mềm giao dịch tiên tiến và có trị giá từ

2,5 đến 4 triệu USD có chức năng chống rửa tiền là khá lớn so với quy mô của các

ngân hàng thương mại vừa và nhỏ của Việt Nam. Việc bỏ một số tiền lớn ra đầu tư

vào phần mềm này có ý nghĩa đặc biệt quyết định thành công đối với các ngân hàng

thương mại trong nước. Tới nay mới chỉ có một vài ngân hàng lớn có uy tín bắt đầu

78

triển khai vào phần mềm này như Vietcombank, Vietinbank, Sacombank,

Techcombank... Trong khi đó các NHTM có quy mô vừa và nhỏ, nhất là các ngân

hàng vừa được chuyển đổi mô hình thì hầu như chưa hề có sự đầu tư nào vào hệ

thống này. Lý do là vì quy mô còn khá bé và nguồn vốn đầu tư còn khá hạn hẹp.

Đây cũng là một lý do dẫn đến những hạn chế trong công tác phòng chống rửa tiền

qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.

2.4.3.4. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực còn chưa được quan tâm đúng mực

Hiện nay, hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng và thực hiện các chương trình

đào tạo chính sách và nâng cao nhận thức về công tác phòng chống rửa tiền. Thực tế

rất nhiều các nhân viên ngân hàng ở bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách hàng của

các ngân hàng thương mại vừa và nhỏ còn chưa bao giờ được biết đến rửa tiền và

cuộc chiến phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Chính vì

thế, ngay khi ở bước đầu tiên giao dịch với khách, họ đã để lọt lưới bọn tội phạm có

mục đích lợi dụng ngân hàng đó cho hành vi rửa tiền của chúng mà không hề hay

biết và lường trước được sự nguy hiểm và hậu quả của hành vi đó để lại cho ngân

hàng nói riêng và cả hệ thống kinh tế của Việt Nam nói chung.

79

CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ

THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

3.1. Định hƣớng phát triển chính sách tiền tệ và cải cách hệ thống ngân hàng

3.1.1. Định hƣớng phát triển chính sách tiền tệ, thị trƣờng vốn

Nhà nước cần xây dựng và định hướng thực hiện một chính sách tiền tệ hiệu

quả nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng,

kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Đó

chính là định hướng của chính sách tiền tệ từ nay đến 2020. Để thực hiện được mục

tiêu đó, Nhà nước cần tiếp tục tự hoàn thiện và thực hiện các biện pháp sau:

- Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián

tiếp. Từng bước hoàn thiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở... để

có thể nâng cao hiệu quả khi thực hiện chính sách tiền tệ.

- Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp, trong

đó có hệ thống các ngân hàng và các thể chế tài chính phi ngân hàng, các công ty

bảo hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư... nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư

trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn và trung hạn.

- Phát triển thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng về

nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này đặc biệt là các

công cụ, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái.

- Hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ thị trường mở. Thêm các biện pháp phát triển

thị trường công trái bằng việc giới thiệu thêm hàng hóa cho thị trường mở, nhằm tạo

điều kiện thu hút các thành viên tham gia thị trường nhằm từng bước hoàn thiện

công cụ thị trường mở theo hướng trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu của

Ngân hàng nhà nước. Có sự phối hợp hơn nữa giữa chính sách tiền tệ và quản lý nợ

của Chính phủ (phát hành trái phiếu chính phủ)

- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các

giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống các biện pháp

kiểm tra chu chuyển vốn quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài

80

và kiểm soát hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở

nâng cao vị thế của Đồng Việt Nam.

- Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong

ngắn hạn, vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định thị

trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vốn.

3.1.2. Cải cách hệ thống Ngân hàng thƣơng mại

Việt Nam đang thực hiện chiến lược cải cách hệ thống NHTM nhằm khôi

phục lại sự lành mạnh của cả hệ thống ngân hàng nhằm cải thiện tính hiệu quả, an

toàn của chức năng chính của NHTM là trung gian tài chính cho nền kinh tế. Trọng

tâm của chương trình cải cách này là các nỗ lực mạnh mẽ nhằm ngăn chặn sự phát

sinh của các khoản nợ khó đòi và thực hiện các hoạt động ngân hàng trên cơ sở an

toàn, hiệu quả. Để giảm những rủi ro mang tính hệ thống, khuyến khích phát triển

lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, củng cố, đa dạng hóa các kênh huy động tiết kiệm

và các phương thức cung cấp tài chính cho đầu tư trung và dài hạn.

Việt Nam sẽ tiếp tục cơ cấu lại và tăng cường khu vực ngân hàng thương mại

cổ phần. NHNN đã hoàn tất việc đánh giá tài chính NHTM cổ phần và đã phê duyệt

kế hoạch cơ cấu lại toàn bộ khu vực này. Các NHTM cổ phần hoạt động yếu kém

sẽ bị rút giấy phép hoặc sát nhập với các ngân hàng khác, hoặc sẽ đóng cửa. Bảo

đảm quyền tự chủ của các NHTM trong kinh doanh và tạo điều kiện cho các NHTM

trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh.

Phương châm hành động của các NHTM luôn là: “An toàn - Hiệu qủa – Phát triển

bền vững - Hội nhập quốc tế”

3.1.3. Định hƣớng phòng chống rửa tiền cho hệ thống ngân hàng Việt Nam

Chúng ta có rất nhiều cơ hội đến từ việc hội nhập quốc tế nhưng bên cạnh đó

cũng tồn tại rất nhiều thách thức cho ngành Ngân hàng Việt Nam. Thách thức gian

khó nhất chính là vấn nạn rửa tiền. Hoạt động phòng chống rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng Việt Nam để chống lại nạn rửa tiền một cách hiệu quả thì cần hướng đến

các mục tiêu sau:

81

Đầu tiên là mục tiêu phát triển hệ thống giám sát các dòng vốn ra và vào, nâng

cao chất lượng các báo cáo vượt ngưỡng và các báo cáo giao dịch đáng ngờ, tăng

cường hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan phòng chống rửa tiền và nâng

cao năng lực của các cơ quan điều tiết tài chính, thi hành pháp luật trong việc phát

hiện, điều tra và chống tội phạm rửa tiền.

Tiếp theo là mục tiêu đạt được hiệu quả cao trong việc ngăn chặn bọn tội

phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền. Theo đó phải nâng cao chất lượng

quản lý rủi ro trong các hệ thống ngân hàng, đồng thời phải tăng cường sự phát triển

hệ thống tài chính Việt Nam và hội nhập ra toàn thế giới.

Bên cạnh đó là mục tiêu xây dựng một mạng lưới quốc tế để phòng chống rửa

tiền một cách hiệu quả hơn nữa, nhất là trong mục tiêu chống rửa tiền xuyên quốc

gia và chống các hoạt động rửa tiền để tài trợ khủng bố trên thế giới. Để thực hiện

được mục tiêu này chúng ta phải ngăn chặn, chống tội phạm rửa tiền bằng cách

tham gia nhiều hơn và hiệu quả hơn trong các hợp tác quốc tế về phòng chống rửa

tiền và tài trợ khủng bố xuyên quốc gia.

Cuối cùng là chúng ta phải tích cực tham gia, đóng góp công sức vào các tổ

chức quốc tế về phòng chống rửa tiền nhằm phát triển, nâng cao nhận thức, năng

lực, mở rộng khuôn khổ phòng chống rửa tiền quốc tế.

3.2. Tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới

3.2.1. Tình hình thế giới

Với sự phát triển không giới hạn của tri thức khoa học, công nghệ thông tin,

cùng với các ưu điểm đáng kể của hệ thống ngân hàng để bị lợi dụng rửa tiền như:

đồng tiền dù bẩn cỡ nào nhưng khi đã được rửa qua hệ thống ngân hàng cũng trở

nên sạch hơn so với các hệ thống khác, bên cạnh đó lại có chi phí rất thấp, và số

lượng rửa cũng có thể lớn hơn nhiều so với các phương thức còn lại... thì giờ đây,

có thể nói ngân hàng là một trong những định chế tài chính bị lợi dụng nhiều nhất

trong hoạt động rửa tiền trên thế giới.

Giờ đây trên thế giới, rất nhiều hoạt động giao dịch tài chính, mua bán hàng

hóa và thanh toán các hợp đồng đều hầu hết được thực hiện qua hệ thống ngân

82

hàng. Vì thế có thể nhìn rõ hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với nguy cơ bị

bọn tội phạm lợi dụng rửa tiền rất lớn.

3.2.2. Tình hình Việt Nam

Những năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước đang yêu cầu tăng vốn điều lệ với

các ngân hàng thương mại cổ phần. Bên cạnh đó là xu hướng cổ phần hóa tại các

Ngân hàng thương mại trong nước đang ngày một tăng cao, rất dễ dàng có nhiều lỗ

hổng cho các nhà đầu tư nước ngoài với nguồn vốn phi pháp dễ dàng xâm nhập để

thực hiện đầu tư với mục đích duy nhất là rửa tiền. Đây chính là rủi ro cực kỳ lớn

cho các ngân hàng Việt Nam, rất dễ bị nguy cơ dính líu, liên quan đến các vụ án

kinh tế nghiêm trọng với số lượng tiền rửa rất lớn.

Thực tế cho thấy, các chiêu thức rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng

tinh vi và khó phát hiện, đặc biệt là tội phạm sử dụng công nghệ cao như thẻ tín

dụng. Việt Nam cũng được cảnh báo là một trong số những quốc gia có khả năng

tăng nhanh tội phạm rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng. Nhiều nguyên nhân làm gia

tăng tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam đã

được các chuyên gia trong lĩnh vực này đề cập đến.Thực trạng an toàn thông tin tại

Việt Nam đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hệ thống bảo mật thông tin của Việt Nam

chưa đủ sức đương đầu với tội phạm công nghệ cao là một trong những nguyên

nhân chủ yếu dẫn đến nguy cơ gia tăng tội phạm rửa tiền lĩnh vực ngân hàng. Hầu

hết các ngân hàng vẫn chưa quan tâm đến vấn đề an ninh mạng, chưa bố trí được

nhân sự phụ trách an ninh mạng hoặc năng lực và nhận thức của đội ngũ này chưa

tương xứng với tình hình thực tế. Ngoài nguy cơ rửa tiền từ các giao dịch chuyển

tiền điện tử thì các giao dịch chuyển tiền trực tiếp cũng rất dễ xảy ra tại các ngân

hàng Việt do hệ thống quản trị rủi ro, phòng chống rửa tiền của các ngân hàng chưa

hoàn thiện. Một số ngân hàng áp dụng hệ thống cập nhật, theo dõi, lọc giao dịch

chưa thật chuẩn xác, đồng bộ theo chuẩn quốc tế. Thêm vào đó, các ngân hàng Việt

Nam hiện nay hầu như chưa giám sát được đầy đủ giao dịch tiền mặt tại các chi

nhánh của mình. Thậm chí, chính nhân viên ngân hàng trong quá trình giao dịch

cũng chưa mấy quan tâm đến vấn đề này. Do vậy, việc phát hiện hành vi vi phạm

pháp luật của nhóm tội phạm công nghệ cao còn gặp nhiều khó khăn. Những đối

83

tượng rửa tiền ngày càng có trình độ công nghệ thông tin chuyên sâu, có phạm vi

hoạt động rộng, có thể gây án ở nhiều nơi trong một quốc gia hoặc xuyên quốc gia,

dễ câu kết với nhau, thủ đoạn phạm tội rất tinh vi, xảo quyệt. Trong khi đó, lực

lượng cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực này còn non trẻ

nên việc phát hiện rất khó khăn.

Mặt khác, hiện nay có rất nhiều NHTM lớn của Việt Nam đều mở thêm công

ty chứng khoán và thực hiện mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho các khách hàng

kinh doanh chứng khoán. Điều này cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho cả khách

hàng lẫn ngân hàng. Tuy nhiên nguồn gốc số tiền mua cổ phiếu của khách hàng lại

hoàn toàn chưa được xem xét đến. Do vậy, số lượng tiền bẩn được tẩy rửa qua thị

trường chứng khoán thông qua các NHTM là có thể rất lớn, không kiểm soát được.

Điều này làm cho các ngân hàng phải đối mặt với rủi ro về uy tín, có thể dẫn đến

khả năng phá sản.

Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền

tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện cũng là một trở ngại đáng kể cho các NHTM xây

dựng một hệ thống pháp luật riêng cho mình trong công tác phòng chống rửa tiền

này. Hơn nữa, các NHTM nhỏ hoàn toàn chưa nhận thức được tầm quan trọng của

vấn đề này nên chưa hề có những động thái nhận biết và phòng chống hành vi này.

Chính vì thế những ngân hàng đó rất dễ bị bọn tội phạm lợi dụng để thực hiện rửa

tiền với số lượng lớn.

Có thể thấy hiện tại và trong tương lai, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ

thống ngân hàng Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nguy cơ rửa tiền rất cao.

Để hạn chế phần nào và có thể đẩy lùi nguy cơ này, chúng ta cần có các giải pháp

thích hợp dựa trên chiến lược phát triển ngân hàng và tình hình rửa tiền được dự

báo tại Việt Nam.

3.3. Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam

3.3.1. Các giải pháp dành cho Chính phủ

3.3.1.1. Về hệ thống pháp luật

84

Việc phòng chống rửa tiền đã, đang và sẽ luôn là một vấn đề mang tính toàn

cầu. Do đó để đấu tranh với bọn tội phạm rửa tiền, các quốc gia trên thế giới đều đã

xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp với tình hình văn hóa, chính trị và kinh tế

của quốc gia đó. Chúng ta có thể thấy một hệ thống pháp lý đồng bộ bao gồm một

hệ thống các văn bản sau: Luật, Pháp lệnh, Nghị định và các Thông tư hướng dẫn

chi tiết.

Cho đến nay, mặc dù Việt Nam đã có Luật phòng, chống rửa tiền riêng được

ban hành vào ngày 18/6/2012 nhưng công tác thực thi và chấp hành theo Luật vẫn

còn rất nhiều bất cập. Luật phòng, chống rửa tiền ra đời không chỉ tạo ra hành lang

pháp lý về phòng, chống rửa tiền mà còn quy định về các biện pháp phòng ngừa,

phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng,

chống rửa tiền. Phòng chống rửa tiền không đơn thuần chỉ là phòng chống tội rửa

tiền của các tổ chức mà phòng chống cả những hoạt động phạm pháp đã tạo ra

nguồn tiền đó. Do đó trong pháp luật về phòng chống rửa tiền cần có các yếu tố

quan trọng sau: liệt kê rõ ràng chi tiết những tội danh có liên quan đến hoạt động

rửa tiền. Việt Nam có thể tham khảo 20 tội danh mà Lực lượng đặc nhiệm chống

rửa tiền (FATF) đề xuất cho các quốc gia thành viên. Ngoài những tội danh bình

thường như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế thì Việt Nam cần đưa ra những tội

danh sau đây vào danh sách:

+ Những hành vi lạm dụng thân thế chính trị để làm giàu trái quy định

+ Các tội phạm môi trường hiện đang hoạt động mạnh mẽ ở mức báo động:

các cá nhân hay tổ chức đang khai thác tài nguyên môi trường trái phép,...

+ Các giao dịch nội gián: cố tình đánh giá thấp doanh nghiệp nhà nước nhằm

cổ phần hóa để chiếm hữu...

Khi Chính phủ và Quốc hội dám đưa ra các tội danh này bổ sung trong Luật

phòng chống rửa tiền cũng có nghĩa là Chính phủ đã chứng minh được sự quyết tâm

chống rửa tiền của mình, cũng như tỏ rõ chính kiến trong cuộc chiến không khoan

nhượng với các tội phạm nội bộ, quyết tâm không tồn tại bất cứ khu vực cấm nào

85

trong hoạt động phòng chống rửa tiền, kể cả liên quan đến chính trị hay các nhân

vật quan trọng trong tổ chức.

Các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống rửa tiền ở nước ta hiện đang

được xây dựng theo kinh nghiệm và luật pháp quốc tế, tuy nhiên những chuyển

động của dòng tiền tại Việt Nam có những đặc thù khác, nên chăng các cơ quan

chức năng nghiên cứu đặc thù của nền kinh tế, luật pháp, các tập quán giao dịch của

tổ chức và người dân nhằm “Việt Nam hóa” cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao

hơn. Nhà nước cần có những chính sách rõ ràng, nhất quán trong hoạt động phòng

chống rửa tiền, thiết lập một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, phân

định rõ trách nhiệm và quyền hạn để đảm bảo sự thống nhất trong việc thực thi các

biện pháp phòng chống rửa tiền. Bên cạnh đó, trong các văn bản pháp luật về đầu

tư, thương mại, hải quan... cần bổ sung các điều khoản về phòng chống rửa tiền phù

hợp với lĩnh vực đó để đảm bảo công tác phòng chống rửa tiền được triển khai một

cách đồng bộ và hiệu quả. Quan trong hơn là cần bổ sung thêm các quy định chặt

chẽ trong Pháp lệnh ngoại hối hướng tới các mục tiêu về phòng chống rửa tiền để

hạn chế khả năng rửa tiền của tội phạm. Vì trong pháp lệnh ngoại hối được ban

hành năm 2005, với các quy định về giao dịch ngoại tệ thông thoáng hơn trước giúp

các doanh nghiệp dễ dàng trong việc thanh toán, giao dịch với các đối tác nước

ngoài, đồng thời cũng tạo nên rất nhiều lỗ hổng giúp bọn tội phạm rửa tiền lợi dụng

chuyển tiền bẩn vào trong nước hoặc ra nước ngoài.

3.3.1.2. Về hệ thống chính sách

* Tăng cường phòng chống tham nhũng và xử lý nghiêm các trường hợp vi

phạm. Tham nhũng chính là nguồn gốc và rủi ro lớn nhất dẫn đến tội phạm rửa tiền.

Hiện nay Việt Nam chưa có một hệ thống pháp luật rõ ràng về vệc phòng chống

tham nhũng cũng khiến cho pháp luật về phòng chống rửa tiền trở nên lỏng lẻo, dễ

tạo kẽ hở nhằm lách luật. Bên cạnh đó, vấn đề phòng chống tham nhũng tại Việt

Nam vẫn chưa được diễn ra một cách triệt để vì nó liên quan đến nhiều người ở vị

trí cấp cao, dường như đã trở thành một hệ thống. Để phòng chống tham nhũng hiệu

quả hơn, phải chăng chúng ta cần phải chú trọng công tác giáo dục con người. Bên

cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường tuyên truyền giáo dục cho người dân nhận diện

86

được các hành vi tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Ngoài ra

còn phải công khai, minh bạch trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, đề ra một

số biện pháp tránh xung đột lợi ích riêng và chung. Cụ thể, cần xây dựng và thực

hiện quy chế tuyển dụng, đề bạt cán bộ một cách công bằng và dân chủ, quy định rõ

ràng về việc kê khai tài sản của công chức. Hơn nữa, công chức phải được hưởng

một chế độ đãi ngộ thỏa đáng, hợp lý để họ yên tâm làm việc mà không phải lo lắng

đến nhu cầu cuộc sống để hạn chế vấn đề tham nhũng. Quan trọng nhất là cần tăng

cường cải cách hành chính thông qua việc đơn giản hóa, công khai hóa các thủ tục

hành chính, áp dụng phương thức quản lý theo cơ chế “một cửa”. Khi phát hiện ra

các trường hợp tham nhũng thì cần có biện pháp mạnh xử phạt thật nặng, có thể gấp

nhiều lần giá trị tham nhũng. Tiền phạt nên được trích lập cho Quỹ phòng chống

tham nhũng để thưởng cho người đã đứng ra tố cáo hành vi đó. Cuối cùng, cần

thành lập Tổng cục điều tra tham nhũng, trực thuộc Quốc hội (ngang tầm với Tòa

án nhân dân tối cao) để đảm bảo tính độc lập, khách quan trong các quá trình điều

tra tham nhũng. Ở các tỉnh cũng cần có Cục điều tra tham nhũng, có quyền điều tra

tất cả các cơ quan nhà nước tại địa bàn.

* Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Ở Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trên

tổng phương tiện thanh toán trong vòng 10 năm qua mặc dù đã giảm mạnh từ mức

23,7% năm 2006 xuống còn 11,02% năm 2016 nhưng vẫn còn ở mức cao so với thế

giới. Rõ ràng, ở Việt Nam tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, chiếm tỷ

trọng lớn trong khu vực công, doanh nghiệp và dân cư. Có nhiều nguyên nhân lý

giải cho tình trạng thanh toán bằng tiền mặt, trong đó, nguyên nhân chính là do thói

quen sử dụng tiền mặt của người dân, tâm lý ngại sử dụng công nghệ mới, cảm thấy

không thoải mái khi sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử. Hạn chế về cơ sở hạ

tầng công nghệ thông tin của nhiều ngân hàng thương mại cũng làm ảnh hưởng đến

việc phát triển và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng điện tử tới người

tiêu dùng. Thêm vào đó, hệ thống quản lý thuế chưa phát triển khiến cho nhiều cá

nhân, doanh nghiệp có thể “lách luật”, thích sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền

mặt vì lợi ích cá nhân, hơn là sử dụng thanh toán qua ngân hàng (chuyển khoản, ủy

nhiệm chi), nhằm trốn tránh việc kiểm soát thuế từ phía các cơ quan chức năng.

87

Trên thực tế, việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt đã thật sự mang đến

nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia: thu hút nhiều hơn các khoản tiền nhàn rỗi trong xã

hội; tăng nguồn vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất; tăng khả năng kiểm soát khối

lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN, góp phần thúc đẩy điều hành chính sách

tiền tệ quốc gia; hỗ trợ các cơ quan chức năng tăng cường công tác phòng, chống

tham nhũng, tội phạm kinh tế, nâng cao lòng tin của nhân dân vào Ðảng và Nhà

nước. Ðặc biệt, đối với những quốc gia có hệ thống ngân hàng chưa phát triển mạnh

như Việt Nam hiện nay, việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt còn góp phần

tái cấu trúc hoạt động ngân hàng một cách thiết thực và hiệu quả thông qua việc đa

dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của xã

hội trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Ngoài ra, việc không sử dụng tiền mặt trong

lưu thông còn là một trong những thước đo quan trọng của việc ứng dụng công

nghệ thông tin đối với các dịch vụ ngân hàng thương mại Ðể đạt được mục tiêu

trên, cần tập trung làm tốt ba nhiệm vụ chủ yếu đó là: Phát triển thanh toán điện tử

với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an toàn, thuận tiện; lựa chọn áp dụng

một số mô hình thanh toán phù hợp với Việt Nam để xây dựng nền tảng, tạo bước

phát triển trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực nông thôn;

tăng cường quản lý thanh toán tiền mặt, giảm sử dụng tiền mặt trong các giao dịch

thanh toán. Ðồng thời triển khai thực hiện đồng bộ năm nhóm giải pháp:

Một là, bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách.

Hai là, nâng cao chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.

Ba là, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán, ứng dụng

các phương tiện thanh toán mới, hiện đại.

Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn trong toàn xã hội.

Năm là, đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ khác như tăng cường hợp tác quốc tế

để nhận được sự hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật; phối hợp giữa các cơ quan bộ, ngành trong

việc triển khai các giải pháp, nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cán bộ tham gia

xây dựng chính sách; kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động thanh toán trong nền

kinh tế…

88

Tính khả thi của đề án là rất rõ nét, chỉ xét riêng khía cạnh sử dụng dịch vụ

internet, Việt Nam được coi là thị trường tiềm năng để phát triển thương mại điện

tử, kéo theo đó là các dịch vụ thanh toán trực tuyến. Tuy nhiên, để biến tiềm năng

đó thành hiện thực thì sự nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý là chưa đủ, việc mở

rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng như sự thành công của đề án đang triển khai

phụ thuộc một phần rất lớn vào ý thức của từng người dân, từng doanh nghiệp hy sinh

lợi ích riêng trước mắt để hướng đến lợi ích chung của toàn xã hội. Góp phần giảm tỷ

lệ tiền mặt trong lưu thông và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ thanh toán điện tử trong

hoạt động kinh doanh và sản xuất, sinh hoạt. Ðồng thời, muốn phát triển các dịch vụ

thanh toán không dùng tiền mặt cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngân

hàng trong nước với các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử, nhằm bảo đảm

lợi ích chung của nền kinh tế, doanh nghiệp và của nhân dân.

* Thành lập cơ quan phòng chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ. Hoạt

động rửa tiền hiện nay không chỉ xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng mà còn len lỏi

vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Việc giao phó việc giải quyết vấn

đề phòng chống rửa tiền cho Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc

ngân hàng sẽ thiếu tính bao quát và khách quan. Hiện nay, các quốc gia trên Thế

giới có Luật chống rửa tiền sẽ đều thành lập tổ chức có chức năng tương tự như Cục

phòng chống rửa tiền tại Việt Nam nhưng đó là cơ quan tình báo tài chính và cơ

quan này trực thuộc chính phủ, thay mặt cho các quốc gia xử lý các thông tin và thu

thập điều tra về tội phạm rửa tiền. Như vậy, hoạt động phòng chống nạn rửa tiền sẽ

độc lập và khách quan hơn rất nhiều. Mặt khác, trong quá trình hợp tác quốc tế Cục

phòng chống rửa tiền của NHNN sẽ không thể là cơ quan đại diện cho quốc gia vì

nó không ngang tầm với các cơ quan tình báo tài chính các nước. Do vậy cần có

bước nâng tầm Cục phòng chống rửa tiền lên thành cơ quan chuyên trách về hoạt

động này.

* Phối hợp thực hiện giữa các bộ phận liên quan. Có thể thấy hoạt động rửa

tiền thực chất là tội phạm phái sinh của một loạt các tội phạm khác. Vì thế nên việc

phòng chống tội phạm rửa tiền cần phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ từ các

ban ngành khác nhau như: ngân hàng, công an, chứng khoán, bất động sản, bảo

89

hiểm... Nhưng để thiết lập được một cơ chế phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các

cơ quan tổ chức bộ ngành là một điều hết sức khó khăn. Trong giai đoạn đầu, chúng

ta có thể sắp xếp các bộ ngành có khả năng phối hợp với nhau như ngân hàng, công

an. Sau khi thấy phối hợp hiệu quả, có thể mở rộng phối hợp với nhiều phòng ban

khác. Để ngân hàng phối hợp hiệu quả với công an, cần: (i) Cục phòng chống rửa

tiền cần thường xuyên cập nhật “black list” hay còn gọi là “danh sách đen” do Bộ

công an cung cấp thông tin cho ngân hàng; (ii)Các giao dịch đáng ngờ được Cục

phòng chống rửa tiền chuyển tới Bộ công an để tiến hành điều tra cần phải có sự

phải hồi về kết quả điều tra trong thời gian quy định; (iii) Cơ quan cảnh sát điều tra

của Bộ công an và Cục phòng chống rửa tiền nên hợp tác cùng nghiên cứu tâm lý

tội phạm rửa tiền và các loại hình bọn tội phạm rửa tiền ở Việt Nam hay sử dụng,

qua đó cải tiến các biện pháp phòng chống và chia sẻ các kinh nghiệm phương pháp

điều tra.

3.3.2. Các giải pháp dành cho Ngân hàng Nhà nƣớc

3.3.2.1. Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hiện đại về phòng chống rửa tiền cho

Cục phòng chống rửa tiền

Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam có khoảng hơn 6 triệu giao dịch đáng ngờ

được báo cáo theo quy định lên Cục phòng chống rửa tiền nhưng Cục phòng chống

rửa tiền lại chưa được trang thiết bị về công nghệ thông tin phù hợp với nhiệm vụ

này. Vì thế Cục phòng chống rửa tiền chưa tập hợp được các giao dịch được báo

cáo từ ngân hàng thương mại. Vì vậy trong thời gian tới, Ngân hàng nhà nước rất

cần thiết phải đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin về phòng chống rửa tiền cho

Cục phòng chống rửa tiền. Hành động đầu tư này của Ngân hàng nhà nước sẽ giúp

cho Cục phòng chống rửa tiền có thể thu thập, phân tích dữ liệu, thống kê số liệu về

các giao dịch đáng ngờ được các NHTM báo cáo lên một cách chính xác, kịp thời

và nhanh chóng. Nhờ đó, Cục phòng chống rửa tiền có thể kịp thời phát hiện và xử

lý chính xác những giao dịch có nguy cơ rửa tiền cao, đưa ra cảnh báo chính xác đối

với NHTM đó và đề nghị cơ quan Công an vào cuộc tiến hành điều tra.

90

3.3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống rửa tiền

Ngay cả khi Luật phòng chống rửa tiền đã được ban hành, do công tác tuyên

truyền đến người dân chưa được tốt nên người dân hầu như chưa hiểu về phòng

chống rửa tiền, việc này đã tạo một tâm lý bất an cho người dân, ảnh hưởng rất lớn

đến các ngân hàng thương mại trong việc tiến hành các biện pháp phòng chống rửa

tiền. Vì thế để công tác phòng chống rửa tiền được hiệu quả, Ngân hàng nhà nước

cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống rửa tiền đầu tiên. Người dân

cần hiểu biết về các giao dịch phải được báo cáo, đó là nghĩa vụ của các ngân hàng

ghi lại và báo cáo về các giao dịch như là một nghiệp vụ nội bộ của Ngân hàng và

không liên quan đến khách hàng. Các thông tin này sẽ được giữ bí mật và chỉ di

chuyển nội bộ trong ngân hàng, chỉ khi Cục phòng chống rửa tiền yêu cầu thì ngân

hàng sẽ có nghĩa vụ cung cấp. Bên cạnh đó, NHNN cần tổ chức các lớp đào tạo về

kĩ năng phòng chống rửa tiền cho các cán bộ NHTM làm công tác giao dịch trực

tiếp với khách hàng để có thể giải thích kịp thời cho khách hàng về công tác phòng

chống rửa tiền mà ngân hàng đó đang cung cấp, nhằm tránh những hiều lầm đáng

tiếc từ khách. Bên cạnh đó NHNN cần bổ sung hướng dẫn để nhận diện giao dịch

đáng ngờ kể cả đối với các giao dịch có ý định thực hiện hoặc chưa được hoàn tất

nhưng đáng ngờ về bản chất.

3.3.2.3. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về phòng chống rửa tiền với các

NHTM.

NHNN nên thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về phòng chống rửa tiền

với các NHTM vì điều này chính là cơ hội để các NHTM đưa ra các ý kiến phản hồi

đến Cục phòng chống rửa tiền. Qua đó, Cục phòng chống rửa tiền có thể hạn chế

được các hành vi lợi dụng hệ thống NHTM để thực hiện các hành vi rửa tiền.

Những buổi tọa đàm trao đổi này sẽ khiến khoảng cách giữa NHNN và các NHTM

được rút ngắn lại. Từ đó rút ra được nhiều kinh nghiệm và bài học trong việc phòng

chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.

91

3.3.2.4. Ban hành các quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về phòng chống

rửa tiền

Bên cạnh việc ban hành quy trình nội bộ về phòng chống rửa tiền của các

NHTM, NHNN cũng cần ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về

phòng chống rửa tiền để cho các Luật, Nghị định, quy định của Nhà nước về phòng

chống rửa tiền có hiệu quả hơn nữa. Việc ban hành quy chế giám sát này sẽ khiến

cho Cục phòng chống rửa tiền nói riêng và Cơ quan thanh tra của NHNN nói chung

chủ động hơn trong việc thanh tra giám sát các NHTM, qua đó sẽ đưa ra được

những biện pháp có giá trị yêu cầu các NHTM thực hiện nghiêm chỉnh và chuẩn

mực theo các Luật, quy định, nghị định về phòng chống rửa tiền. Bên cạnh đó,

NHNN cần đưa thêm tiêu chí tuân thủ các quy định về phòng chống rửa tiền trong

bộ tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng các ngân hàng thương mại, cũng như là cho phép

thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, phê duyệt mở rộng mạng lưới, chi

nhánh của ngân hàng này. thực hiện tổng thể các biện pháp đưa các nội dung của

Basel II vào thực tiễn tại các ngân hàng thí điểm, từ đó mở rộng ra toàn hệ thống

các tổ chức tín dụng. Đồng thời nghiên cứu tính khả thi và xây dựng kế hoạch đưa

Basel III và Basel IV vào triển khai trên thực tế tại Việt Nam, nâng cao năng lực

kiểm soát rủi ro của các tổ chức tín dụng Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế.

3.3.2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác phòng

chống rửa tiền. Việc hợp tác này sẽ giúp Ngân hàng nhà nước có được những kinh

nghiệm quý báu trong việc trao đổi thông tin, hơn nữa sẽ nhận được nhiều sự giúp

đỡ, trợ giúp từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia có nhiều kinh nghiệm về chống rửa

tiền trong hệ thống ngân hàng.

3.3.2.6. Tăng cường năng lực của Cục Phòng, chống rửa tiền

NHNN cần tăng cường năng lực của Cục phòng chống rửa tiền bằng cách

tuyển dụng nhiều nhân tài về cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm thực tế trong công tác

phòng chống rửa tiền. Cục phòng chống rửa tiền cần trở thành một cơ quan đầu mối

thực thụ trong việc thu thập, chia sẻ và xử lý thông tin của các đối tượng báo cáo

92

theo Luật Phòng, chống rửa tiền. Trong đó bao gồm cả các giải pháp nâng cao

nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để Cục Phòng, chống rửa tiền

hoàn thành nhiệm vụ.

3.3.2.7. Hạn chế tình trạng đô la hóa trên thị trường tiền tệ Việt Nam.

NHNN cho phép các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi bằng USD cũng như việc

sử dụng tràn lan USD tại Việt Nam đã làm gia tăng quá trình đô la hóa. Đô la hóa sẽ

làm tăng nạn rửa tiền qua ngoại tệ. Bởi vậy, cần có các giải pháp nhằm hạn chế tình

trạng đô la hóa trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Những quyết định của NHNN trong

việc chống đô la hóa nền kinh tế được điểm lại đó là từ ngày 18/12/2015, mọi khoản

tiền gửi bằng USD chỉ được nhận lãi suất 0%. Trước đó vào ngày 25/9/2015,

NHNN đã tiến hành trước một bước hạ mức lãi suất về 0% đối với tiền gửi của tổ

chức (trừ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Giới phân tích nhận

định việc NHNN điều chỉnh lãi suất gửi USD còn 0% là một động thái tích cực

trong việc loại trừ tâm lý găm giữ USD trong dân cũng như của giới đầu cơ. Đó

cũng là một trong những bước đi quan trọng trong lộ trình chống đôla hóa nền kinh

tế. Không lâu sau đó, nhà điều hành đã thực hiện bước đi tiếp theo khi ngay từ

những ngày đầu năm 2016, cơ chế tỷ giá trung tâm được niêm yết hàng ngày. Theo

nhận định của các chuyên gia kinh tế, chính sách mới này không chỉ ngăn chặn hoạt

động đầu cơ “lướt sóng” mà còn giúp ổn định thị trường ngoại hối và tăng cường

giải pháp chống “đô la hóa” nền kinh tế. Nếu như theo cơ chế neo tỷ giá giữa VND

với USD trước đây, mỗi lần NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá, ngay lập tức các ngân

hàng thương mại cũng tăng giá USD. Với cơ chế tỷ giá trung tâm, diễn biến thị

trường hiện nay đã không theo xu hướng “té nước theo mưa.” Thậm chí, giá USD

trên thị trường giờ đây thường diễn biến trái chiều với tỷ giá trung tâm. Ngân hàng

Trung ương đã hoàn toàn chủ động trong điều hành tỷ giá và giữ cho tỷ giá tương

đối ổn định, thanh khoản thị trường tốt. Chúng ta có thể thấy nhờ nó, thanh khoản

của thị trường hiện nay rất tốt. Tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ giảm mạnh,

NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước. Việc thay

đổi cách thức điều hành tỷ giá cũng là bước đi tiếp theo trong lộ trình chống đô la

hóa, nâng cao vị thế của Đồng Việt Nam, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.

93

"Đây là bước đi tiếp sau các biện pháp đồng bộ đã được thực hiện trong thời gian

qua như thu hẹp đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển dần quan hệ huy

động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua-bán ngoại tệ. Hay ban hành Thông

tư 15/2015/TT-NHNN khuyến khích các ngân hàng thương mại sử dụng công cụ

phái sinh kỳ hạn trong giao dịch với khách hàng, giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ

xuống mức 0% với cả tổ chức kinh tế và khu vực dân cư, qua đó khuyến khích

doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm giữ VND để hưởng lợi tức cao hơn

thay vì đầu cơ tích trữ USD"

3.3.3. Các giải pháp dành cho Ngân hàng thƣơng mại

Ngân hàng thương mại là địa điểm chủ chốt của bọn tội phạm rửa tiền vì thông

qua các giao dịch ngân hàng, đặc biệt là chuyển khoản, tiền bẩn có thể được rửa

sạch một cách thuận lợi và thậm chí có thể lan truyền ra nhiều quốc gia khác nhau.

Dưới đây là nhóm giải pháp dành cho Ngân hàng thương mại:

3.3.3.1. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng (KYC)

Ngân hàng thương mại nào cũng nhất định phải xây dựng được chính sách

nhận biết khách hàng này vì nếu không có chính sách này, chúng ta sẽ không thể

hiểu được khách hàng và mục đích mở tài khoản của khách. Theo dõi, tìm hiểu

khách hàng một cách hợp lý và chính xác là một phần quan trọng trong việc kiểm

soát rủi ro của các NHTM. Các nội dung chính NHTM phải đưa vào chính sách

nhận biết khách hàng của mình là:

+ Nhận dạng khách hàng: Thời gian thích hợp cho việc nhận dạng là khi có

một số nội dung thông thường trên giấy tờ của khách hàng bị thay đổi đáng kể, hoặc

khi có sự thay đổi trên tài khoản so với hoạt động thông thường của khách. Quá

trình nhận dạng khách hàng được áp dụng một cách tự nhiên bên ngoài mối quan

hệ. Các NHTM cần xây dựng một chính sách nhận biết khách hàng một cách rõ

ràng nhất có thể. Dựa vào đó các NHTM đều lưu giữ đầy đủ các thông tin của

khách hàng một cách bảo mật. Đây là bước rất quan trọng cho phép các ngân hàng

quản lý được mối quan hệ với tất cả khách hàng.

94

+ Chấp nhận khách hàng: Các ngân hàng thương mại phải xây dựng những

quy định chấp nhận khách hàng một cách rõ ràng. Trong đó bao gồm việc miêu tả

cụ thể các loại khách hàng có thể dẫn đến nguy cơ rủi ro cao hơn mức bình thường

cho ngân hàng. Các yếu tố, đặc điểm của khách mà ngân hàng có thể khai thác được

từ bước thứ nhất như lý lịch, quốc tịch, chức danh, quê quán... cần phải được xem

xét kĩ lưỡng khi xây dựng những quy định trên. Dựa vào đó, các khách hàng sẽ

được phân loại rủi ro và các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp

nhận khách hàng theo mức độ rủi ro cho ngân hàng đồng thời đòi hỏi theo dõi

khách hàng đó sâu rộng hơn. Có 3 mức độ phân loại: (i) Low risk (Rủi ro ít); (ii)

Medium Risk (Rủi ro trung bình); (iii) High risk (Rủi ro cao). Thông thường

NHTM chỉ chấp nhận giao dịch và mở tài khoản với các khách hàng được đánh giá

là Low risk hoặc Medium Risk nếu như có sự đồng ý của Quản lý trực tiếp. Còn

những khách hàng vì một lý do nào đó mà bị xếp loại High risk thì NHTM sẽ ngay

lập tức từ chối mở tài khoản thiết lập quan hệ hoặc dừng cung cấp dịch vụ tài chính

cho khách đó (nếu như khách đó đang là khách hàng hiện tại)

+ Quản lý tài khoản:

Để nhận biết khách hàng hiệu quả và thành công, NHTM cần quản lý thường

xuyên các tài khoản và các giao dịch của khách hàng hiện tại, đặc biệt là khách

hàng đã được đánh giá rủi ro ngay từ đầu là medium risk. Các NHTM chỉ có thể

kiểm soát một cách chặt chẽ và hiệu quả để giảm thiểu rủi ro cho mình khi và chỉ

khi họ hiểu rõ khách và những giao dịch của khách. Đối với tất cả các tài khoản, các

NHTM phải có chương trình phát hiện ra những dấu hiệu bất thường hay có tồn tại

những hoạt động đáng ngờ. Các NHTM hoàn toàn có thể làm được điều này bằng

cách cài đặt lên hệ thống máy chủ những hạn mức giao dịch tối thiểu hoặc tối đa

cho từng tài khoản cụ thể, đồng thời đặc biệt chú ý đến những giao dịch vượt hạn

mức này

+ Quản lý rủi ro

Đặc biệt đối với các tài khoản có rủi ro cao, các NHTM càng cần phải chú ý

hơn nữa. Bản thân mỗi ngân hàng cần phải tự đặt ra những tiêu chí chủ yếu cho

95

khách hàng được xác định là rủi ro cao của mình. Ví dụ như thông qua quốc tịch,

thông qua nguồn vốn của khách, thông qua tính chất công việc của khách, loại giao

dịch được khách thực hiện và một số yếu tố rủi ro khác.Với những khách hàng này,

NHTM cần kiểm tra và giám sát tài khoản liên tục, báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu

có 1 tháng 1 lần, đồng thời cũng phải tạo mối quan hệ tốt với khách để khách không

đề phòng ngân hàng.

3.3.3.2. Thiết lập phòng ban riêng chuyên trách về phòng chống rửa tiền

Hiện nay, hầu hết các NHTM đều chưa có bộ phận phòng chống rửa tiền riêng

biệt. Mới chỉ có một vài ngân hàng lớn và một số ngân hàng nước ngoài tại Việt

Nam là có bộ phận riêng chuyên phụ trách về phòng chống rửa tiền. Tuy nhiên, tại

một số ngân hàng Việt Nam, những chuyên viên này cũng chỉ hoạt động mang tính

chất kiêm nhiệm nhiều nghiệp vụ khác nhau nên hoạt động phòng chống rửa tiền

chưa được hiệu quả cao như mong đợi.

Vì thế, việc chú trọng và nghiêm túc thành lập một bộ phận chuyên biệt về

phòng chống rửa tiền tại các NHTM là hết sức cần thiết. Bộ phận này sẽ là đơn vị

phải chịu trách nhiệm xây dựng và giám sát thực hiện các quy trình nội bộ, thực

hiện công việc thu thập, tổng hợp các thông tin về những giao dịch đáng ngờ được

báo cáo lên Cục phòng chống rửa tiền. Bên cạnh đó, đây cũng sẽ là bộ phận đề xuất

ra các biện pháp khác liên quan đến công tác phòng chống rửa tiền.

3.3.3.3. Nghiêm chỉnh thực hiện quy trình nội bộ về phòng chống rửa tiền

Sau khi Luật phòng chống rửa tiền ra đời đến nay hầu hết các NHTM đã ban

hành được quy trình nội bộ về phòng chống rửa tiền. Nhưng trên thực tế, công tác

triển khai thực hiện vẫn chưa được các nhân viên ngân hàng quan tâm nghiêm túc

và thực hiện theo đúng chuẩn. Vì thế, hiệu quả phòng chống rửa tiền tại các NHTM

nói chung và các NHTM có quy mô vừa và nhỏ nói riêng vẫn còn rất nhiều hạn chế.

Vì thế, một trong những biện pháp quan trọng trong giải pháp phòng chống

rửa tiền tại các NHTM để nâng cao hiệu quả phòng chống rửa tiền đó là các NHTM

cần phải triển khai thực hiện nghiêm túc và chú trọng vào quy trình nội bộ phòng

96

chống rửa tiền, có như thế các bước mới được diễn ra đúng như mong đợi khi đề ra

quy trình đó.

3.3.3.4. Hiện đại hóa công nghệ thông tin trong nội bộ ngân hàng

Vấn đề công nghệ thông tin trong nội bộ ngân hàng rất phức tạp và cần được

chú trọng, đầu tư. Nếu không có công nghệ thông tin, các nhân viên ngân hàng

không làm việc hiệu quả và năng suất, quản lý không thể kiểm soát được các hoạt

động của ngân hàng. Hàng ngày, mỗi nhân viên ngân hàng phải thực hiện hàng trăm

giao dịch khác nhau, nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin thì sẽ mất rất

nhiều thời gian và công sức mà lại không được chính xác.

Vì thế, để hiện đại hóa công nghệ thông tin hay chính là tin học trong nội bộ

ngân hàng, lãnh đạo ngân hàng cần đầu tư mạnh tay cho các phần mềm phục vụ

công tác phòng chống rửa tiền nhằm ngăn chặn ngay từ đầu những giao dịch có độ

rủi ro cao. Những phần mềm này có khả năng cảnh báo đối với các khách hàng nằm

trong “black list”, đồng thời lọc tách dữ liệu nằm trong mức giao dịch phải báo cáo

định kỳ, phân loại tài khoản theo mức độ rủi ro... Qua việc đầu tư phần mềm tin học

có ích này, ngân hàng sẽ hạn chế được các rủi ro liên quan đến rửa tiền đến với

ngân hàng mình một cách trực tiếp nhất.

3.3.3.5. Chú trọng vào đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ phòng chống rửa tiền

Như trên đã nói, các NHTM cần phải có ngay lập tức một bộ phận riêng

chuyên trách về phòng chống rửa tiền nhưng trên thực tế, số nhân viên hiểu biết và

nắm rõ về nghiệp vụ phòng chống rửa tiền ở nước ta bây giờ còn rất hạn chế. Chính

vì vậy, các ngân hàng sau khi đã thành lập được bộ phận này cần phải có chương

trình đào tạo chuyên môn về phòng chống rửa tiền cho các nhân viên này, để các

nhân viên có thể hiểu được một cách sâu sắc về quy trình phòng chống rửa tiền. Nội

dung cốt lõi trong công tác đào tạo phòng chống rửa tiền là đào tạo theo dõi, nhận

biết và cập nhật thông tin khách hàng. Từ những nhân viên chuyên trách này, ngân

hàng nên tiếp tục đào tạo cho các nhân viên, cán bộ làm việc ở các bộ phận khác

nhau trong ngân hàng, đặc biệt là các nhân viên làm việc tiếp xúc trực tiếp với

khách hàng, là tầng lớp đầu tiên của ngân hàng đối mặt với nguy cơ bị lợi dụng rửa

97

tiền của bọn tội phạm. Vì thế đối với mỗi bộ phận khác nhau trong ngân hàng cũng

cần phải có những chương trình và thời gian đào tạo phù hợp cho từng nghiệp vụ.

Đội ngũ nhân viên mới của ngân hàng cũng cần phải ngay lập tức được trang bị về

kiến thức cũng như tầm quan trọng của chính sách nhận biết khách hàng và những

yêu cầu cơ bản tại ngân hàng để phòng chống rửa tiền. Qua đó các nhân viên mới và

cũ sẽ thực hiện việc nhận biết, nghi ngờ, theo dõi và xem xét kỹ lưỡng với các

khách hàng được nhận định là có rủi ro cao, để kịp thời phát hiện ra các giao dịch

đáng ngờ để hạn chế rủi ro cho ngân hàng.

3.3.3.6. Hợp tác chặt chẽ với Cục phòng chống rửa tiền

Ngoài việc thành lập bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền, hiện đại

hóa công nghệ tin học, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao,... thì các NHTM

cũng cần phải quan tâm và phối hợp chặt chẽ với Cục phòng chống rửa tiền của

NHNN. Hành động hợp tác chặt chẽ này không chỉ giúp các NHTM nhận được sự

tư vấn chính xác trong việc xây dựng các biện pháp phòng chống rửa tiền và xử lý

các giao dịch đáng ngờ, mà đây còn là cơ hội để Cục phòng chống rửa tiền nhận

được sự phản hồi chính xác từ phía các NHTM trong công tác thực hiện các quy

định pháp luật về phòng chống rửa tiền. Nếu có điều gì còn khó khăn, bất hợp lý,

các NHTM có thể trao đổi thẳng thắn, cụ thể lại với Cục phòng chống rửa tiền để

Cục sẽ trình lên Chính phủ có những thay đổi, điều chỉnh hợp lý, thống nhất.

Như vậy, trên đây tác giả đã trình bày một số giải pháp trong công tác phòng

chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam thông qua những kết quả và

tồn tại trong công tác phòng chống rửa tiền thời gian qua. Những giải pháp này

được đưa ra cho từng nhóm thực hiện và có tác dụng cụ thể đến từng nhóm đối

tượng đó. Nhưng để thực hiện tốt các giải pháp đó thì rất cần sự phối hợp đồng bộ,

thống nhất giữa các đơn vị trên.

98

KẾT LUẬN

Ngày nay, với sự bành trướng của nạn tham nhũng, buôn ma túy và buôn lậu

vũ khí trên toàn thế giới đã làm tăng nhu cầu rửa tiền. Để đáp ứng nhu cầu này, dịch

vụ rửa tiền ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở nên ngày càng tinh vi với các kĩ

thuật cao cấp hơn. Xu hướng hiện nay đang là chuyển tiền bẩn sang các nước đang

phát triển nhưng hệ thống ngân hàng vẫn còn rất non trẻ lại chưa chú trọng vào hoạt

động phòng chống rửa tiền và Việt Nam cũng là một trong những quốc gia như thế.

Chính vì vậy, khả năng bị lợi dụng rửa tiền tại Việt Nam đặc biệt là qua hệ thống

ngân hàng là rất cao.

Nhằm mục tiêu góp phần giảm bớt các rủi ro trên, luận văn đã cố gắng sử

dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu như tổng hợp thống kê số liệu, suy luận và

đúc rút từ những tồn tại để ra được giải pháp trong thời gian tới. Luận văn đã hoàn

thành được những nhiệm vụ chính sau đây:

Thứ nhất, luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận về hoạt động rửa tiền, tác

động của nó đến nền kinh tế xã hội. Bên cạnh đó cũng đưa ra được quy trình và các

phương thức rửa tiền hiện nay và các kinh nghiệm quý báu từ một số quốc gia đã

đạt được những thành công nhất định trong cuộc chiến chống rửa tiền này.

Thứ hai, luận văn đã phân tích được thực trạng rửa tiền và công tác phòng

chống rửa tiền tại Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng tại Việt Nam nói

riêng trong thời gian vừa qua. Thông qua đó, luận văn đưa ra được những tồn tại

đang diễn ra trong công tác phòng chống rửa tiền cần phải giải quyết triệt để trong

thời gian tới.

Cuối cùng, luận văn đã dựa vào tình hình thực tế và những tồn tại đã tìm hiểu

kĩ bên trên để đưa ra các nhóm giải pháp dành cho các đối tượng khác nhau trong

công cuộc phòng chống rửa tiền đó là: Nhà nước, Ngân hàng nhà nước và ngân

hàng thương mại.

Trên đây là những nội dung chính được đề cập đến trong luận văn. Trong quá

trình nghiên cứu, do bị hạn chế về thời gian và tài liệu, tác giả còn rất nhiều thiếu

sót. Vì vậy tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các

độc giả quan tâm.

Xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/ TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Hải Bình (2005), Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số lưu ý khi

áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng số 11, Hà Nội

2. Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống

rửa tiền

3. Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 - 2020.

4. Nghị định 116/2013/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Phòng chống rửa tiền.

5. Lê Vinh Danh (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

6. Trần Hữu Dũng (2005), Rửa tiền và toàn cầu hóa, Thời báo Kinh tế Sài Gòn

7. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), Rửa tiền trở ngại cho phát triển

kinh tế, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 186, TP Hồ Chí Minh

8. Trần Huy Hoàng, Ths Trần Thị Lan Phương (2006), Phòng chống rửa tiền ở Việt

Nam, Tạp chí kinh tế phát triển, số 186, TP Hồ Chí Minh

9. Lê Xuân Hiền, Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam,Trường

Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh, năm 2010

10. Đoàn Hồng Lê (2009), Kinh nghiệm của Hồng Kong vào việc chống tội phạm

rửa tiền ở nước ta hiện nay, Tạp chí sinh hoạt lý luận, số 4/2009

11. Trần Phương Linh, Trần Văn Lợi, Nguyễn Thị Kim Ngọc, Lê Nguyễn Quốc Trung, Hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền; Thiên đường thuế, Trường Đại Học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, năm 2013

12. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2017), Báo cáo thường niên năm 2016, Hà Nội

13. Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà Nội

14. Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước

hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền

15. Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày 18/11/2014 của Ngân hàng Nhà nước sửa

đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 35/2013/TT-NHNN

16. Lê Thị Mận và Nguyễn Thanh Giang, ngày 05/11/2015; Phòng chống rửa tiền,

những vẫn đề còn nan giải; Trường Đại học Kinh tế-Tài chính TP Hồ Chí Minh

17. Nguyễn Thị Kim Oanh, Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, năm 2010

18. Ngô Thái Phương (2006), Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố - kinh nghiệm cua

một số nước trong khu vực, Tạp chí ngân hàng, số 9, Hà Nội

19. Luật Phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13 của Quốc hội quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

20. Liên Hợp Quốc (1988), Công ước Viên về chống buôn lậu ma túy tổng hợp và

các chất hướng thần, Vienna

21. Liên Hợp Quốc (2000), Công ước Palermo về chống tội phạm có tổ chức,

Palermo

22. Nguyễn Thị Minh Quế (2005), Một số ý kiến về rửa tiền và phòng chống rửa tiền trong các giao dịch tài chính giữa nước ta với nước ngoài, Tạp chí ngân hàng, số 12, Hà Nội

23. Robert Procope, Ludmila Greechanik (2005), Cuộc chiến chống rửa tiền, Tạp chí

ngân hàng, số 12, Hà Nội

24. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và tài trợ

khủng bố, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội

25. Phạm Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

26. Nguyễn Thị Thu Trang, Rửa tiền và chống rửa tiền – Hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam, Đại Học Ngoại Thương Hà Nội, Năm 2003

II/ TIẾNG ANH

27. FATF (2016), First Mutual Evaluation Report on Anti-money Laundering and

Combating the financing of terrorism in USA, France

28. Reuter, Peter, và Truman, Edwin R. (2004), Chasing Dirty Money, Washington

D.C: Institute for International Economics

29. Baker, Raymond W. (2005), Capitalism’s Archilles Heel, NY: Wiley

III/ WEBSITE

30. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn/ 31. Đỗ Huyền (2016), Chống nguy cơ đô la hóa nền kinh tế, Những bước tiến mới của Ngân hàng Nhà nước, http://www.doanhnhansaigon.vn/thoi-su-trong- nuoc/chong-nguy-co-do-la-hoa-nen-kinh-te-nhung-buoc-tien-moi-cua- nhnn/1096633/, ngày truy cập: 23/2/2017

32. Trịnh Thanh Huyền, Nguyễn Thị Mai (2015), Quản lý rủi ro về phòng chống rửa tiền, Tạp chí Tài Chính, http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-

khung-bo/quan-ly-rui-ro-ve-phong-chong-rua-tien-64441.html, ngày truy cập: 25/12/2016

33. Phòng chống rửa tiền, nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí tài chính (27/10/2016),

34.

Số cho Tạp Việt Nam, hàng, chí Ngân

35.

36.

http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-khung-bo/phong-chong- rua-tien-nguyen-nhan-va-giai-phap-95373.html, ngày truy cập: 14/2/2017 Văn Tạo và Kim Anh, Phòng chống rửa tiền, kinh nghiệm của các nước và bài học 1/2010, http://www.luatdaiviet.vn/xem-tin-tuc/phong-chong-rua-tien-kinh-nghiem-cua- cac-nuocva-bai-hoc-cho-viet-nam.html, ngày truy cập: 28/11/2017 Giải pháp phòng chống rửa tiền thông qua các tổ chức tín dụng, Tạp chí tài chính (2016), http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-khung- bo/giai-phap-phong-chong-rua-tien-thong-qua-cac-to-chuc-tin-dung-94462.html, ngày truy cập: 30/3/2017 Khung pháp luật về phòng chống rửa tiền và những vấn đề đặt ra, Tạp chí tài chính (2016), http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-khung- bo/khung-phap-luat-ve-phong-chong-rua-tien-va-nhung-van-de-dat-ra- 94461.html, ngày truy cập: 15/1/2017

38.

37. Ngân hàng là cửa ngõ chính của hoạt động rửa tiền, Vnexpress.net (4/6/2012), http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/ngan-hang-la-cua-ngo- chinh-cua-hoat-dong-rua-tien-2720322.html, ngày truy cập: 3/12/2016 Steve Culp (2015), Banks Need Strong, Standardized Anti-Money Laundering Programs To Fight Financial Crime, https://www.forbes.com/sites/steveculp/2015/12/07/banks-need-strong- standardized-anti-money-laundering-programs-to-fight-financial- crime/#18267bc017a5, ngày truy cập: 25/12/2016

39. Financial Conduct Authority (2015), Money laundering and terrorist financing,

https://www.fca.org.uk/firms/financial-crime/money-laundering-terrorist- financing, last updated: 15/06/2016, ngày truy cập: 30/3/2017

40. Lexis Nexis Risk Solution (2017), Anti-money Laundering Solutions,

truy cập:

http://www.lexisnexis.com/risk/intl/en/anti-money- laundering.aspx?gclid=CKDzkPSpt9MCFdOKaAod7iUPFQ, ngày 15/3/2017

41. Canadian Bankers Association (2017), Banks’ efforts to prevent money laundering and terrorist financing, http://www.cba.ca/money-laundering, ngày truy cập: 15/3/2017